|
. |
Phật Học Tinh Yếu
Hòa Thượng Thích Thiền Tâm
Trọn bộ 3
thiên
---o0o---
Yếu Nghĩa Về
Thập Thiện
Tiết
mục:
I. Thế nào là thiện
II. Biện minh về nghĩa thiện
III. Mười nghiệp lành
IV. Nhân-quả của Thập-thiện
Kinh sách trích dẫn: Kinh Thập-Thiện-Nghiệp-Ðạo,
Pháp-Uyển-Châu-Lâm, An-Sĩ-Toàn-Thơ.
Ðề yếu: Dân tộc Việt-Nam ta khi răn dạy con cháu, thường nói đến
vấn đề nhân-quả thiện ác, khuyên nên “ăn hiền ở lành”. Nhưng thật ra, ít
ai biết xác đáng về nghĩa thiện ác. Bởi không hiểu tường tận điều ấy, nên
nhiều người lầm lẫn thường làm việc tợ lành mà ác, ít ai dám làm việc tợ
ác mà lành. Lại có kẻ tự hào rằng mình ngay thẳng hiền lành, không cần chi
ăn chay, xem kinh, niệm Phật. Ðó là những nhận xét về thiện ác với tầm mắt
thô thiển bên ngoài.
Vì thương xót chúng sanh thường trầm luân trong ác đạo, thuở xưa Ðức
Như-Lai đã đưa cao đuốc huệ, soi tỏ đường lối nhơn thiên. Rồi từ đó pháp
hóa lan truyền, nhiều người tín phụng. Nay xin gom góp sự việc ấy, viết
thành một chương, chia làm bốn tiết. Hai tiết đầu xác định về nghĩa thiện,
gồm trong mấy điểm chính: lợi mình, lợi người, trong hiện tại, tương lai.
Hai tiết sau thuyết minh về mười điều lành gồm trong ba nghiệp thân,
miệng, ý, và những kết quả của sự hành thiện ấy.
“Thiện
căn bởi tại lòng ta. Tu là cõi phúc, tình là dây oan”. Nếu tu theo
Thập-thiện, sẽ được hưởng phúc lạc của nhơn thiên; tu theo Tứ-đế,
Thập-nhị-nhân-duyên, sẽ được hưởng phúc lạc của Thanh-Văn, Duyên-Giác; tu
theo Lục Ba-la-mật, sẽ được hưởng phúc lạc của Bồ-Tát. Trái lại, buông
lung theo ngũ dục, thất tình, sẽ vướng mắc vào vòng oan khiên khổ đọa.
Vậy
người học Phật phải nên tự suy gẫm.
Tiết I: Thế Nào Là Thiện?
Có nhiều kẻ thấy ai đi chùa, liền bảo: “Tu hành cần chi phải đi
chùa, ở nhà tu tâm làm lành là được!” Những kẻ ấy thường tự hào rằng mình
trong sạch, không tu cũng như tu, song nếu có ai cật vấn thế nào là tu tâm
làm lành thì trả lời chẳng suông. Lại có người đọc được đôi quyển sách
Nho, thấy những vị tụng kinh, bố thí, ăn chay, vội bài bác qua mấy câu
chữ: “Tâm hành từ thiện, hà tu nỗ lực khán kinh” (Lòng thường từ thiện,
cần chi gắng sức xem kinh?) - hoặc “Vô cầu thắng bố thí, cẩn thủ thắng trì
trai” (Không tham hơn bố thí, khéo giữ hơn trì trai). Tuy nói như thế,
nhưng thật ra nếu có người hiểu biết gạn hỏi về nghĩa: từ thiện, vô cầu,
cẩn thủ, họ trả lời chẳng xuôi, hoặc không thấu đáo.
Chẳng những thế gian thường vướng mắc vào những lỗi như thế, mà hàng
ngoại-đạo vì không xác nhận nghĩa thiện ác, nên vẫn phê phán một cách sai
lầm. Như khi xưa các học giả theo phái Hoài-Nghi-Luận bên Ấn-Ðộ quan niệm
rằng: thiện ác không có tiêu chuẩn nhất định, chẳng qua do tập quán người
đời cho là thiện nó thành thiện, cho là ác nó thành ác thế thôi. Bởi không
hiểu đúng nghĩa lý thiện ác, nên hai hạng người trên tự mình đã đi lạc vào
đường tà kiến, còn gây trở ngại cho sự tu tiến của những kẻ đang hướng về
chánh đạo đức Như-Lai.
- Thế nào là thiện và ác? Theo Phật-giáo, “thiện” là những điều gì có lợi
cho mình và người trong hiện tại, tương lai. Và “ác”, cũng theo ý trên,
tương phản với nghĩa thiện. Xác nhận như thế thì thiện ác không thể một
mặt y cứ theo hình thức mà phán định. Như ngọt ngào chiều chuộng vị tất là
thiện, đánh đuổi quở phạt chưa chắc đã là ác.
Lại “thiện” ngoài ý nghĩa lợi ích mình và người, còn tượng trưng cho những
gì trong sạch tốt đẹp. Việc thiện của hàng nhơn thiên là mười điều lành.
Nhưng đối với hàng Thanh-Văn, Duyên-Giác, đó chỉ là điều lành hữu lậu, vì
nhơn thiên tuy tu Thập-thiện song còn chấp ngã, chưa dứt phiền não. Vì
thế, tiến lên một bậc, hàng Nhị-thừa tu Sanh-diệt-tứ-đế-huệ, dứt
kiến-tư-hoặc, sanh không-trí-hiện-tiền, việc thiện nầy có tánh cách cao
hơn. Tuy nhiên, Thanh-Văn, Duyên-Giác dù trừ ngã chấp, song hãy còn pháp
chấp và Vô-minh-hoặc, nên bậc Bồ-Tát chưa cho đó là toàn thiện. Hàng
Bồ-Tát phá trừ trần-sa,Vô-minh-hoặc, tu Vô-lậu-thiện, Nhị-biên-thiện,
Trung-đạo-diệu-thiện, để đi đến chỗ trọn lành. Cho nên xét suy cùng cực,
trong thế gian và xuất thế gian chỉ có Như-Lai mới là bậc chí thiện, vì
Ngài đã thực hành được nghĩa lành một cách toàn vẹn. Nhưng đây chẳng qua
là thử bàn về nghĩa thiện theo chiều sâu rộng, để cho biết việc làm lành
không phải chỉ dễ dàng, nông cạn như một số người lầm nhận, rồi bài bác
việc lễ Phật, xem kinh. Bây giờ chúng ta hãy trở lại điểm chính của chương
nầy, là cứ theo Nhơn-thiên-thừa mà luận về nghĩa thiện.
Tiết II: Biện Minh Về Nghĩa Thiện
Việc hành thiện không nên dùng con mắt cạn cợt nhìn theo hình
thức bên ngoài. Có kẻ xem như làm lành nhưng thật không phải lành, có
người xem như làm ác, song chính lại là thiện. Những việc gọi là lành, nếu
gia tâm xét kỹ, sẽ thấy có chân giả, có ngay vạy, có âm dương, có phải
quấy, có thiên chánh, có nửa toàn, có lớn nhỏ, có khó dễ. Nếu làm lành mà
không thấu đạt lý nầy, nhiều khi tự gọi mình hành thiện, song không ngờ đó
chính là tạo nghiệp, chỉ khổ công nhọc trí, chẳng đem lại lợi ích gì.
- Việc lành có chân, giả là thế nào? Như thuở xưa, mấy nho sinh đến hỏi
Trung-Phong đại-sư rằng: “Nhà Phật dạy điều thiện ác báo ứng như bóng theo
hình, nhưng tại sao hiện thấy có những người làm lành mà con cháu không
phát đạt, còn mấy người làm ác trái lại gia đình thêm hưng thạnh? Như thế
thì nhân-quả của Phật nói có gì là xác đáng ư?” Ngài Trung-Phong đáp: “Bởi
phàm tình chưa sạch, chánh nhãn chưa bày, người đời thường nhận lầm thiện
ra ác, ác ra thiện, ít ai biết tự trách điều thị phi điên đảo của mình,
duy cứ hờn việc báo ứng sai ngoa. Như thế làm sao định chắc rằng xác đáng
hay không xác đáng?” Các nho sinh nói: “Thiện là thiện, ác là ác, làm sao
có sự nhận lầm trái nhau được?” Ðại-sư liền bảo họ chỉ cho xem ít việc gọi
là thiện hoặc ác. Một vị nói: “Ðánh mắng người là ác, kính trọng người là
thiện”. Ngài Trung-Phong nói: “Chưa hẳn như thế!” Người khác bảo: “Tham
của vọng cầu là ác, liêm khiết thủ thường là thiện”. Ðại-sư vẫn nói: “Chưa
hẳn như thế!” Các nho sinh lần lượt nói hết những tướng trạng thiện ác,
song Trung-Phong đại-sư vẫn bảo chưa hẳn là đúng. Họ ngạc nhiên, cầu xin
giải thích. Ngài dạy: “Việc làm nào có ích cho mình và người là thiện”.
Trái lại, nếu chỉ lợi mình tổn người, tuy kính trọng người cũng vẫn là ác.
Thế nên làm lành mà đem sự lợi ích cho người là công, và công tức là chân.
Còn duy cầu lợi riêng cho mình là tư, đã tư tức là giả. Lại việc lành tự
đáy lòng phát ra là chân, làm theo thói quen bên ngoài là giả, không chấp
tướng mà làm là chân, có chấp tướng mà làm là giả. Cứ theo mấy điểm ấy xét
ra, sẽ tự hiểu...
- Việc lành có ngay, vạy là thế nào? Thế thường khi thấy kẻ mềm mỏng chiều
chuộng, dễ dãi yếu nhát, nói trái nói phải đều vâng, ai cũng khen là người
hiền lành. Nhưng thánh-nhơn thà chọn người ngông cuồng mà quật cường, khí
khái, có ý chí cao xa, vì hạng nầy dễ khai hóa. Còn hạng trên tuy được mọi
người khen tặng, nhưng xét kỹ họ chỉ là giặc của sự tiến bộ đạo đức. Như
thế đủ thấy sự nhận xét về thiện, ác, lấy, bỏ của người đời khác với của
thánh-nhơn. Cứ một điều nầy suy ra, các việc khác làm sao khỏi bị sai lạc?
Vậy nên người muốn làm lành tu đức quyết chẳng thể bằng vào điều thiện của
hình thức bên ngoài, mà phải nhìn từ chỗ ẩn nhiệm của tâm tư, cùng xét xem
việc ấy có hợp với lẽ thiện hay không. Nếu quả thật thuần có lòng cứu
người giúp đời là ngay, như xen chút niệm mỵ thế, dối dân là vạy; thuần
một lòng kính người là ngay, xen chút niệm khinh cợt đời là vạy; thuần một
lòng thương xót người là ngay, xen chút niệm ghét hận đời là vạy. Những
điều như trên, phải nên xét kỹ.
- Việc lành có âm, dương là thế nào? Phàm làm điều lành mà người ngoài
biết được là dương thiện, làm lành mà chẳng ai biết là âm công. Âm công sẽ
được phước báo, dương thiện hiện hưởng danh thơm, vì danh cũng là phước
vậy. Nhưng danh vọng thường khi là điều đáng kiêng sợ, bởi dễ bị người
ganh ghét. Những kẻ danh tốt lẫy lừng mà thật đức không kịp, phần nhiều
hay bị họa to, bởi hưởng phước quá phận. Có kẻ tuy không lầm lỗi, nhưng
bỗng dưng bị lâm vào cảnh tai họa, hay bị thiên hạ chê oan, lắm lúc con
cháu họ lại được phát đạt. Lẽ âm dương họa phước nhiệm mầu như thế, phải
để tâm nhiều mới thấu hiểu được.
- Việc lành có phải, quấy là thế nào? Thời Ðông-Châu, ở nước Lỗ có lệ hễ
ai bỏ tiền chuộc người bản xứ khỏi làm thần thiếp cho các chư hầu địch thì
được lãnh nguyên lại số tiền tại quan phủ. Thầy Tử-Cống giàu có, bỏ tiền
ra chuộc được nhiều người, song không chịu lãnh lại tiền, vì ông thầm nghĩ
mình chỉ làm việc nghĩa mà thôi. Ðức Khổng-Tử nghe được, chê trách Tử-Cống
sai lầm, bởi bậc thánh-nhơn khi làm điều gì cũng mong cải tiến phong tục
đến chỗ tốt đẹp, làm gương cho mọi người noi theo, chớ không phải chỉ để
thỏa chí riêng của mình. Trong nước Lỗ người giàu ít, kẻ nghèo đông, nếu
cho rằng chuộc người rồi còn trở lại lãnh tiền nơi quan phủ là không liêm
chính thì chắc từ đó về sau không còn mấy ai dám nghĩ đến việc chuộc người
khỏi tay địch nữa.
Thầy Tử-Lộ vớt người bị đắm, được đền ơn một con trâu, ông liền nhận.
Khổng-Tử nghe được vui mừng bảo: “Từ nay ở nước Lỗ sẽ có nhiều người để ý
vớt kẻ sắp chết chìm”.
Cứ lấy mắt thường mà xem thì việc Tử-Cống không lãnh tiền bồi thường là
cao quý, Tử-Lộ nhận trâu là thấp hèn. Nhưng trái lại, trong hai hành vi,
đức Khổng-Tử bỏ Tử-Cống mà chọn Tử-Lộ. Thế thì biết, khi làm lành không
nên chỉ kể hiện trạng trước mắt, mà còn phải nghĩ đến việc lưu tệ về sau;
không nên luận một thời, mà phải luận đến việc lâu dài; không nên nghĩ
riêng mình, mà phải xét đến ảnh hưởng lan truyền sâu rộng trong thiên hạ.
Những việc đang làm tuy lành, nhưng nếu lưu tệ hại người, đó là tợ thiện
chớ không phải chân thiện. Những việc đang làm tuy xem như thấp kém, mà
lưu ích giúp người, thì nó dường như phi thiện song thật ra là thiện. Cứ
thế suy rộng ra, những điều nghĩa phi nghĩa, lễ phi lễ, tín phi tín, từ
phi từ, đều không ngoài cách thức đó.
- Việc lành có thiên, chánh là thế nào? Thuở xưa, Lữ-Văn-Ý-Công là người
đức độ, cả nước đều kính ngưỡng như Thái-sơn, Bắc-đẩu. Sau khi từ chức tể
tướng về an dưỡng nơi cố hương, một hôm ông bị người say rượu đến la mắng
dữ dội. Ý-Công vẫn thản nhiên bảo người nhà đóng cửa lại, đừng nên tranh
cạnh với kẻ say. Hơn một năm sau, người ấy vì say sưa phạm tội sát nhơn bị
bắt giam vào ngục. Lữ-Công biết được việc đó, mới hối hận bảo: “Phải chi
năm trước ta dùng oai quở trách rồi bắt đem giao cho quan nghiêm trị. Chắc
nó khỏi bị mối họa hôm nay, chỉ vì lúc ấy ta muốn giữ lòng nhân hậu, không
ngờ đó lại là cách nuôi lớn điều ác cho nó, nên nỗi ngày nay nó thành ra
người phạm tội nặng”. Ðây là một việc chứng tỏ, đem tâm lành mà hành sự
ác.
Lại như một nhà giàu nọ, gặp năm đói khó đem lúa ra bán, bị dân nghèo cướp
giựt ngay giữa chợ. Nhà cự phú này đầu cáo, quan bỏ qua không xử, dân
nghèo được thế lại càng làm già. Phú ông liền cho người rình bắt ít tên
làm khổ nhục, bấy giờ cả bọn mới chịu yên, nếu không thì đã loạn cả chợ.
Ðây là việc đem tâm ác mà hành sự lành.
Cho hay thiện là chánh, ác là thiên, điều ấy ai cũng biết. Còn đem tâm
lành mà làm việc ác là thiên ở trong chánh, đem tâm ác làm việc lành là
chánh ở trong thiên. Thà chọn chánh trong thiên, không nên làm việc thiên
trong chánh, điều nầy lại ít người để ý.
- Việc lành có nửa, toàn là thế nào? Kinh Dịch nói: “Chẳng tích thiện
không đủ để thành danh, chẳng tích ác không đủ để diệt thân”. Kinh Thơ
bảo: “Tội nhà Thương như xâu tiền đầy”. Tích thiện tích ác như chứa vật
vào kho, siêng để thì đầy, lười chứa thì vơi, tùy mỗi phương diện, việc
lợi hại đã rõ ràng. Như thuở xưa, có một cô gái rất nghèo, của riêng chỉ
được hai đồng tiền kẽm, nhân khi đến chùa liền dùng tâm thành đem cả số ấy
dâng cúng ngôi Tam-bảo. Vị đại-đức trụ trì nhận biết, thân hành làm lễ cầu
nguyện. Sau cô gái nầy được vào hoàng cung hưởng phú quý, lại đem vào ngàn
lượng vàng đến cúng dường, nhưng vị tăng chủ chỉ sai đồ chúng hồi hướng mà
thôi. Cô thí chủ, lúc bấy giờ đã là hoàng-hậu, lấy làm lạ hỏi: “Ngày trước
tôi chỉ cúng có hai đồng tiền mà đại-đức thân hành lễ sám; nay tôi cúng
tới đôi ngàn lượng vàng, sao đại-đức lại chỉ sai đồ chúng hồi hướng?” Tăng
chủ đáp: “Thuở trước vật tuy sơ bạc mà lòng rất chân thành, phi lão tăng
lễ sám không đủ để báo đức bà. Hôm nay vật tuy hậu song tâm cúng dường
không thiết tha bằng trước, nên người khác thay thế làm lễ cũng đủ rồi”.
Ấy, ngàn vàng là nửa, là vơi, mà hai tiền là toàn, là đầy vậy.
Lại Chung-Ly đại tiên khi truyền dạy phép luyện đơn cho Lữ-Tổ, có dặn
rằng: “Khi đơn luyện thành có thể điểm sắt đá hóa vàng ròng, giúp cho
người nghèo khổ tiêu dùng được”. Lữ-Tổ hỏi: “Về sau vàng ấy có biến chất
không?” Chung-Ly đáp: “Năm trăm năm sau, nó sẽ trở lại bản chất cũ”. Lữ-Tổ
nói: “Như thế thì có hại cho người năm trăm năm về sau, tôi thề không làm
điều đó”. Chung-Ly khen: “Phép tu tiên cần phải chứa đủ ba ngàn công hạnh,
nay ngươi nói được lời đó thì ba ngàn công hạnh đã đủ rồi!” Ðây lại là một
tượng trưng cho việc lành đầy, vơi, nửa, toàn vậy.
Ðại khái, làm lành mà có tâm chí thành, thật lòng thương xót vị tha, không
chấp tướng thì dù một việc lành cũng được toàn đầy. Bằng trái khác với mấy
điểm trên, tuy suốt đời hành thiện cũng là vơi, chỉ được có một nửa. Như
trong kinh nói, khi đem của giúp người mà trong không thấy mình cho, ngoài
không thấy người nhận, giữa không thấy vật tế trợ, đó gọi là cách bố thí
ba luân thể không, một tâm thanh tịnh. Bố thí như thế, dù một lon gạo cũng
được phước vô biên, một đồng tiền cũng tiêu muôn kiếp tội. Nếu như tâm còn
cầu danh chấp tướng, thì tuy bố thí ngàn vàng, phước đức cũng chẳng được
bao nhiêu!
- Việc lành có lớn, nhỏ là thế nào? Xưa ông Vệ-Trọng-Ðạt làm quan Hàn-Lâm,
một đêm mộng thấy Minh-ty bắt về âm-cảnh. Quan-chủ-ty sai dịch đem trình
hai bản ghi thiện ác, ông thấy bản ghi ác chất một đống to, bản ghi thiện
chỉ bằng chiếc đũa. Nhưng khi đem cân thì bản như đống to lại nhẹ, bản
bằng chiếc đũa lại nặng. Trọng-Ðạt ngạc nhiên nói: “Tôi tuổi chưa đầy bốn
mươi, có đâu đã làm nhiều điều ác đến thế!” Minh-quan bảo: “Một niệm bất
chính là ác rồi, không đợi phải hành phạm”. Nhân lại hỏi: “Trong cuốn giấy
bằng chiếc đũa kia, đã ghi những gì?” Minh-quan đáp: “Triều đình hưng đại
công làm cái cầu đá ở Tam-Sơn, ông đã dám thượng sớ căn ngăn việc ấy. Cuốn
giấy đó là bản sớ của ông”. Trọng-Ðạt nói: “Tôi tuy dâng sớ can ngăn,
nhưng bị bác bỏ, thật sự nó chẳng bổ ích được gì, làm sao lại có hiệu lực
như thế ấy?” Minh-quan nói: “Triều đình tuy không y theo, nhưng một niệm
ưu ái của ông đã vì vận nước và muôn dân; giả sử lời sớ kia được chấp nhận
thì công đức ấy lại càng lớn lao hơn nữa!”
Cho nên hễ chí để vào thiên hạ quốc gia, thì việc lành tuy nhỏ mà lớn. Nếu
chí để vào bản thân thì việc lành tuy nhiều vẫn ít. (Việc ác cũng thế).
- Việc lành có khó, có dễ là thế nào? Bậc tiên nho thường bảo: “Muốn khắc
kỷ phải bắt đầu từ chỗ khó”. Ðức Khổng-Tử khi luận về điều nhân, cũng nói:
“Trước phải làm việc khó khăn là trừ bỏ tư tâm”. Chẳng hạn như ở Giang-Tây
có Thơ-Ông làm nghề dạy học, trong hai năm dành góp được số tiền khá to.
Nhân gặp một người nghèo thiếu nợ quan, vợ kẻ ấy sắp bị nhà quan bắt làm
tôi tớ, ông liền đem số tiền dành góp ra chuộc, không nghĩ gì đến sự đền
trả. Nhờ đó vợ chồng người kia khỏi bị ly tán. Và như Trương-Ông ở tỉnh
Trực-Lệ, gặp một người mang nợ bị trái chủ làm khốn, phải đem cầm vợ con,
liền thí xả số bạc của mình đã chứa để trong mười năm ra chuộc giúp cho.
Do đó vợ con người nọ mới được an toàn. Bỏ tiền cứu người như hai trường
hợp trên thật là hiếm có, ít ai làm nổi.
Lại như Kỳ-Ông ở Trấn-Giang lớn tuổi mà không con. Người hàng xóm mắc nợ
ông, không tiền trả, đem đứa con gái thế vào để cho làm thiếp. Kỳ-Ông thấy
mình tuổi đã cao, không nỡ làm lỡ đời của một cô gái trẻ đẹp, liền trả lại
và cho luôn số tiền. Ðây là điều lành thuộc trường hợp nhẫn việc khó nhẫn.
Những kẻ có tiền tài thế lực, làm lành lập đức rất dễ mà họ không chịu
làm, đó là người tự bỏ rơi chẳng biết thương lo cho mình và con cháu. Còn
những người nghèo hèn, làm được phước rất khó, khó mà cố gắng làm, như thế
mới đáng quý.
Trên đây là đoạn biện minh về điểm dị biệt trong việc thiện của
Liễu-Phàm-tiên-sinh, trích trong An-Sĩ-Toàn-Thơ. Người học Phật muốn tu
công đức lành, có thể lấy đây làm tấm gương xét đoán.
Tiết III: Mười Nghiệp Lành
Mười nghiệp lành là gì? Là ba nghiệp của thân, bốn nghiệp của
miệng và ba nghiệp của ý. Thân không sát sanh, không trộm cướp, không tà
dâm; miệng không nói dối, không nói thêu dệt, không nói đôi chiều, không
nói thô ác; ý không tham lam, không giận hờn, không si mê tà kiến. Ðó là
mười nghiệp lành. Trái với đây là mười nghiệp ác.
Theo trong luận Tỳ-Ðàm thì chúng-sanh ở Địa-ngục duy có thể phát ba nghiệp
lành về ý, song chỉ sanh khởi bên trong mà không hiện hành ra được bên
ngoài. Chúng-sanh ở châu Bắc-Câu-Lư cũng thế, ngoài ra các nẻo khác đều có
thể tu mười nghiệp lành. Có kẻ gạn hỏi: “Những nghiệp như: lễ bái, cúng
dường, nhẫn nhục, bố thí, trì trai,... đều là nghiệp lành, sao không gọi
Vô-lượng-thiện-nghiệp-đạo, lại chỉ nói Thập-nghiệp-đạo?” - Xin thưa: “Mười
thiện nghiệp nầy là căn bản của các pháp lành khác, vì lấy phần thắng
trọng, nên chỉ gọi Thập-thiện-nghiệp-đạo”. Kinh Di-Lặc-Bồ-Tát-Sở-Vấn nói:
“Nếu chúng-sanh nào làm mười nghiệp bất thiện, sẽ bị đọa vào ba đường ác;
và tu mười nghiệp lành, sẽ được hưởng phước nhơn thiên”.
- Thế nào là không sát sanh? Sát sanh có năm tướng, nếu không phạm các
tướng đó, là không sát sanh. Năm tướng ấy là: 1- Cố tâm. 2- Sanh mạng
khác. 3- Nghi tâm. 4- Thân làm hoặc miệng bảo. 5- Dùng phương tiện.
Ðiều thứ nhất (cố tâm), nếu có tâm giết hại, dù giết sanh mạng lớn nhỏ,
cũng đều mang tội. Như vô tâm ngộ sát thì không thành tội. Nếu vô tâm giết
mà thành tội thì bậc A-la-hán cũng không ưng đắc Niết-bàn. Bởi bậc
A-la-hán, đã đoạn nhân thế gian, như vô tâm giết rồi bị đọa luân-hồi, thì
không thành A-la-hán. Nhưng sự thật chẳng phải thế; vì nghĩa nầy nên biết
vô tâm giết không thành tội sát. Ðiều thứ hai (sanh mạng khác), nói “sanh
mạng khác”, tức không phải chính mình. Nếu giết sanh mạng khác mới đắc
tội, còn tự sát thì không thành tội. Ðiều thứ ba (nghi tâm), nếu dùng nghi
tâm mà giết hại, cũng mang tội sát, bởi kẻ ấy đã thiếu lòng từ bi. Ðiều
thứ tư (tự làm, miệng bảo), tự mình giết, hoặc dùng tay chân, dao gậy,
cung tên, thuốc độc, thư ếm, đã đành đắc tội. Như không tự giết mà bảo kẻ
khác giết, nếu sự giết thành, người bảo liền mang tội sát. Ðiều thứ năm
(dùng phương tiện), tuy thân không làm, miệng bảo, nhưng khởi ý giết hại,
dùng mưu mô phương tiện để đưa người đến chỗ chết, nếu kết quả thành cũng
mang tội sát.
- Thế nào là không trộm cướp? Trộm cướp có năm tướng, nếu không phạm các
tướng đó, là không trộm cướp. Năm tướng ấy là: 1- Vật kẻ khác. 2- Biết vật
của kẻ khác. 3- Nghi tâm. 4- Tự lấy hoặc bảo kẻ khác. 5- Dùng phương tiện.
Ðiều thứ nhất (vật kẻ khác), vật thuộc quyền sở hữu của kẻ khác, trọng như
vàng bạc châu báu, khinh như mũi kim, ngọn rau, nếu người không cho mà
lấy, là mang tội trộm; kể đến vật của Quỷ-thần, Súc-sanh. Ðiều thứ hai
(biết vật kẻ khác), biết vật của kẻ khác mà lấy, là cố tâm trộm cướp, tất
nhiên đắc tội. Trừ ra như khi để đồ chung, của kẻ khác lầm tưởng là của
mình mà lấy thì không đắc tội. Ðiều thứ ba (nghi tâm), trường hợp hai món
đồ giống nhau, đối với vật kẻ khác nghi ngờ không biết là của người hay
của mình, vội lấy đi là đắc tội, vì có tâm mờ ám tham lam. Ðiều thứ tư (tự
lấy bảo người), tự mình lén trộm, hoặc dùng sức mạnh cướp giựt, cho đến
dùng pháp thuật mà lấy, đều đắc tội. Nếu mình không làm, song xui sử kẻ
khác lấy đem cho mình, cũng mang tội trộm cướp. Ðiều thứ năm (dùng phương
tiện), nếu dùng mưu mô phương tiện, như ăn hối lộ, đầu cơ bán chợ đen, giả
đạo đức để gạt người lấy của..., cũng đều mang tội trộm.
- Thế nào là không tà dâm? Tà dâm có năm tướng, nếu không phạm các tướng
đó, là không tà dâm. Năm tướng ấy là: 1- Của kẻ khác. 2- Biết của kẻ khác.
3- Nghi tâm. 4- Tự hành, phi đạo. 5- Phi xứ, phi thời.
Ðiều thứ nhất (của kẻ khác), đối với vợ hoặc chồng của kẻ khác, hay thanh
nam, thiếu nữ còn non dại dưới quyền thủ hộ của cha mẹ, mà dẫn dụ, cưỡng
bức làm việc phi hạnh, là mang tội tà dâm; kể đến sự nhiễm phạm cùng
Quỷ-thần, Súc-sanh. Ðiều thứ hai (biết của kẻ khác), nếu biết là vợ chồng
hay con cái của kẻ khác mà xâm phạm, tất nhiên đắc tội, vì cố ý. Như
trường hợp lầm tưởng là chồng hay vợ của mình thì không phạm; điều nầy tuy
ít khi xảy ra, nhưng chẳng phải là không có. Ðiều thứ ba (nghi tâm), như
có nam hoặc nữ song sinh rất giống nhau, nghi không biết là vợ hay chồng
của mình mà làm tà hạnh thì đắc tội vì có tâm gian nhiễm. Ðiều thứ tư (tự
hành, phi đạo), như nam hay nữ tự làm việc thủ dâm, hoặc hành dâm, chẳng
phải chỗ nam căn, nữ căn (phi đạo), đều đắc tội. Ðiều thứ năm (phi xứ, phi
thời), tuy vợ chồng chánh thức, nhưng ăn nằm không phải chỗ, gần gũi không
phải thời, không chừng độ, cũng phạm tội tà dâm. Phi xứ ở đây, còn chỉ cho
nơi lầu xanh, nhà chứa.
- Thế nào là bốn nghiệp lành của miệng? Vọng ngữ gồm có một tướng chánh và
bốn tướng phụ, nếu không phạm năm tướng đó, là không vọng ngữ. Năm tướng
ấy là: 1- Như tướng vọng ngữ. 2- Nghi tâm. 3- Vô nghĩa. 4- Phi thời. 5-
Tương ưng với ác pháp.
Ðiều thứ nhất (như tướng vọng ngữ) là chỉ cho bốn điều ác của miệng: nói
dối, nói thêu dệt, nói đôi chiều, nói thô ác. Ðây là bốn điều chánh của
vọng ngữ. Ðiều thứ hai (nghi tâm), lòng còn nghi ngờ chưa biết việc ấy có
thật hay không, liền vội nói ra với tánh cách quả quyết rằng có, tất phạm
tội vọng ngữ. Ðiều thứ ba (vô nghĩa), nói những lời bông lông không chủ
đích, trái với thật nghĩa, đã vô ích còn làm mất thời giờ của mình và
người, đều là nói vọng. Ðiều thứ tư (phi thời), lời nói tuy có nghĩa lý,
nhưng không phải thời phải lúc, rốt cuộc duy thành hư thuyết, chỉ làm
người chán, không đem lại lợi ích cho ai, cũng là lỗi vọng ngữ. Ðiều thứ
năm (tương ưng ác pháp), nói những lời châm biếm xa gần làm cho người khó
chịu, hoặc lời bỡn cợt khiến cho người sanh buồn giận, sợ hãi, tán tâm,
hay hát ca điều phi pháp, khích động dục niệm cho đến tâm háo sát căm thù
của kẻ khác, đều là những lời tương ưng với ác pháp cũng mang tội nói
vọng. Bốn tướng sau đây là những điều phụ của vọng ngữ.
- Thế nào là ba nghiệp lành của ý? Ðó là không tham, không sân, không si
mê tà kiến. Không tham là không luyến trước theo ngũ dục, hằng giữ lòng
trong sạch. Không sân là không giận trong những trường hợp vô lý hay hữu
lý, mà hằng giữ lòng trung thứ, xót thương. Không si mê tà kiến là không
tối tăm hàng động trái với lẽ phải, hoặc chấp theo thiên kiến rồi khinh
hủy chánh-pháp, bài bác nhân-quả, mà hằng tìm hiểu Kinh-điển, suy nghiệm
lẽ thật, làm cho trí huệ phát sanh.
Trên đây là lược thuyết về mười nghiệp lành thuộc nhân thiên thừa. Cũng
mười điều nầy, đối với hàng Nhị-thừa và Bồ-Tát, còn có những tầm mức sâu
xa hơn nữa. (Lược trích Pháp-Uyển-Châu-Lâm)
Tiết IV: Nhân Quả Của Thập Thiện
Trong kinh Thập-Thiện-Nghiệp-Ðạo, Đức Phật bảo: - Nầy
Long-vương! Nếu không sát sanh, tất được thành tựu mười pháp ly não. Mười
pháp ấy là: 1- Bố thí vô úy cho tất cả chúng-sanh. 2- Ðối với hữu-tình
thường khởi lòng đại từ. 3- Dứt hết tập khí giận hờn. 4- Thân thường không
bịnh. 5- Thọ mạng lâu dài. 6- Hằng được loài phi nhân thủ hộ. 7- Giấc ngủ
yên ổn không ác mộng. 8- Giải trừ hết oán thù. 9- Không sợ đọa vào ác đạo.
10- Mạng chung sanh lên cõi trời.
Ðó là mười pháp. Nếu đem công đức ấy hồi hướng quả Vô-thượng-bồ-đề, về sau
khi thành Phật, sẽ được thọ mạng tùy tâm tự tại.
- Nầy Long-vương! Nếu không trộm cướp, tất được thành tựu mười pháp bảo
tín. Mười pháp ấy là: 1- Tiền của đầy đủ, không bị vua, giặc, nước, lửa,
con hoang phá hoại. 2- Ðược nhiều người yêu mến. 3- Người không khi phụ.
4- Các nơi đều khen ngợi. 5- Không lo bị tổn hại. 6- Tiếng tốt đồn xa. 7-
Ở giữa quần chúng không sợ hãi. 8- Tài, mạng, sắc, lực đều tốt, biện tài
tham lợi đầy đủ. 9- Hằng có lòng bố thí. 10- Mạng chung sanh lên cõi trời.
Ðó là mười pháp. Nếu đem công đức ấy hồi hướng quả Vô-thượng-bồ-đề, về sau
khi thành Phật, sẽ chứng được trí đại bồ-đề thanh tịnh.
- Nầy Long-vương! Nếu không tà hạnh, tất được bốn pháp mà người trí khen
ngợi. Bốn pháp ấy là: 1- Các căn đoan chánh. 2- Hằng khỏi sự phiền phức.
3- Ðược mọi người khen ngợi. 4- Thê thiếp không bị ai xâm phạm.
Ðó là bốn pháp. Nếu đem công đức ấy hồi hướng quả Vô-thượng-bồ-đề, về sau
khi thành Phật, sẽ được tướng trượng phu ẩn mật tàng của Như-Lai.
- Nầy Long-vương! Nếu không nói dối, tất được tám pháp hàng chư thiên hằng
khen ngợi. Tám pháp ấy là: 1- Miệng thường thơm sạch, có mùi hương
Ưu-Bát-La. 2- Ðược tất cả thế gian tin phục. 3- Lời nói có chứng thật,
trời người kính mến. 4- Hằng dùng ái ngữ an ủi chúng-sanh. 5- Ba nghiệp
thanh tịnh, được sự vui xứng ý. 6- Lời không lầm lỗi, tâm thường an vui.
7- Lời nói tôn trọng, trời người tuân hành. 8- Trí huệ thù thắng, không ai
chế phục được.
Ðó là tám pháp. Nếu đem công đức ấy hồi hướng quả Vô-thượng-bồ-đề, về sau
khi thành Phật, sẽ được chân thật ngữ của Như-Lai.
- Nầy Long-vương! Nếu không nói đôi chiều tất được năm pháp không thể
hoại. Năm pháp ấy là: 1- Ðược thân bất hoại, người không thể hại. 2- Ðược
quyến thuộc bất hoại, người không thể phá. 3- Ðược lòng tin bất hoại, sự
tu hành kiên cố. 4- Ðược thiện tri thức bất hoại, không dối gạt nhau.
Ðó là năm pháp. Nếu đem công đức ấy hồi hướng quả Vô-thượng-bồ-đề, về sau
khi thành Phật, sẽ được quyến thuộc chân chánh, các ma ngoại-đạo không thể
phá hoại.
- Nầy Long-vương! Nếu không nói lời thô ác, tất được thành tựu tám pháp
tịnh nghiệp. Tám pháp ấy là: 1- Lời nói không trái độ. 2- Lời nói có lợi
ích. 3- Lời nói khế lý. 4- Lời nói êm đẹp. 5- Lời nói được vâng thuận. 6-
Lời nói được tin dùng. 7- Lời nói không ai chê. 8- Lời nói được mọi người
ưa thích.
Ðó là tám pháp. Nếu đem công đức ấy hồi hướng quả Vô-thượng-bồ-đề, về sau
khi thành Phật, sẽ được đầy đủ tướng Phạm âm của Như-Lai.
- Nầy Long-vương! Nếu không nói thêu dệt, tất được thành tựu ba pháp quyết
định: Ba pháp ấy là: 1- Quyết định được người trí yêu mến. 2- Quyết định
có thể dùng trí như thật để hỏi đáp. 3- Quyết định có oai đức tối thắng
trong hàng nhơn thiên.
Ðó là ba pháp. Nếu đem công đức ấy hồi hướng quả Vô-thượng-bồ-đề, về sau
khi thành Phật, sẽ được thọ ký không hư dối của Như-Lai.
- Nầy Long-vương! Nếu không tham dục, tất được thành tựu năm pháp tự tại.
Năm pháp ấy là: 1- Ba nghiệp tự tại, các căn đầy đủ. 2- Tài vật tự tại,
tất cả oán địch không thể cướp được. 3- Phước đức tự tại, tùy tâm mong
muốn, các vật đều đầy đủ. 4- Ngôi vua tự tại, cái nơi đều dâng hiến kỳ
trân dị vật. 5- Những vật thu được còn tốt đẹp hơn ý mong muốn trăm bội
phần, do bởi túc nhân không ganh ghét bỏn sẻn.
Ðó là năm pháp, nếu đem công đức ấy hồi hướng quả Vô-thượng-bồ-đề, về sau
khi thành Phật, sẽ là bậc tối tôn trong ba cõi, được tất cả cung kính cúng
dường.
- Nầy Long-vương! Nếu không giận hờn, tất được tám pháp vui đẹp. Tám pháp
ấy là: 1- Không có lòng tổn não. 2- Không có lòng giận hờn. 3- Không có
lòng tranh kiện. 4- Tâm hằng nhu hòa chất trực. 5- Ðược tâm từ của bậc
thánh. 6- Tâm hằng nghĩ đến sự làm cho chúng-sanh được lợi ích an vui. 7-
Thân tướng đoan nghiêm, chúng đều tôn kính. 8- Do lòng hòa nhẫn, mau sanh
về cõi Phạm-Thiên.
Ðó là tám pháp, nếu đem công đức ấy hồi hướng quả Vô-thượng-bồ-đề, về sau
khi thành Phật, sẽ được tâm vô ngại, mọi người chiêm ngưỡng không nhàm
chán.
- Nầy Long-vương! Nếu không tà kiến, sẽ được thành tựu mười pháp công đức.
Mười pháp ấy là: 1- Ðược bạn chân thiện, sự vui chân chánh về ý. 2- Tin
sâu lý nhân-quả, thà bỏ thân mạng quyết không làm ác. 3- Chỉ quy-y Phật,
không quy-y thiên thần, quỷ loại. 4- Lòng ngay thẳng có chánh kiến, xa lìa
tất cả lưới nghi. 5- Thường sanh cõi nhơn thiên, không đọa lạc vào ác đạo.
6- Vô lượng phước huệ thù thắng ngày càng tăng thêm. 7- Xa lìa đường tà,
hằng đi nơi đường thánh. 8- Không khởi thân kiến, xả các nghiệp ác. 9- Trụ
nơi chánh kiến vô ngại. 10- Không bị đọa vào các nạn.
Ðó là mười pháp, nếu đem công đức ấy hồi hướng quả Vô-thượng-bồ-đề, về sau
khi thành Phật, sẽ mau chứng tất cả Phật-pháp, thành tựu sức thần thông tự
tại.
---o0o---
Mục
Lục
Thiên thứ nhất | 1
| 2
| 3
| 4
| 5
| 6
| 7
| 8
| 9
| 10
| 11 | 12
Thiên thứ hai
| 1
| 2
| 3
| 4
| 5
| 6
| 7
| 8
Thiên thứ ba
| 1
| 2
| 3
| 4
| 5
| 6
| 7
| 8
---o0o---
Source:
Di Đà Nguyện Hải
Vi tính:
Huệ Toàn, Huệ Trang, Từ Hỷ và Tuệ Cường
Trình bày : Nhị Tường
Cập nhật ngày 01-04-2003
|
|