|
. |
Phật Học Tinh Yếu
Hòa Thượng Thích Thiền Tâm
Trọn bộ 3
thiên
---o0o---
Sự Phát Triển Của Đại Thừa
Tiết mục:
I. Bốn bậc long tượng của Đại-thừa
II. Chư-pháp-thật-tướng-luận
III. Các luận-sư thuộc hệ thống Thật-tướng-luận
IV. A-lại-da-duyên-khởi-luận
V. Các luận-sư thuộc hệ thống Duyên-khởi-luận
Kinh sách tham khảo: Trung-Quán-Luận,
Trí-Độ-Luận, Hải-Triều-Âm-Văn-Khố, Ấn-Độ-Phật-Giáo-Sử-Lược,
Phật-Học-Đại-Cương.
Đề yếu: Theo Đại-thừa Khởi-Tín-Luận, tổng
thể của nhất tâm có hai môn: Chân-như và Sanh-diệt. Chân-như-môn thuộc về
Bản-thể-quan, Sanh-diệt-môn thuộc về Hiện-tượng-quan. Để phá quan niệm
chấp có và thuyết minh chân tâm theo Bản-thể-quan, hai ngài Mã-Minh,
Long-Thọ đề xướng thuyết Chư-pháp-thật-tướng. Với mục đích trừ quan niệm
chấp Không và thuyết minh Chân Tâm theo Hiện-tượng-quan, hai ngài
Vô-Trước, Thế-Thân đề xướng thuyết A-lại-da-duyên-khởi. Nhưng, Thật-tướng
chẳng phải thiên không, Duyên-khởi chẳng phải trệ-hữu, cả hai đều là thể
diệu-hữu chân-không. Đây là điểm cốt yếu của hai hệ thống Đại-thừa
Phật-giáo.
Kế thừa tư tưởng hai hệ thống nầy, tuy có nhiều luận-sư, nhưng hiển trứ
hơn cả, bên Không-tông có hai ngài: Đề-Bà, Thanh-Biện, bên Hữu-tông có hai
ngài Hộ-Pháp, Giới-Hiền. Về sau, các chi phái Đại-thừa tuy phát xuất ra
nhiều, nhưng cũng không ngoài hai hệ thống Không và Hữu. Cho nên trong bản
chương chỉ đưa ra Thật-tướng-luận và Duyên-khởi-luận để đại biểu cho sự
phát triển của Đại-thừa Phật-giáo, chính là do chủ ý trên đây.
Muốn cắt dây leo, nên từ cội gốc; căn bản đã thông, chi mạt cũng thông.
Tôn chỉ nầy, các học giả tất cả đã biết rõ.
Tiết I: Bốn Bậc Long Tượng Của Đại Thừa
Tư tưởng Đại-thừa Phật-giáo ở Ấn-Độ, tổng yếu có hai hệ thống: hệ thống
Bát-Nhã chủ trương thuyết Chư-pháp-thật-tướng, hệ thống Du-Già chủ trương
thuyết A-lại-da-duyên-khởi. Khai sáng lập thuyết trước, có hai ngài:
Mã-Minh, Long-Thọ. Khởi xướng lập thuyết sau, có hai ngài: Vô-Trước,
Thế-Thân. Nay tưởng cũng nên lược thuật qua sự tích của bốn đại học giả
ấy:
1. Ngài Mã-Minh (Asvaghosa): Niên đại xuất thế của Mã-Minh Bồ-Tát có nhiều
thuyết khác nhau. Lại căn cứ nơi luận Thích-Ma-Ha-Diễn thì có đến sáu ngài
Mã-Minh. Nhưng theo sự nhận xét của phần đông các nhà học Phật thì trước
sau chỉ có một Mã-Minh Bồ-Tát. Và, riêng về thời đại trứ tác, bộ
Đại-Thừa-Khởi-Tín đưa ra thuyết ngài xuất thế khoảng sau Phật diệt độ 600
năm, là có phần chính xác hơn hết.
Ngài Mã-Minh dòng dõi Bà-La-Môn, người thành Sa-Kỳ-Đa (Sakera) thuộc xứ
Trung-Ấn. Ngài là bậc học vấn uyên bác, biện tài vô ngại, văn chương, thi
phú hơn người, thông suốt Phệ-Ðà cùng những môn học phụ thuộc, rành về các
giáo quỹ chân ngôn. Ngài có những biệt danh là: Nan-Phục, Nan-Phục-Hắc,
Dõng-Mẫu-Nhi, Phụ-Nhi, Pháp-Thiện-Hiện, Thể-Huệ... Ban sơ ngài học theo
ngoại-đạo, biện luận thắng tất cả các học giả Phật-giáo tại nước
Ma-Kiệt-Đà. Nhưng sau gặp đại-đức Hiếp-Tôn-giả và Phú-Na-Sa (Pùrnayasas)
ngài bị chiết phục, suy kính hai vị ấy làm bậc thầy. Khi đã nương về
chánh-pháp, ngài du hành các miền Trung, Bắc-Ấn, đem tài hùng biện chiết
phục ngoại-đạo, tuyên dương Phật-giáo, thanh danh vang dội khắp nơi. Tương
truyền ngài có tài vừa đàn vừa ca, làm cho loài ngựa cảm động chảy nước
mắt, kêu lên tiếng bi thương. Và, lúc vua Ca-Nị-Sắc-Ca tiến đánh thành
Hoa-Thị, đòi một trong hai điều kiện: dâng ngài Mã-Minh, hoặc nộp vàng
chín ức. Chủ thành không có đủ vàng, đành phải đem ngài Mã-Minh ra thay
thế. Khi vua được ngài Mã-Minh, liền rước về Bắc-Ấn để hoằng dương
Đại-thừa Phật-giáo. Có thuyết nói, trong thời kỳ kiết-tập Kinh-điển lần
thứ tư, ngài Mã-Minh đã tham gia với phận sự nhuận sắc văn chương.
Về phần trứ thuật, tương truyền ngài có soạn hơn 100 bộ Kinh-luận, nhưng
hiện nay chỉ còn mười tác phẩm như sau: Phật-Sở-Hành-Tán,
Đại-Trang-Nghiêm-Luận-Kinh, Thập-Bất-Thiện-Nghiệp-Đạo-Kinh,
Lục-Thú-Luân-Hồi-Kinh, Sự-Sư-Pháp-Ngũ-Thập-Tụng,
Ni-Kiền-Tử-Vấn-Vô-Ngã-Nghĩa-Kinh, Đại-Tôn-Địa-Huyền-Văn-Bản-Luận,
Đại-Thừa-Khởi-Tín-Luận, Bách-Ngũ-Thập-Tán-Phật-Tụng, và
Bản-Sanh-Mạng-Luận. Trong bài tựa quy kính của Đại-Trang-Nghiêm-Luận-Kinh,
ngài đã viết:
Phú-Na, Hiếp-Tỷ-khưu
Các học giả Di-Chức
Chúng Tát-Bà-Thất-Bà
Bậc Ngưu-Vương chánh đạo
Những luận-sư như thế
Nay tôi đều kính thuận.
Phú-Na-Sa và Hiếp-Tôn-giả là bậc thầy của ngài. Di-Chức là dịch âm của
danh từ Mahìsàsakà, tức Hóa-Tha-bộ. Tát-Bà-Thất-Bà là dịch âm của danh từ
Sarvàtivàsda, tức Nhất-Thế-Hữu-bộ. Ngưu-Vương, có học giả cho là dịch âm
của danh từ Kaukkutika, tức Kê-Dẫn-bộ. Xem thế thì biết sở học của ngài
kiêm cả Đại-thừa, Tiểu-thừa. Bài tựa quy kính trên biểu lộ thái độ khoan
hòa của một nhà học Phật, biết dung hợp tất cả giáo lý không cuộc hạn tông
phái nào, cốt để tìm cầu chỗ hay, gạt bỏ chỗ kém. Có thể cho tư tưởng của
ngài Mã-Minh như một chiếc cầu nối liền giữa hai lãnh vực Tiểu-thừa,
Đại-thừa vậy.
2. Ngài Long-Thọ (Nàgàrjuna): Ngài là người xứ Tỳ-Đạt-Bà (Vidharbha, có
chỗ gọi Bối-Liệp-Nhĩ - Berar) ở Nam-Ấn, thuộc dòng Bà-La-Môn, ra đời vào
khoảng 700 năm sau Phật diệt độ. Ngài có biệt danh Long-Mãnh hoặc
Long-Thắng, bẩm tánh kỳ ngộ, trí huệ sâu xa, xem nghe một lần là nhớ tất
cả, không cần phải hỏi lại. Lúc thiếu thời, ngài đã tinh thông các
Kinh-điển Phệ-Ðà, cùng những môn thiên văn, địa lý, y học, toán số và
nhiều học thuật khác. Nhưng các môn học đó không làm cho tự tâm được thỏa
mãn, nên ngài quyết chí xuất-gia tìm đạo lý cao siêu trong Phật-giáo. Lúc
đầu ngài học về giáo lý Tiểu-thừa, sau lại nghiên cứu sang Đại-thừa
Phật-giáo. Tương truyền rằng sau khi xuất-gia, trong vòng ba tháng ngài đã
đọc hết ba pháp tạng, muốn tìm kinh khác mà không được. Nhân khi du hành
đến Tuyết-Sơn, ngài gặp một vị Tỷ-khưu truyền dạy cho các Kinh-điển
Đại-thừa. Thầy của ngài, tục gọi Tuyết-Sơn-lão-tỳ-khưu, chính là Tôn-giả
La-Hầu-La-Bạt-Đà-La (cùng với đệ-tử ngài Đề-Bà tên đồng mà người khác).
Khi đã thông hiểu giáo lý thâm huyền, vì chí nguyện hoằng pháp, ngài đi du
hóa các nơi, dùng tài biện luận hàng phục ngoại-đạo, và lập thành hệ thống
Đại-thừa Phật-học. Địa điểm hoạt động của ngài có rất nhiều nơi, những chỗ
trung tâm truyền bá là nước Kiều-Tát-La (Kosala). Vị quốc-vương ở bản xứ
vì mến đức độ của ngài, nên phát tâm quy-y Phật-giáo và kiến tạo một đại
tinh-xá ở Hắc-Long-Sơn (Bhràmaragiti) để cho ngài trụ trì. Tương-truyền
ngài đã dùng thần thông đi xuống Long-cung, trong ba tháng đọc thuộc hết
lược bản kinh Hoa-Nghiêm, gồm mười vạn bài kệ. Sau ngài lại đến thiết tháp
ở Nam-Thiên-Trúc, được Kim-Cang-Tát-Đỏa Bồ-Tát truyền thọ cho kinh
Đại-Nhựt, nên tinh thông cả Trì-minh-tạng. Vì thế người đời gọi ngài là
bậc xướng đạo cả hai giáo pháp Hiển và Mật. Về công trình hoằng dương
Phật-pháp, ngài được xem như Ðức Thích-Ca tái hiện.
Trên lãnh vực trứ thuật, Long-Thọ Bồ-Tát đã soạn ra nhiều bộ luận. Tựu
trung các bộ như: Trung-Quán-Luận, Đại-Trí-Độ-Luận,
Thập-Trụ-Tỳ-Bà-Sa-Luận... là được lưu hành hơn cả. Giáo nghĩa của ngài đề
xướng tuy nhiều, nhưng hiển trứ hơn cả là thuyết Bát-bất-trung-đạo và
thuyết Vãng-sanh. Bát-bất-trung-đạo là: bất-sanh, bất-diệt, bất-thường,
bất-đoạn, bất-nhất, bất-dị, bất-lai, bất-khứ. Trung-đạo đây không phải ý
nghĩa trung gian giữa sự có không, sanh diệt, đoạn thường, mà là ý nghĩa
vượt ra ngoài vòng tương đối sai biệt để hiển lộ thể chân-không diệu-hữu,
thuộc trường hợp dứt bặt lời nói và sự suy nghĩ. Còn thuyết Vãng-sanh, như
nơi phẩm Dị-Hành trong luận Thập-Trụ-Tỳ-Bà-Sa, ngài đã nói: “Từ địa vị
phàm-phu cho đến ngôi vị Vô-thượng-chánh-giác có hai đường lối tu tập:
Nan-hành-đạo và Dị-hành-đạo. Nan-hành-đạo là dụng công khắc khổ tu trì
chẳng tiếc thân mạng, ngày đêm tinh tấn, mà được bất thối chuyển.
Dị-hành-đạo là dùng phương tiện niệm danh hiệu chư Phật, mà được bất thối
chuyển mau lẹ dễ dàng. Nan-hành-đạo thuộc về tự-lực; Dị-hành-đạo kiêm cả
tự-lực và tha-lực”. Trong Dị-hành-đạo, ngài lại thiên trọng về phần niệm
thánh hiệu Phật A-Di-Đà. Hai lập thuyết do ngài đề xướng, đã ứng hợp với
lời huyền ký của Đức Phật trong kinh Lăng-Già:
“Sau xứ
Nam-Thiên-Trúc.
Có danh đức Tỷ-khưu.
Tôn hiệu là Long-Thọ.
Hay phá hữu, vô tông.
Tuyên dương pháp
Đại-thừa.
Trong thế gian hiển
ngã.
Được Sơ-hoan-hỷ-địa.
Sanh về cõi Cực-Lạc”.
3. Ngài Vô-Trước (Asanga): Sau Phật diệt độ 900 năm, có hai bậc đại học
giả Phật-giáo ra đời. Đó là ngài Vô-Trước và Thế-Thân. Sanh quán của hai
ngài ở tại thành Bá-Lộ-Sa (Purasapura), thuộc nước Kiền-Đà-La miền Bắc-Ấn.
Hai ngài nguyên dòng dõi Bà-La-Môn, thân phụ là Kiều-Thi-Ca (Kausika),
thân mẫu là Tỷ-Lân-Trì (Virinci). Vô-Trước có ba anh em, ngài là anh cả,
Thế-Thân là em lớn, Tỷ-Lân-Trì-Tử (Virincivaisa) là em út. Cả ba anh em
đều xuất-gia đầu Phật. Ban sơ ngài Vô-Trước tin theo đạo Bà-La-Môn, sau bỏ
Bà-La-Môn đi xuất-gia, học tập đạo pháp Tiểu-thừa thuộc Hữu-bộ. Nhưng vì
không mãn nguyện với giáo lý ấy, ngài lại chuyển sang nghiên cứu Kinh-điển
Đại-thừa. Tương truyền, ngài đã dùng sức thần thông lên cung trời Đâu-Suất
(Tusita) để nghe Bồ-Tát Di-Lặc (Maitreya) giảng về pháp Đại-thừa. Sau khi
đó, ngài lại thỉnh Bồ-Tát giáng xuống hạ giới, ngự tại một giảng đường
thuộc nước A-Du-Đà (Ayodhyà) miền Trung-Ấn. Trong khoảng thời gian bốn
tháng, cứ về đêm thì ngài nghe Bồ-Tát thuyết pháp, ban ngày lại đem những
điều đã nghe được tuyên giảng cho đại chúng. Và cũng trong vòng bốn tháng.
Bồ-Tát Di-Lặc đã nói xong năm bộ đại luận: Du-Già-Sư-Địa-Luận,
Đại-Thừa-Trang-Nghiêm-Kinh-Luận, Thập-Địa-Kinh-Luận,
Trung-Biên-Phân-Biệt-Luận, Kim-Cang-Bát-Nhã-Luận.
Ngài Vô-Trước cũng có nhiều trứ tác riêng, gây thành hệ thống Pháp-Tướng
Duy-thức-học. Nơi trung tâm hoằng pháp của ngài là hai nước A-Du-Đà và
Ma-Kiệt-Đà. Ngài thọ được 75 tuổi.
4. Ngài Thế-Thân (Vasubandhu Bà-Tu-Bàn-Đầu): Sanh sau Vô-Trước luận-sư độ
hai mươi năm, Thế-Thân Bồ-Tát là một bậc thông minh tài tuấn. Ngài
xuất-gia theo Hữu-bộ, đến xứ Ca-Thất-Di-La học giáo nghĩa Đại-Tỳ-Bà-Sa,
rồi trở về bản quốc là nước Kiền-Đà-La thuộc miền Bắc-Ấn, soạn ra bộ
Câu-Xá-Luận. Lúc đầu ngài hết sức hoằng dương giáo lý Tiểu-thừa, bài bác
Đại-thừa. Sau nhờ anh là Vô-Trước điểm hóa, ngài được khai ngộ, trở lại
tuyên dương Đại-thừa Phật-giáo. Trước sau ngài trứ tác tất cả 500 bộ luận
Tiểu-thừa và 500 bộ luận Đại-thừa. Căn cứ theo những bộ đã dịch sang chữ
Hán, ta có thể chia tư tưởng học thuật của ngài thành năm thời kỳ:
Tiểu-thừa Hữu-bộ, Đại-thừa Duy-thức, Kim-Cang-Bát-Nhã, Pháp-Hoa, Niết-Bàn
và Tha-Lực-Tịnh-Độ.
Sau các đại học giả: Mã-Minh, Long-Thọ, Vô-Trước, ta có thể nói Thế-Thân
luận-sư là một ngôi sao sáng chói nhất trên nền trời Phật-học ở Ấn-Độ thời
bấy giờ. Những đặc sắc của ngài cũng đi song song với Bồ-Tát Long-Thọ. Nếu
Bồ-Tát Long-Thọ là bậc hưng long Đại-thừa Phật-giáo ở thời đầu, thì ngài
là bậc trung hưng giáo pháp nầy ở thời giữa. Bồ-Tát Long-Thọ hoằng truyền
Phật-giáo ở Nam-Ấn, ngài thạnh truyền chánh-pháp ở Bắc-Ấn. Bồ-Tát Long-Thọ
kế thừa hệ thống giáo lý của Đại-Chúng-bộ, ngài kế thừa hệ thống tông
nghĩa của Thượng-Tọa-bộ. Bồ-Tát Long-Thọ xương minh tư tưởng
Chư-pháp-thật-tướng thuộc lập thuyết “Không”, ngài đề xướng tư tưởng
A-lại-da-duyên-khởi thuộc lập thuyết “Hữu”. Bồ-Tát Long-Thọ vang danh là
Thiên-bộ-luận-chủ, ngài cũng nổi danh là Thiên-bộ-luận-sư.
Qua thời gian du hóa đó đây, cuối cùng Thế-Thân luận-sư trở về nhập diệt
tại nước A-Du-Đà, hưởng thọ 80 tuổi.
Tiết II: Chư Pháp Thật Tướng Luận
Thuyết thật-tướng là một lối lý luận nói rõ thực thể của vũ trụ, đại để
cũng như thuyết thực-tại (réalisme) thông thường, thực tại thuộc về trực
quan giới, không thể đem lời nói và văn từ mà diễn tả được. Tuy nhiên,
chúng ta có thể dùng những tỷ dụ tương tợ để hình dung nó. Trung-Quán-Luận
nói:
Các pháp nhân duyên sanh
Ta nói tức là không
Đó chính là Giả Danh
Cũng là nghĩa Trung Ðạo.
Bài kệ nầy thuyết minh: bởi các pháp do nhân duyên sanh ra, nên nó là
không, giả, và chính là Trung Ðạo Thật tướng. Để hiểu nghĩa nầy rõ ràng
hơn, ta hãy quay sang phân tích về đạo lý “Bát-bất”.
Các pháp đã do nhân duyên hòa hợp mà sanh, nên chỉ là giả huyễn chớ không
phải thật có; nếu quả thật có, tất ưng không đợi nhân duyên mới sanh. Vì
nghĩa không phải thật sanh, nên gọi là “bất sanh”. Khi thế lực nhân duyên
suy tàn, tất cả các pháp phải diệt; nhưng trước kia đã không sanh, thì nay
đâu thật có diệt, vì thế nên gọi là “bất diệt”. Các pháp do nhân duyên mà
có sanh trưởng đổi thay nên gọi là “bất thường”. Vạn hữu trước có sau
không gọi là đoạn, nay đã không thật có, nên cũng chẳng có chi là đoạn.
Đây là nghĩa “bất đoạn”. Các pháp sanh khởi trước sau chẳng giống nhau,
như mộng với lúa không phải là một, đó là nghĩa “bất nhất”. Nhưng nếu quả
mộng với lúa không phải là một, thì mộng không ưng sanh lúa, mà phải sanh
cái khác; nay vẫn thấy sanh lúa, nên gọi là “bất dị”. Vạn hữu đã như
huyễn, thì sự đến đi dường như trong mộng không có thiết thật, nên gọi là
“bất lai, bất khứ”.
Trước mắt chúng ta, xưa nay các đối tượng vẫn hiện bày ngàn hình muôn
trạng, tại sao ngài Long-Thọ dùng thuyết “bát bất” để phủ nhận? Bởi theo
quan niệm của thế gian thì các pháp có sanh, có diệt, có thường, có đoạn,
có một, có khác, có lại, có đi; quan niệm nầy thuộc về lối mê chấp trên
giả tướng. Để phá quan niệm ấy và hiểu rõ Thật Tướng Trung Ðạo, ngài
Long-Thọ dùng tám thứ không là: không sanh, không diệt, không thường,
không đoạn, không một, không khác, không lại, không đi. Thế thì sự phủ
nhận trên, chỉ có tính cách bác phá quan niệm chấp tướng, chớ không phải
thật phủ nhận các tướng, bởi hằng sa muôn pháp là diệu thể bồ-đề. Đây là
lối dùng Không môn đi vào Thật Tướng.
Đại-Trí-Độ-Luận nói: “Trong Phật-pháp có nhị đế, là: thế-đế và
đệ-nhất-nghĩa-đế. Vì thế-đế nên Như-Lai nói có chúng-sanh, vì
đệ-nhất-nghĩa-đế nên lại bảo chúng-sanh không thật có”. Trung-Quán-Luận
cũng nói: “Chư Phật y theo nhị-đế mà thuyết pháp cho chúng-sanh, đó là
thế-tục-đế và đệ-nhất-nghĩa-đế. Nếu người nào không biết mà phân biệt
nhị-đế, tất không thể hiểu nghĩa chân thật của đạo pháp nhiệm mầu”. Căn cứ
hai đoạn trên, ta thấy thế-đế hay đệ-nhất-nghĩa-đế đều là pháp giả lập để
đối trị bệnh mê của chúng-sanh, nếu chấp một trong hai phương diện thì
không làm sao hiểu được Phật-pháp. Như cái nhà do nhân duyên kèo, cột,
vách, ngói hợp thành, nếu bảo đó là thật có hay thật không, đều là quan
niệm trên mê chấp. Cho nên chư Phật không rời các pháp mà nói thật tướng,
không động thật tướng mà lập các pháp. Vì thế, nhị-đế tuy hai mà chẳng
phải hai, chỉ vì phàm-phu lầm diệu-hữu là vọng-hữu, Nhị-thừa mê chân-không
làm thiên-không, nên mới dùng phương tiện để đối trị vậy thôi.
Như trên, hai đạo lý bát-bất và nhị-đế là tư tưởng căn bản của
Chư-pháp-thật-tướng-luận. Thật tướng nầy, như trước đã nói, chỉ cùng thí
dụ tương tợ để ngộ nhập, tuyệt không thể dùng lời nói cùng văn tự miêu tả
được. Cho nên, Duy-Thức-tông gọi là “Phế thuyên đàm chỉ”. Tam-Luận-tông
gọi là “Ngôn vong lự tuyệt”; Thiên-Thai-tông gọi là “Bách phi câu khiển,
tứ cú giai ly”; Thiền-tông gọi là “ Bất lập văn tự”; Hoa-Nghiêm-tông gọi
là “Quả phần bất khả thuyết”; Chân-Ngôn-tông gọi là “Xuất quá ngôn ngữ
đạo”; Tịnh-Độ-tông gọi là “Bất khả xưng, bất khả thuyết, bất khả tư nghị”.
Muốn hiểu Thật-tướng, chúng ta nên thầm hội ý vị của những câu trên.
Tiết III: Các Luận Sư Thuộc Hệ Thống Thật Tướng Luận
Lập thuyết Chư-pháp-tướng-pháp nguyên từ hệ thống Đại-Chúng-bộ, do hai
ngài Mã-Minh, Long-Thọ đề xướng, và căn cứ truyền giáo khởi thủy ở Nam-Ấn.
Thừa kế tư tưởng nầy, có ngài Đề-Bà (Àryadeva Thánh-Thiên). Đề-Bà luận-sư
ra đời vào thế kỷ thứ ba, sanh quán ở Tích-Lan, sau qua Nam-Ấn làm đệ-tử
của Bồ-Tát Long-Thọ. Ngài có viết ra bộ Quảng-Bách-Luận, thường dùng lý
thuyết “không” để hàng phục ngoại-đạo, sau bị họ oán sợ mà ám sát. Đệ-tử
của luận-sư Đề-Bà là La-Hầu-La-Bạt-Đà-La (Ràhula bhadra), gọi tắt là
La-Hầu-Đa-La, lại kế truyền học thuyết của thầy. Ngài là bậc thông minh,
có tài biện luận, thường đến các nước ở vùng Trung-Ấn để tuyên dương giáo
lý Đại-thừa. Chính ngài đã chú thích bộ Trung-Luận của Long-Thọ Bồ-Tát,
nhưng rất tiếc không còn truyền được tới ngày nay.
Đến thế kỷ thứ tư, có hai ngài Thanh-Mục (Pingala) và Kiên-Ý cũng tổ thuật
tư tưởng của ngài Long-Thọ. Thanh-Mục luận-sư chú thích bộ Trung-Luận theo
chủ nghĩa “Vô tướng giai không”; Kiên-Ý luận-sư thì viết ra bộ
Nhập-Đại-Thừa-Luận. Qua thế kỷ thứ năm, ở Nam-Ấn có ngài Phật-Hộ
(Buddhapàlita) ra đời, tuyên dương thuyết Trung-đạo phi-hữu-phi-không của
Bồ-Tát Long-Thọ. Pho trứ tác của ngài về sau lưu hành sang Tây-Tạng gây
thành hệ phái Trung-Quán-tông.
Cuối thế kỷ thứ năm, cũng ở Nam-Ấn, có luận-sư Thanh-Biện (Bhàvaviveka -
Tình-Biện), tạo ra bộ Chưởng-Trân-Luận và Bát-Nhã-Đăng-Luận. Luận-sư dung
hòa Không-thuyết của Long-Thọ với Duy-thức-học, và đề xướng tục đế là pháp
nhân duyên thể không, Chân-Đế là pháp tánh thường trú. Thế là thuyết
Vô-tướng-giai-không của Bồ-Tát Long-Thọ đến giai đoạn nầy đã có hơi chuyển
biến. Đối với thuyết Y-tha-khởi của Duy-thức thuộc Hữu-tông, luận-sư giải
thích là nhân duyên không pháp. Lý luận nầy đã gây thành cuộc tranh biện
dây dưa bất phân thắng bại của hai tông Không, Hữu.
Cuối thế kỷ thứ sáu, có ngài Trí-Quang (Jnànaprabha), đệ-tử của Thanh-Biện
luận-sư ra đời. Ngài khởi xướng lối phán thích giáo lý, đưa học thuyết của
Bồ-Tát Long-Thọ lên hàng tối cao. Đồng thời ở Nam-Ấn lại có ngài
Nguyệt-Xứng (Candrakìrti) soạn bộ Trung-Luận-Thích, lập thuyết cũng tương
phù với ngài Phật-Hộ.
Đầu thế kỷ thứ bảy có đệ-tử ngài Trí-Quang là Sư-Tử-Quang xuất hiện, giảng
về Tam-luận tại chùa Na-Lan-Đà. Ngoài ra, còn có các luận-sư khác như
Thắng-Quang, Trí-Hộ... đều tuyên dương giáo nghĩa của ngài Long-Thọ.
Như thế, hệ thống truyền thừa về Thật-tướng-luận thuộc Không-tông, có thể
sắp theo thứ tự như sau: Mã-Minh, Long-Thọ, Đề-Bà, La-Hầu-Đa-La,
Thanh-Mục, Phật-Hộ, Thanh-Biện, Trí-Quang, Sư-Tử-Quang, Thắng-Quang,
Trí-Hộ...
Tiết IV: A Lại Da Duyên Khởi Luận
Thuyết Thật-tướng của hai ngài Mã-Minh, Long-Thọ, thể hiện nghĩa
chân-không của Như-Lai-tạng. Qua đến thời đại Pháp-tướng-học, hai ngài
Vô-Trước, Thế-Thân, lại thuyết minh Như-Lai-tạng bằng nghĩa diệu-hữu.
Từ trước, hàng Tiểu-thừa chỉ thành lập có sáu thức là: Nhãn, Nhĩ, Tỷ,
Thiệt, Thân và Ý Thức. Song sáu thức là những tâm lý sanh diệt, vô thường.
Như năm thức trước chỉ do sự kích thích của ngoại giới mà tả tượng vào nội
tâm. Chúng không có những tác dụng tinh thần như: so sánh, suy luận hoặc
truy niệm cảnh quá khứ. Có đủ những tác dụng ấy và chiếm được địa vị trọng
yếu, duy có thức thứ sáu mà thôi. Nhưng ý thức cũng là một thứ tâm lý có
gián đoạn, niệm trước đã qua, niệm sau mới đến. Và khi chúng ta chết rồi
thì ý thức cũng tiêu tan. Thế thì cái gì duy trì nghiệp lực làm cho nó
không gián đoạn sau khi chúng ta chết?
Lý do trên là nguyên nhân thành lập ra A-lại-da-thức của phái Đại-thừa.
A-lại-da có nghĩa: Hàm-tàng-thức hoặc Chủng-tử-thức, là một tâm thể chứa
đựng tất cả chủng tử của vạn hữu, làm cội gốc duy trì và mở mang ra hiện
tượng giới, có đủ ngàn hình muôn trạng bao la. Sáng lập ra thuyết
A-lại-da-duyên-khởi là giáo phái Pháp-tướng, cũng gọi giáo phái Duy-thức.
Ngoài sáu thức của Tiểu-thừa, phái nầy lập thêm hai thức nữa: Mạt-na
(Màna) thứ bảy, và A-lại-da (Alaya) thứ tám. Mạt-na có nghĩa: Chấp ngã,
một tâm lý lầm nhận cái ta là có thật.
Theo nhà Duy-thức, nếu nói chân-như làm duyên khởi cho vạn hữu, là không
hợp lý. Bởi chân-như thì bình đẳng đồng nhất, mà vạn hữu thì muôn hình sai
biệt. Vậy căn nguyên phát khởi các hiện tượng muôn vàn sai biệt ấy, tất
phải do muôn vàn chủng tử sai biệt. Nơi chứa đựng các chủng tử nầy là thức
A-lại-da, và A-lại-da làm nhân duyên phát khởi các pháp, nên gọi là
A-lại-da-duyên-khởi. Chính thức A-lại-da nầy cũng do nhân duyên mà thành.
Từ vô số kiếp đến giờ, do nghiệp nhân lành dữ huân tập, nó vẫn luôn luôn
sanh khởi không gián đoạn, chứa đựng tất cả mọi chủng tử và có khả năng vô
hạn để phát hiện ra hữu-tình giới và khí-thế-giới. A-lại-da có hai:
Chúng-sanh A-lại-da-thức và Như-Lai A-lại-da-thức. A-lại-da của chúng-sanh
có tính cách biệt. A-lại-da của Như-Lai có tính cách đồng. A-lại-da của
chúng-sanh vô thủy hữu chung. A-lại-da của Như-Lai vô thủy vô chung.
A-lại-da của chúng-sanh thuộc Biến-kế-chấp-tánh. A-lại-da của Như-Lai
thuộc Viên-thành-thật-tánh.
Duy-thức-tông lập ra ba tánh: Biến-kế-chấp, Y-tha-khởi và Viên-thành-thật.
Y-tha-khởi là các pháp do nhân duyên sanh khởi, đứng địa vị trung tâm.
Trên Y-tha-khởi mà lầm nhận có không, đoạn thường, sanh diệt, quay cuồng
theo hiện tượng là Biến-kế-chấp. Trên Y-tha-khởi mà tiêu diệt những quan
niệm ấy, là Viên-thành-thật. Trong A-lại-da-thức của chúng ta chứa đủ
chủng tử mê và ngộ. Nếu chúng ta hiểu rõ nhân, pháp như huyễn, không còn
quay cuồng mê chấp theo muôn tượng, thì tâm thức lắng yên, phiền não tiêu
diệt, lần lần sanh ra giác ngộ. Vậy từ mê đến ngộ chỉ là sự thay đổi quan
niệm.
Tóm lại, thuyết A-lại-da-duyên-khởi đứng về mặt diệu-hữu mà thuyết minh
Như-Lai-tạng. Thể tướng A-lại-da nầy làm nhân duyên cho nhau sanh khởi vô
cùng; trong vô thường ẩn lý chân thường, trong sanh diệt ẩn lý phi sanh
diệt, mê cùng ngộ chỉ bởi nơi người mà thôi. Cho nên lời văn trong bài tựa
kinh Lăng-Già nói: “Tâm không rời thức, hằng niết-bàn nơi sự diệt sanh;
thức chẳng lìa tâm, uổng sống chất trong vòng thường trụ” là chỉ cho ý
nghĩa nầy vậy.
Tiết V: Các Luận Sư Thuộc Hệ Thống Duyên Khởi Luận
Tư tưởng A-lại-da-duyên-khởi phát nguyên từ hệ thống Thượng-Tọa-bộ, do hai
ngài Vô-Trước, Thế-Thân đề xướng, và căn cứ truyền giáo khởi thủy ở
Bắc-Ấn. Tư tưởng nầy được truyền bá hầu khắp Ấn-Độ, đứng ngang hàng với
lập thuyết Thật-tướng-luận của hai ngài Mã-Minh, Long-Thọ, gây thành hai
hệ thống Phật-giáo lớn lao và có thế lực nhất đương thời.
Thừa kế Duyên-khởi-luận, sau ngài Thế-Thân, có các luận-sư: Thân-Thắng
(Bandhusri), Hỏa-Biện (Gitrabhàna), Đức-Huệ (Gunamati), An-Huệ
(Sthiramati), Nan-Đà (Nanda), Tịnh-Nguyệt (Sudacandra), Hộ-Pháp
(Dharmapàla), Thắng-Hữu (Visesamitra), Thắng-tử (Jinaputra), Trí-Nguyệt
(Jnànacandra). Các luận-sư trên đều là những nhân vật từ đầu đến cuối thế
kỷ thứ sáu, và cũng là mười đại luận-sư của Duy-thức-tông. Trong đây, ngài
Hộ-Pháp là vị thừa kế chính thống và hoàn thành môn học của ngài Thế-Thân.
Ngoài ra còn có ngài Trần-Na (Mahàdignàga Đại-Vức-Long) hoàn thành môn
Nhân-minh-luận để phụ lực Duy-thức-học. Trong hàng đệ-tử ngài Hộ-Pháp có
luận-sư Giới-Hiền (Silabhadra) cũng là một bậc thái đẩu của các học giả
đương thời về môn Pháp-tướng. Về sự nhận thức, tuy cũng đồng tuyên dương
Pháp-tướng-học, nhưng tư tưởng của các luận-sư trên có đôi chút khác nhau.
Như các ngài: Thân-Thắng, Nan-Đà, Đức-Huệ, Tịnh-Nguyệt, chỉ thành lập có
hai phần Duy-thức là Tướng-phần và Kiến-phần. Ngài An-Huệ thành lập thêm
Tự-chứng-phần và bảo đó là tác dụng nhận thức có thực thể, còn Tướng, Kiến
phần không có thực thể. Riêng hai ngài Hỏa-Biện, Trần-Na thì chủ trương cả
ba đều có thực thể. Về sau, ngài Hộ-Pháp lại lập thêm Chứng-tự-chứng-phần
để hoàn thành các thuyết trên.
Đến tiền bán thế kỷ thứ bảy, khi ngài Huyền-Trang ở Trung-Hoa sang Ấn-Độ
cầu pháp, Giới-Hiền luận-sư đã hơn 100 tuổi già. Tại học viện Na-Lan-đà,
luận-sư đem pháp môn Duy-thức truyền cho ngài Huyền-Trang. Về sau Trang-sư
tập hợp giáo nghĩa của mười bậc đại luận-sư trong tông Pháp-tướng mà viết
ra bộ Thành-Duy-Thức-Luận. Về nội dung, ngài lấy giáo nghĩa của Hộ-Pháp
luận-sư làm phần chính, còn học thuyết của chín vị kia chỉ đứng ở phần
phụ. Theo ký sự của ngài Huyền-Trang, khung cảnh chùa Na-Lan-Đà gồm có tám
viện, ba trăm phòng. Tăng-chúng tập hợp tại đó đến năm ngàn vị, những bậc
luận-sư thuộc hai hệ thống Không, Hữu phần nhiều đều về ở đây. Người muốn
lưu học lại chùa nầy, trước tiên phải qua một kỳ khảo sát về hạnh giải rồi
mới được cho nhập học. Vì thế, các học giả đã tốt nghiệp ở chùa nầy, đều
là những người tài đức trong Phật-giáo.
Như trên đã nói, Thật-tướng-luận và Duyên-khởi-luận cấu thành hai tư trào
lớn về giáo pháp Đại-thừa, diễn xuất hết tinh hoa của đạo Phật. Đến cuối
thế kỷ thứ bảy lại có ngài Pháp-Xứng (Dharmakìrti), một bậc học rộng tài
cao, viết ra Tạp-Lượng-Luận, chấn hưng Nhân-minh-học của ngài Trần-Na đến
chỗ đặc sắc, làm cho pháp môn Duy-thức nảy thêm những tia sáng tân kỳ.
Song song với hai tư trào Không, Hữu, Mật-giáo và Tịnh-độ-tông cũng được
phát triển một cách cực thạnh.
Vấn đề nầy không đơn giản, trong phần khác sẽ nói đến. Và nội dung của bản
thiên xin kết thúc ở nơi đây.
---o0o---
Mục
Lục
Thiên thứ nhất | 1
| 2
| 3
| 4
| 5
| 6
| 7
| 8
| 9
| 10
| 11 | 12
Thiên thứ hai
| 1
| 2
| 3
| 4
| 5
| 6
| 7
| 8
Thiên thứ ba
| 1
| 2
| 3
| 4
| 5
| 6
| 7
| 8
---o0o---
Source:
Di Đà Nguyện Hải
Vi tính:
Huệ Toàn, Huệ Trang, Từ Hỷ và Tuệ Cường
Trình bày : Nhị Tường
Cập nhật ngày 01-04-2003
|
|