Sau khi trải qua mấy kỳ kiết-tập, nội dung
Kinh-điển Phật-giáo thật phong phú, sách vở rất nhiều, đời sau lại còn
tăng thêm mãi. Hiện thời pháp tạng đang lưu truyền gồm có đến 5000 quyển,
7000 quyển, hoặc 8000 quyển. Nhìn khắp tất cả tôn-giáo trên thế giới,
không có đạo nào Kinh-điển nhiều bằng ba tạng của Phật-giáo.
Trong hai lần kiết-tập đầu tiên, chư Tăng
thi hành pháp sự theo thể thức hội tụng (Samgìti), chưa dùng cách biên
chép. Thể thức nầy là đại chúng vân tập ở một nơi, rồi cùng nhau đọc lại
và xét định những lời lẽ của Phật đã dạy để lưu truyền. Bởi theo tập tục
của thời đó, người ta cho rằng viết chép là làm mất giá trị của
thần-thánh. Lại còn một nguyên nhân nữa, là do thiếu những dụng cụ biên
chép mà phải như thế. Chẳng hạn, như tình trạng thời xưa ở Trung-Hoa, vì
thiếu giấy bút nên người đời Lưỡng Hán muốn lưu lại điều chi, phần nhiều
đều dùng cách truyền khẩu.
Nhưng đến hai lần kiết-tập sau, nhằm vào
thời vua A-Dục và Ca-Nị-Sắc-Ca, ngoài cách hội tụng, các đệ-tử Phật còn
ghi chép Tam-tạng thành sách vở. Sự kiện nầy đã được thể hiện bằng hai lối
văn tự: Ba-ly (Pali) và Phạm-ngữ (Sanskrit).
Trong phái quý tộc Ấn-Độ lại có sẵn một
lối nhã ngữ đã lưu hành, được gọi là thứ tiếng của người học thức, hợp với
vận luật kinh Phệ-Ðà. Khi Đức Phật còn tại thế, vì bình đẳng thí pháp đối
với bốn giai cấp, ít khi Ngài dùng thứ nhã ngữ ấy. Nhưng sau khi Ðức
Thế-Tôn niết-bàn khoảng một trăm năm, ông Ba-Nhĩ-Ni (Pànini) là một học
giả chuyên về văn pháp, đem thứ nhã ngữ ấy quy định lại rất rõ ràng, được
nhiều người khen ngợi, cổ xúy cho sự lưu thông. Nhân đó, Phật-giáo-đồ cũng
thu dụng thứ tiếng ấy để biên chép kinh Phật. Vậy kinh Phật bằng tiếng
Phạm hoặc tiếng Ba-ly, thứ nào trước, thứ nào sau, điều đó, thật ra ta
chưa tìm được bằng chứng. Nhưng xét về khu vực lưu hành của mỗi thứ, ta
thấy rõ ràng không đồng nhau. Như kinh Phật bằng tiếng Ba-ly thì lưu hành
về phương Nam, mà Tích-Lan là trung tâm điểm. Còn kinh Phật bằng tiếng
Phạm được lưu truyền sang miền Bắc, trung tâm điểm trước kia là xứ
Ca-Thấp-Di-La, sau lần chuyển sang Trung-Quốc.
Vào thời vua A-Dục, trước tiên có hai vị A-la-hán
là Ma-Sấn-Đà và Nhất-Địa-Tẩu sang Tích-Lan truyền giáo. Sau lại có con gái
A-Dục-Vương là Tăng-Già-Mật-Đa (Sanghamittà) mang một nhành cây bồ-đề từ
nơi Đức Phật thành đạo tới trồng tại Tích-Lan, mà trong sử gọi là chuyển
cây “Thánh-thọ”. Đương thời vị quốc-vương bản xứ là Thiên-Ái-Đế Tu
(Devànàmpriya - Tissa) tín ngưỡng chánh-pháp rất mạnh. Người đã cúng khu
vườn Mi-Già và lập tinh-xá để chư Tăng cư trú, về sau thành một cảnh chùa
rất nguy nga. Nơi đây là cơ sở của Đại-Tự-Phái (Mahàvihàra), thuộc
Thượng-Tọa-bộ (Theriyanikàya). Những Kinh-điển do hai vị A-la-hán đem
truyền sang Tích-Lan là pháp tạng kiết-tập trong kỳ thứ ba, ghi chép bằng
thứ ngôn ngữ phổ thông của xứ Ấn-Độ, lấy gốc ở tiếng Ma-Ga-Đi (Magadhi).
Về sau người Tích-Lan canh cải ngôn ngữ nầy thành tiếng Ba-ly (Pali). Và
thứ tiếng nầy được dùng để ghi chép Kinh-điển của Nam-truyền Phật-giáo.
Vào khoảng thế kỷ đầu của Tây-lịch, tại
Tích-Lan có Vô-Úy-Vương (Vathagàmani - Abhaya) lên ngôi, rất sùng tín đạo
Phật. Vua cho xây dựng một cảnh chùa rất to lớn tại núi Vô-Úy (Abhaya) gọi
là Vô-Úy-Sơn-Tự (Abhayagiri) để cúng dường Tam-bảo. Về sau, chư Tăng ở đây
vì bất đồng ý kiến về giới luật, chia rẽ với phái Đại-Tự, và biệt lập một
môn phái gọi là Vô-Úy-Sơn-Tự, thuộc Pháp-Hỷ-bộ (Dhamaruci - Nikàya). Vị
quốc-vương đương thời thấy thế mới triệu thỉnh 500 vị Ðại-đức Tỷ-khưu, căn
cứ vào ba tạng khẩu truyền bằng tiếng Ba-ly, đính chánh cẩn thận rồi chép
vào sách. Tại Tích-Lan, kinh Phật bằng tiếng Ba-ly có sự ghi chép bắt đầu
từ đó. Tuy nhiên, về phần chú thích, người ta vẫn còn viết bằng thứ thổ
ngữ của Tích-Lan. Còn cách biên chép thì họ y theo tục lệ Ấn-Độ, dùng lá
cây Bối-đa-la (Battrà) lấy kim chích thành văn tự rồi nhuộm mực, có thể để
lâu đời không phai.
Ở triều vua Cù-Đàm-Bà-Gia (Gotabhaya),
nhằm 205 năm sau kỷ nguyên, Phật-giáo Tích-Lan lại phát sanh ra một phái
mới gọi là Kỳ-Đà-Lâm-Tự phái (Jetavana). Như vậy Phật-giáo Tích-Lan thời
nầy có ba phái đối lập nhau.
Phật-giáo Tích-Lan từ thời cổ vẫn truyền
tụng bằng cách đọc thuộc lòng, nhưng cuối triều đại Ba-Đà-Già-Ma-Ni-Vô-Úy
(Vatthagàmani - Abhaya), Kinh-điển mới bắt đầu được ghi chép bằng tiếng
Ba-ly. Đến đầu thế kỷ thứ năm, có ngài Phật-Âm (Budhaghosa), người xứ
Trung-Ấn đến Tích-Lan, ngài nghiên cứu giáo lý của Đại-Tự-Phái, chế tác ra
bộ Thanh-Tịnh-Ðạo-Luận (Visuddhimagga). Nội dung của bộ nầy là một thể hệ
tam học, và cũng là một giáo học hoàn bị của Đại-Tự-Phái. Là một vị thông
minh bác học, Phật-Âm Tôn-giả đem phần chú thích Tam-tạng bằng thổ ngữ
Tích-Lan, chép lại thành tiếng Ba-ly. Những bộ phận chú thích chưa xong,
thì ngài Hộ-Pháp (Dharmapàla) tiếp tục hoàn thành. Bấy giờ kinh Phật bằng
tiếng Ba-ly ở Tích-Lan mới được chỉnh bị. Vì thế, các học giả gần đây đều
tôn xưng ngài Phật-Âm là vị giáo tổ thứ hai của Phật-giáo Tích-Lan. Xem
đó, chúng ta có thể biết được lòng tôn sùng của họ là thế nào.
Tiết III: Kinh Phật Tiếng Phạm
Khi Phật còn tại thế thuyết pháp, Ngài
dùng thứ ngôn ngữ phổ thông, tức là tục ngữ của miền Ðông Ấn-Độ. Sau khi
Ðức Thế-Tôn nhập diệt, giáo pháp của Ngài được ghi chép bằng hai thứ
tiếng: Phạm và Ba-ly. Tiếng Ba-ly tương tợ với tục ngữ Ấn-Độ, còn tiếng
Phạm là một lối nhã ngữ ở bản xứ được ông Ba-Nhĩ-Ni tu chỉnh lại.
Về kinh Phật bằng tiếng Phạm, đại khái đến
đời vua Ca-Nị-Sắc-Ca mới hoàn bị. Tương truyền rằng việc thẩm định
Tam-tạng hồi thời ấy, nếu thứ nào không có bản truyền lại, chư Tăng chép
thành bản mới, thứ nào đã có sẵn, cũng đem ra giáo chính kỹ càng. Cho nên
những kinh chữ Phạm lúc bấy giờ rất đầy đủ. Tại nước Trung-Hoa, khi kinh
Phật từ Tây-Vức truyền đến, là đã có ngay bản chữ Phạm. Dọc theo miền
Ni-Bá-Nhĩ (Népal) còn rất nhiều bản kinh chữ Phạm truyền lại, nhưng vì hệ
thống kết cấu toàn thể không hoàn bị bằng Tam-tạng tiếng Ba-ly, nên rất
khó cho người nghiên cứu.
Vào khoảng thế kỷ thứ bảy Tây-lịch, ở
Tây-Tạng có vua Song-Tán-Tư-Cam-Phổ ra đời. Quốc-vương là một tín đồ thuần
thành của đạo Phật. Ngài có cho mười sáu quan-đại-thần do ông
Đoan-Mỹ-Tam-Bồ-Đề lãnh đạo, sang Ấn-Độ học chữ Phạm và Kinh-điển
Phật-giáo. Các vị nầy lưu trú tại xứ Nam-Thiên-Trúc bảy năm, lúc trở về có
đem theo rất nhiều kinh tượng và pháp khí. Sau khi về đến nước nhà, mười
sáu đại-thần căn cứ theo Phạm-ngữ chế ra chữ Tây-Tạng và phiên dịch
Kinh-điển. Đây là giai đoạn mở đầu của kho pháp giáo Tây-Tạng trong hệ
thống phương Bắc Phật-giáo.
Sau khi đó, Phật-giáo ở Tây-Tạng rất thịnh
hành và được chuyển đổi lại thành quốc giáo. Các vị cao-tăng Ấn-Độ đến
Tây-Tạng hoằng pháp, cũng chuyên về việc phiên dịch Kinh-điển Phạm-văn ra
chữ Tây-Tạng. Hầu hết kinh Phật Trung-Hoa tuy được dịch ra từ Phạm-văn,
nhưng đôi khi cũng có thứ phiên dịch từ văn tự Tây-Tạng.
Hiện thời kinh Phật ở Tây-Tạng chia ra làm
hai loại: Một là Cam-Thù-Nhĩ (Kanjur), có nghĩa: “Lời Phật dạy”, biên tập
tất cả kinh và luật, gồm 108 bộ sách lớn. Hai là Đan-Thù-Nhĩ (Tanjur), có
nghĩa “Lý-Luận”, biên tập những thứ biện luận và trứ tác, gồm 225 pho
sách.
Kinh-điển Tây-Tạng được thạnh truyền ở
miền Trung-Á. Vào khoảng thế kỷ thứ mười ba, vua Thế-Tổ nhà Nguyên là
Hốt-Tất-Liệt, xâm nhập Tây-Tạng, tín dụng Lạt-Ma-Giáo và phong cho
Phát-Tư-Ba làm Quốc-sư. Vâng lệnh vua, Quốc-sư chế ra chữ Mông-Cổ, rồi căn
cứ vào kinh Phật của Tây-Tạng mà dịch thành Ðại-tạng-kinh bằng tiếng
Mông-Cổ.
Nước Trung-Hoa vào thời Hán-Minh-Đế, niên
hiệu Vĩnh-Bình thứ mười (sau kỷ nguyên 6, 7 năm), có hai vị A-la-hán là
Ca-Diếp-Ma-Đằng và Trúc-Pháp-Lan từ Ấn-Độ đến. Hai vị ấy lưu trú tại chùa
Bạch-Mã, tỉnh Lạc-Dương, bắt đầu dịch kinh Tứ-Thập-Nhị-Chương và
Thập-Địa-Đoạn-Kiết. Về sau, các triều đại khác đều lấy việc phiên dịch
Tam-tạng làm phần chính trong công cuộc quảng bá Phật-giáo.
Tiết IV: Hai Hệ Thống Kinh Ðiển Phật Giáo
Phật-giáo chia thành hai hệ thống lớn là
Đại-thừa và Tiểu-thừa. Những nước thuộc hệ thống Đại-thừa Phật-giáo như:
Bắc-Ấn, các địa phương Trung-Á, Tây-Tạng, Mông-Cổ, Mãn-Châu, Trung-Hoa,
Việt-Nam, Triều-Tiên, Nhật-Bản. Các nước thuộc hệ thống Tiểu-thừa
Phật-giáo như: Nam-Ấn, Tích-Lan, Miến-Điện, Thái-Lan, Ai-Lao, Cao-Miên.
Phật-giáo ở những nước nầy gọi là Nam-truyền hay Nam-phương Phật-giáo.
Kinh-điển của Nam-phương Phật-giáo được ghi chép bằng tiếng Ba-ly, nên gọi
là Ba-ly Phật-điển. Kinh-điển của Bắc-phương Phật-giáo được ghi chép bằng
tiếng Phạm, nên gọi là Phạm-ngữ Phật-điển.
Tuy phân chia Đại-thừa, Tiểu-thừa hay
Nam-truyền, Bắc-truyền, song thật ra Bắc-truyền Phật-giáo cũng gồm có
Kinh, Luật, Luận của Tiểu-thừa; Nam-truyền Phật-giáo cũng có nơi xen lẫn
giáo lý Đại-thừa. Danh từ Bắc-phương hay Nam-phương Phật-giáo là chỉ cho
hai hệ thống Kinh-điển Phạm-ngữ và Ba-ly, chớ không phải chỉ trên phương
diện địa lý. Chẳng hạn như đảo Xà-Bà (Java), địa cảnh thuộc về Nam-phương,
nhưng nhân dân xứ ấy đã từng tín phụng Bí-mật-giáo của Đại-thừa. Các nhà
khảo cổ đã tìm thấy tại đảo nầy những tượng Phật, Bồ-Tát và Kinh-điển của
Đại-thừa Phật-giáo.
Tiết V: Ba Tạng
Kinh-điển đạo Phật chia ra làm ba loại,
người ta thường gọi là Tam-tạng: Kinh, Luật, Luận.
“Kinh” là những pháp về giáo lý, giải,
hạnh, do Ðức Như-Lai nói ra, hoặc hàng Bồ-Tát, Thanh-Văn, Duyên-Giác hay
Hóa-nhân nói mà được Phật ấn chứng. Đạo pháp nầy hợp với chân lý, căn cơ,
để cho người học Phật tu hành dứt trừ phiền não. “Luật” là những giới luật
của Phật chế định, để cho hàng đệ-tử y theo đó ngăn trừ những phi hạnh, tu
tập các pháp lành, thân tâm lần lần được thanh tịnh. “Luận” có nghĩa: bàn
luận, là những sách do các đệ-tử Phật viết ra, để phát huy nghĩa lý nhiệm
mầu trong kinh luật. Đây là bộ phận triết học của Phật-giáo, có công năng
quyết đoán tánh tướng các pháp, phân biệt lẽ chánh tà, khiến cho học giả
khỏi nhận lầm.
Những điểm đồng và dị của Tam-tạng như thế
nào? Luận Tỳ-Bà-Sa nói:
Chư Phật ra đời đều có ba tạng
(Tripitaka): Tu-Đa-La (Sùtra), Tỳ-Nại-Gia (Vinaya), A-Tỳ-Đạt-Ma
(Abhidharma). Ba tạng nầy thật ra không khác mà khác, hay nói ngược lại.
Không khác là tất cả Phật-giáo đều từ nơi một biển trí mà sanh ra, đều
đồng một nhiếp thọ, lực, vô úy, và đều do tâm đại bi phát khởi. Có khác là
Tu-Đa-La y nơi tâm mà luận, Tỳ-Nại-Gia y nơi giới mà luận, A-Tỳ-Đàm y nơi
huệ mà luận. Đây là nói về sở y sai biệt. Lại, Tu-Đa-La do nơi thứ đệ mà
hiển, Tỳ-Nại-Gia do nơi duyên khởi mà hiển, A-Tỳ-Đàm do nơi tướng tánh mà
hiển. Đây là nói về sở hiển sai biệt. Lại, Tu-Đa-La thuộc về dòng trí lực,
Tỳ-Nại-Gia thuộc về dòng đại bi, A-Tỳ-Đàm thuộc về dòng vô úy. Đây là nói
về đẳng lưu sai biệt. Công năng của Tu-Đa-La là: người chưa trồng căn
lành, khiến cho trồng căn lành. Công năng của Tỳ-Nại-Gia là: người đã
trồng căn lành, khiến cho tiếp tục được thành thục. Công năng của A-Tỳ-Đàm
là: người đã chủng căn lành thành thục, khiến cho được sự giải thoát chân
chánh. Đây là nói về sở vi sai biệt. Tu-Đa-La do hàng thỉ nghiệp mà nói,
Tỳ-Nại-Gia do hàng quán tập mà nói, A-Tỳ-Đàm do hàng đã vượt qua sự tác ý
mà nói. Đây là nói về phận vị sai biệt. Nẻo tiến của Tu-Đa-La là: người
chưa vào chánh-pháp, khiến cho vào chánh-pháp. Nẻo tiến của Tỳ-Nại-Gia là:
người đã vào chánh-pháp, khiến cho thọ trì học xứ. Nẻo tiến của A-Tỳ-Đàm
là: người đã thọ kỳ học xứ, khiến cho thông đạt tánh tướng chân thật của
các pháp. Đây nói về tiến thú sai biệt.
Trong Tu-Đa-La cũng có luận về giới và
huệ. Trong Tỳ-Nại-Gia cũng có luận về huệ và tâm. Trong A-Tỳ-Đàm cũng có
luận về tâm và giới. Đây là điểm khác mà không khác của ba tạng.
Sao gọi là “tạng”. Chữ “tạng” (Pitaka) có
nghĩa: trùm chứa. Kinh, Luật, Luận sở dĩ được gọi là tạng, vì nội dung
trùm chứa vô lượng nghĩa lý nhiệm mầu, vì là giáo pháp thuyết minh tạng
tánh của Như-Lai.
Trong ba tạng, theo nghĩa hẹp, riêng về
giáo pháp của Phật nói ra hoặc ấn chứng, được gọi là Kinh, còn bao nhiêu
thì là Luật hay Luận. Nhưng ba tạng đều là giáo điển của đạo Phật, đều có
liên quan với lời Phật dạy, nên theo nghĩa rộng, cũng thông gọi là Kinh.
Vì thế, nên lại có những danh từ như: Nhất-thiết-kinh, Đại-tạng-kinh, với
ý nghĩa gọi chung cho ba phần giáo điển.
Ngoài ra, những Kinh-điển Đại-thừa còn gọi
là Bồ-Tát-tạng, Kinh-điển Tiểu-thừa gọi là Thanh-Văn-tạng. Cả Đại-thừa,
Tiểu-thừa đều có ba tạng, nghĩa là Kinh, Luật, Luận riêng. Tam-tạng của
Đại-thừa, về Kinh như: Hoa-Nghiêm, Pháp-Hoa, về Luật như: Phạm-Võng,
Đại-Thừa-Giới-Kinh, về Luận như Khởi-Tín, Đại-Trí-Độ. Tam-tạng của
Tiểu-thừa, về Kinh như: A-Hàm, Pháp-Cú; về Luật như: Ngũ-Phần, Thập-Tụng;
về Luận như: Câu-Xá, Thành-Thật.
Lại còn có những danh từ như Bí-mật-tạng,
Tạp-tạng...., mà nội dung là: bộ phận mật chú, bộ phận hợp tập những bài
thuyết pháp tản mác của Đức Phật. Nhưng dù là Bồ-Tát-tạng, Thanh-Văn-tạng,
Bí-mật-tạng hay Tạp-tạng, đều không ngoài ý nghĩa ba tạng. Tam-tạng là
danh từ thống nhất của giáo điển đạo Phật, gồm cả Tiểu-thừa lẫn Đại-thừa.
Tiết VI: Mười Hai Phần Giáo
Ba tạng Kinh-điển của đạo Phật, y theo thể
tài, được phân chia thành mười hai bộ loại. Người học Phật thường gọi
những bộ loại nầy là “mười hai phần giáo”:
1. Tu-Đa-La (Sùtra):
Danh từ nầy có một lối gọi là Tô-Ðát-Lãm,
Trung-Hoa dịch là Kinh hay Khế-Kinh. Chữ “Khế” có nghĩa là “hợp”, chữ
“Kinh” có nghĩa là “thường”. Pháp giải thoát là pháp chư Phật trong ba đời
vẫn thường nói, và pháp ấy hợp với chân lý, hoặc với nhân duyên thời tiết
cùng căn cơ của chúng-sanh, nên gọi là Khế-Kinh. Kinh cũng gọi là
Trường-Hàng (tản văn, văn xuôi), một lối văn chỉ nói ngay ý nghĩ của mình,
tùy theo nghĩa lý mà đọc ra câu văn dài hay ngắn. Lối văn nầy không cần
sửa soạn lắm như lối văn từ phú.
Luận Du-Già nói: “Kinh là những danh, cú,
văn thân, phát huy nghĩa nhiệm mầu, chân thật, thuần thiện. Kinh hay khiến
cho chúng-sanh được điều lợi ích của giáo nghĩa và dẫn khởi sự tu tập phạm
hạnh”.
Kinh Đại-Niết-Bàn nói: “Thiện-nam-tử! Sao
gọi là Khế-Kinh? Ấy là giáo thuyết của Phật từ câu “Như thế, tôi nghe” cho
đến câu, “vui mừng phụng hành”.
2. Kỳ-Dạ (Geya):
Danh từ nầy, Trung-Hoa dịch là Ứng-Tụng
hay Trùng-Tụng. Đây là lối kệ văn thuật lại những ý nghĩa của đoạn văn
Trường-Hàng nói trên, có khi nói thêm cho ý nghĩa ấy được đầy đủ. Lối văn
nầy thường lấy bốn, năm hoặc bảy, tám chữ làm một câu, bốn câu làm một
bài. Lại có khi một bài gồm nhiều câu, tùy theo sự diễn ý rộng hay hẹp.
Trong pháp hội, Ðức Thế-Tôn thường nói văn Trùng-Tụng, với dụng ý làm cho
thính giả ghi nhớ và có thể tóm tắt lại giáo nghĩa mà Ngài vừa tuyên
thuyết.
3. Thọ-Ký:
Thọ-ký cũng gọi là Ký-Biệt. Đây là những
đoạn văn mà Đức Phật ghi nhận cho đệ-tử sau sẽ sanh về đâu, hoặc chừng nào
sẽ chứng đạo quả, hoặc tương lai sẽ xảy ra sự gì tốt hay xấu. Như Đức Phật
nói: “A-Dật-Đa! Đời vị lai có vị quốc-vương tên là Nhương-Khê. Ông sẽ ở
nơi thời ấy mà thành Phật, hiệu là Di-Lặc”.
4. Dà-Đà (Gàthà):
Danh từ nầy, Trung-Hoa dịch là Phúng-Tụng
hoặc Cô-Khởi. Phúng-Tụng là làm những bài kệ hoặc hai ba bốn, năm, sáu
câu. Nói Cô-Khởi, là lối văn nầy không thuật lại ý nghĩa đoạn văn
Trường-Hàng trên, mà chỉ làm riêng từng bài kệ thôi.
5. Ưu-Đà-Na (Udàna):
Danh từ nầy, Trung-Hoa dịch là Tự-Thuyết.
Đây là những kinh do Phật dùng trí huệ xem xét căn cơ chúng-sanh, rồi Ngài
tự nói pháp, không đợi phải có người thưa thỉnh yêu cầu.
6. Ni-Đà-Na (Nidàna):
Danh từ nầy, Trung-Hoa dịch là Nhân-Duyên.
Đây là những kinh nhân có người thỉnh, hay nhân có duyên chi Phật mới nói
ra, hoặc nói về nhân duyên gặp Phật nghe pháp, những chỗ có nhân duyên hóa
độ, hay nói về duyên khởi của vũ trụ. Thí dụ như thuở xưa ở nước Xá-Vệ có
người dùng lưới bắt chim để chơi. Khi bắt được, anh đem nó nhốt vào lòng
cho ăn lúa uống nước xem cho chán rồi thả. Phật thấy thế, biết rõ nhân
duyên trước sau, khuyên rằng: “Chớ khinh tội nhỏ. Cho là không sao. Giọt
nước tuy ít. Lần đầy chum lớn”.
7. A-Ba-Đà-Na (Avadàna):
Danh từ nầy có nghĩa là Thí-Dụ. Pháp của Phật nói ra rất mầu nhiệm, người
căn trí tối chậm khó mà hiểu thấu. Vì thế, khi giảng dạy Ðức Như-Lai phải
dùng những thí dụ cho thính chúng dễ hiểu. Đại khái như những lời thí dụ
trong các Kinh-điển.
8. Y-Đế-Mục-Đa-Dà (Itivrttaka):
Danh từ nầy, Trung-Hoa dịch là Bản-Sự.
Đây là những kinh văn Phật nói chỗ tu nhân của các vị Bồ-Tát, đệ-tử về đời
quá khứ, hoặc những ngôn giáo, sự nghĩa liên quan với đời trước. Thí dụ
như đoạn: “Nầy các Tỷ-khưu! Pháp của ta nói hôm nay gọi là Giới-kinh, đời
Phật Câu-Lưu-Tôn gọi là Cam-Lồ-Cổ, đời Phật Câu-Na-Hàm-Mâu-Ni gọi là
Pháp-Cảnh, đời Phật Ca-Diếp gọi là Biệt-Không”.
9. Xa-Đà-Dà (Jàtaka):
Danh từ nầy, Trung-Hoa dịch là Bản-Sanh.
Đây là những kinh Phật nói về nhân duyên thọ sanh của chính Ngài hoặc các
đệ-tử trong nhiều đời trước. Như đoạn: “Các ông nên biết, đời quá khứ khi
hành đạo Bồ-Tát, ta đã từng thọ thân hươu, nai, thỏ, gấu, rồng,
Kim-súy-điểu, Túc-tán-vương, Chuyển-luân-vương”.
10. Tỳ-Phật-Lược (Vaipulya):
Danh từ nầy, Trung-Hoa dịch là Phương-Quảng. Đây là những kinh Đại-thừa
Phương-Đẳng, nội dung hàm nghĩa lý cao siêu, rộng rãi như mười phương hư
không.
11. A-Tỳ-Đạt-Ma (Adbhuta Dharma):
Danh từ nầy, Trung-Hoa dịch là
Vị-Tằng-Hữu hoặc Hy-pháp. Đây là kinh văn nói về những thần lực, những
nghiệp duyên, những công đức tối thắng, lạ lùng, ít có, mà trí phàm-phu
khó tin hiểu. Như kinh Đại-Niết-Bàn nói: “Thế nào là pháp Vị-Tằng-Hữu? Như
Bồ-Tát khi mới sanh ra, không người nâng đỡ mà tự đi bảy bước, phóng đại
quang minh, nhìn khắp mười phương. Như con vượn tay bưng bát mật cúng
dường Như-Lai. Như con chó cổ trắng theo bên Phật nghe thuyết pháp. Như
Thiên-ma Ba-Tuần biến làm con thanh ngưu đi trên những bát bằng sành,
khiến cho các bát va chạm nhau mà không sứt bể. Và cũng như Bồ-Tát khi mới
sanh được đưa vào miếu thờ thiên thần, các thiên tượng đều đứng lên lễ
kỉnh”.
12. Ưu-Bà-Đề-Xá (Upadesa):
Danh từ nầy có nghĩa Luận-Nghị. Đây là lối kinh văn có tính cách vấn đáp
biện luận, hoặc phân biệt các tướng mạo, các lẽ chánh tà. Luận Du-Già nói:
“Thế nào là Luận-Nghị? Đây là tất cả đối pháp luận, nghiên cứu nghĩa rộng
sâu của Tô-Đát-Lãm, tuyên dương tông yếu của các kinh”.
Trong mười hai bộ loại trên, chỉ có
Tu-Đa-La, Kỳ-Dạ và Dà-Đà là thể tài chính thức của kinh giáo. Còn chín
loại kia, chẳng qua là y theo các sự kiện sai biệt của pháp điển mà lập ra
vậy thôi.
Và mười hai phần giáo nầy, không phải
trong kinh nào cũng có đủ cả. Có thứ kinh chỉ được một hai phần, có thứ
kinh gồm đến năm sáu phần chẳng hạn. Ấy là tùy theo thời tiết, cơ duyên
riêng biệt của mỗi thứ kinh, mà có những sự sai khác hoặc ít hoặc nhiều.
---o0o---
Mục
Lục
Thiên thứ nhất | 1
| 2
| 3
| 4
| 5
| 6
| 7
| 8
| 9
| 10
| 11 | 12
Thiên thứ hai
| 1
| 2
| 3
| 4
| 5
| 6
| 7
| 8
Thiên thứ ba
| 1
| 2
| 3
| 4
| 5
| 6
| 7
| 8
---o0o---
Source:
Di Đà Nguyện Hải
Vi tính:
Huệ Toàn, Huệ Trang, Từ Hỷ và Tuệ Cường
Trình bày : Nhị Tường
Cập nhật ngày 01-04-2003