|
. |
Phật Học Tinh Yếu
Hòa Thượng Thích Thiền Tâm
Trọn bộ 3
thiên
---o0o---
Xuất Pháp Ðiểm
Của Ðạo Phật
Tiết mục:
I. Vấn đề khổ trong đạo Phật
II. Căn bản giải thoát của đạo Phật
III. Ý nghĩa xuất-gia của đạo Phật
IV. Bản hoài ra đời của Đức Phật
Kinh sách tham khảo: Kinh Diệu-Pháp-Liên-Hoa, Kinh Hiền-Ngu,
Trúc-Song-Tùy-Bút-Lục, Tri-Môn-Cảnh-Huấn.
Ðề yếu: Ðiểm xuất phát của các tôn-giáo không ngoài vấn đề thoát
khổ, vì thật ra trong đời nỗi khổ vẫn nhiều, dù có vui cũng chỉ là tương
đối. Nhưng muốn đi đến chỗ an vui tuyệt đối, vĩnh viễn và bất hoại, hành
giả phải tiêu trừ cái ta, bởi ngã chấp là nguyên nhân của sự sống chết
luân hồi.
Ðạo Phật cao siêu và cứu cánh hơn các tôn-giáo khác là ở điểm đó. Phương
tiện để mau trừ trần phược, dễ đạt đạo, nguyên của phần đông giáo phái, là
đường lối xuất-gia. Và ý nghĩa đặc sắc về xuất-gia của đạo Phật là thoát
ly những nhà: thế tục, phiền não, tam giới. Song dù đã ra khỏi tam giới,
sự độ mình và độ người cũng chưa gọi là viên mãn, hành giả còn phải tiến
tu phước huệ, để vượt lên địa vị tột cùng là quả Phật. Chư Như-Lai ra đời
cũng không ngoài bản nguyện nầy.
Tuy nhiên, vì chúng sanh căn cơ sai biệt, nếu chỉ nói một pháp tất không
thể độ khắp hết được, nên khi xuất thế chư Phật phải phương tiện mở ra
nhiều môn. Như các sông ngòi đều chảy ra biển, bao nhiêu pháp lưu tuy có
cạn sâu cũng đều trôi về Viên-giác-hải. Giáo pháp của đạo Phật tuy nhiều,
nhưng đại ước chia làm năm thừa hay ba thừa. Nhơn-thiên-thừa trong bản
thiên, chỉ thuộc về phạm vi của hạ thừa mà thôi.
Tiết I: Vấn Ðề Khổ Trong Ðạo Phật
Thử nhìn khi cuộc sống ban mai bừng dậy ở đô thành, ta thấy trên các nẻo
đường, khuôn chợ, hè phố, quả là hiện cảnh của một suối người ồn ào rộn
rịp. Trong ấy, có già trẻ nam nữ, có sang hèn, nghèo giàu, có kẻ xinh đẹp,
người xấu thô, kẻ khoẻ mạnh vẹn toàn, người yếu gầy tàn tật. Số người đông
đảo gồm nhiều hạng sai biệt ấy đang làm gì? Tất cả đều đi về vấn đề mưu
sinh, lo ăn, mặc và ở. Trong cuộc sống hỗn độn, cũng vì việc đó mà loài
người tranh đua, giành giựt, lường gạt, cướp bóc, cho đến giết hại lẫn
nhau. Từ thế kỷ nầy đến thế kỷ khác, hết đời trị đến đời loạn, giữa cái
vui bào ảnh sự khổ triền miên, qua bao nhiêu lớp tang thương, loài người
vẫn sống trong cảnh ấy. “Cổ nhơn bất kiến kim thời nguyệt, kim nguyệt tằng
kinh chiếu cổ nhơn”. Người xưa không thấy cảnh trăng ngày nay, người nay
cũng không thưởng thức được cảnh trăng thời xưa, song vầng trăng đã chứng
kiến biết bao sự đổi thay của lớp người kim cổ! Và nếu gương trăng có được
mối suy tư, chắc cũng sẽ tự hỏi: “Dòng đời cứ liên tục như thế, con người
từ đâu sanh ra? Khi chết sẽ đi về đâu? Và cái gì là cứu cánh của kiếp
người?”
Nhưng vì gương nga không có mối suy tư, nên cuộc đời xưa nay vẫn như thế.
Nếu có chăng thì cũng chỉ một ít sự cảnh giác nho nhỏ về thân thế của loài
người - những cây sậy biết suy tư. Chẳng hạn như:
Khi tỉnh mộng, lúc tàn canh,
Giật mình, mình lại thương mình xót xa!
Hay:
Còn ai, ai tỉnh, ai mê?
Hỡi ai thiên cổ đi về những đâu?
... Ðời đáng chán hay không đáng chán?
Cất chén quỳnh xin hỏi bạn tri âm?
Hoặc là:
Nghĩ thân phù thế mà đau,
Bọt trong bể khổ, bèo đầu bến mê!
Hoặc nữa:
Trong trời đất cổ kim, kim cổ,
Mảnh hình hài, không có, có không!
Nhưng con người chỉ thoạt bừng tỉnh đôi phút rồi mơ màng trở lại, nên cuộc
đời đâu cũng vào đó, và thế nhơn vẫn nối dõi mãi kiếp sống mộng trong cõi
ngàn năm mây bay.
Trong giấc mơ vô tận ấy, ai là người đã thức tỉnh? Thuở xưa Ðức Thích-Ca
khi còn là Thái-tử, nhân lúc đi du ngoạn ngoài bốn cửa thành, Ngài đã nhận
thức sâu xa cái khổ của kiếp người qua các tướng già, bịnh, chết. Và Ngài
cũng đã phát giác con đường thoát khổ qua hình dáng tự tại của vị Sa-môn
xả hết sự dục nhiễm ở đời, xuất-gia đi tìm chân lý. Cho nên sau khi đắc
đạo, Ðức Mâu-Ni Thế-Tôn hằng đem thuyết bát-khổ, tam-khổ để cảnh giác hàng
môn đệ khuyên họ thắp sáng ngọn đuốc tự tỉnh, cố gắng vượt suối băng đồi,
dìu dắt nhau hướng về chân trời giải thoát.
Bát-khổ là gì? Ðó là tám nỗi khổ của kiếp người gồm có: sanh, già, bệnh,
chết, thương xa lìa, oán gặp gỡ, sự mong cầu không toại ý, và năm ấm lẫy
lừng.
Về mối khổ thứ nhất, theo huệ nhãn của Đức Phật thấy, thì con người khi
còn ở trong thai, tâm thức mơ màng, sống giữa cảnh giới nhơ nhớp tối tăm
như cảnh tù ngục. Khi bà mẹ dùng thức ăn quá nóng, thai nhi như bị nằm gần
lò lửa, và khi dùng thức ăn quá lạnh, thai nhi như ở trong chỗ giá băng.
Ðến ngày sanh nở, đứa trẻ thoát ra khỏi thai cung lẫn lộn với máu huyết, ở
trong trạng thái nguy hiểm thừa sống thiếu chết. Khi mới sanh ra con người
chỉ là một khối thịt non, cơn đói khát, lúc lạnh nóng, khi bị kiến muỗi
cắn đốt, duy biết khóc la. Tình trạng ấy thật đáng thương xót, mà loài
người trong vô lượng kiếp vẫn mãi chịu sự sanh khổ đó. Vì thế nên tiên đức
đã than:
“Vừa khỏi bào thai
lại nhập thai.
Thánh-nhơn trông thấy
động bi ai!
Huyễn thân xét lại
toàn nhơ khổ.
Dứt vọng mau về tánh
bản lai”.
Cây cỏ đã có lúc tươi tắn sởn sơ, rồi sẽ phải đi đến chỗ điêu tàn cằn cỗi.
Con người cũng thế, có sanh tất có già, sanh đã khổ mà già cũng khổ. “Nhớ
thuở còn thơ dong ngựa trúc. Thoắt trông nay tóc điểm màu sương!” Con
người dù là thư sinh mặt trắng hay thiếu nữ má hồng, ngày kia cũng phải
trải qua cảnh ấy. Khi đã đến tuổi xế tàn, thì con người chịu đủ các thứ
suy khổ: da nhăn tóc bạc, lưng mỏi gối dùn, tai lãng mắt lờ, răng long má
cóp, ăn chẳng biết ngon, ngủ không yên giấc. Như thân cây đã trải qua bao
sương nắng rồi đến lúc ủ rũ xác xơ, con người chịu nhiều nỗi lao lực lao
tâm rồi lại tới cảnh suy già tàn tạ, tình trạng ấy nào có vui chi? Vì thế
Đức Phật mới bảo: già là khổ!
Lão-tử đã than: “Ta có họa lớn, vì ta có thân”. Thật vậy, đã có thân thì
khi đói khát, lúc thời tiết nóng lạnh, khi muỗi mòng cắn đốt, lúc cực nhọc
vất vả, con người đều cảm thấy khổ. Nói riêng về sự đau bệnh, không ai có
thể tránh khỏi, khác chăng chỉ ít nhiều nặng nhẹ mà thôi. Các chứng ngoại
cảm nội thương, nếu nhẹ thì chỉ một đôi bữa hay năm mười ngày, như nặng có
khi triền miên trải qua năm tháng, làm cho con người chịu nhiều nỗi nhọc
mệt khổ đau. Nếu vương nhằm những ác bệnh như: lao trái, phong cùi, ung
thư, cổ trướng... mà lại gặp cảnh nghèo nàn, không tiền thang thuốc, đời
kẻ ấy kể như đã mất hết sinh thú. Có thân là có bệnh, có bệnh tức có khổ,
cái thuyết “bịnh là khổ” quả thật một mối đáng quan tâm, mà người đời hầu
hết đều mơ màng, ít ai suy gẫm sâu để tìm lối thoát.
Như đóa hoa, trải bao phen tươi tốt lại đến lúc tàn tạ héo khô, kiếp nhơn
sinh mãn thuở trắng răng sang hồi đầu bạc, rồi kết cuộc đi về nẻo chết. Ðó
là nói theo thông thường, thật ra cái chết không hẹn kẻ ấu thơ hay người
tuổi tác. Trước khi chết con người thường trải qua cơn đau khổ về thể chất
lẫn tinh thần. Về thể chất thì khi thần thức sắp rời bỏ báo-thân, đương
nhơn bị sức nghiệp ác làm cho chân tay co rút, mình mẩy nhức đau. Về tinh
thần thì còn nỗi hãi hùng kinh sợ, hoặc tham luyến tiếc thương đối với
thân nhơn, tài sản. Chúng-sanh vì chấp ngã, phần nhiều hay tham sống sợ
chết, nên sự chết là mối lo ngại của con người. Hơn nữa, biển nghiệp mênh
mang, khi chết không biết thần thức sẽ trôi giạt về đâu, thật là một điều
đáng bi thảm! Vì thế Đức Phật đã bảo: chết là khổ!
Sống trong đời ai cũng có thân bằng quyến thuộc. Ðó là những người ân,
những kẻ đồng lao cộng khổ, hay những người cùng gần gũi nhau, hiểu biết
nhau, nên nếu chưa phải là bậc giải thoát, tất không tránh khỏi sự tương
quan về tình cảm. Vì thế, trong hoàn cảnh xa lìa người thân mến, ai cũng
cảm thấy một nỗi buồn! Cảnh tử biệt tuy sầu, nhưng còn dễ nguôi hơn cảnh
sanh ly làm cho người mãi trông mong thương nhớ! “Thà rằng tử biệt, ai nỡ
sanh ly”, đó là câu tục ngữ biểu dương sự buồn khổ của đương nhơn trong
tình chia cách. Có người đã vì cảnh biệt ly mà sầu thương vàng võ, đôi khi
đi đến cái chết. Cho nên thương mà xa cách, xác thật là sự khổ của kiếp
người.
Thương xa lìa đã khổ, mà oán gặp gỡ cũng khổ. Ở gần những kẻ không đồng
tâm chí, không hiểu biết nhau, thường có sự trái nghịch ý kiến, có mối
buồn giận bất hòa, làm sao sanh được niềm tươi vui an lạc? Nếu những người
ấy là kẻ đối đầu, rắp tâm mưu hại nhau, thì thật đương nhơn phải sống
trong phút giây âu lo hồi hộp. Trong trường hợp oan gia gặp gỡ, mà lại lâm
vào hoàn cảnh khó nỗi thoát ly, thì kiếp nhơn sinh đã hầu như vô vị, sự
khổ còn chi hơn? Ðức Phật nói oán ghét gặp gỡ rất khổ, là như thế đó.
Con người sống với nhiều hy vọng. Có kẻ nghèo muốn cầu cho giàu hoặc sự
sanh nhai vừa đủ, xấu muốn được đẹp, không danh phận muốn được thi đỗ hay
có địa vị cao sang, đau bịnh tàn tật muốn được vẹn toàn khỏe mạnh, gia
đình tan tác muốn cho tụ hội đoàn viên, nam nữ thương nhau muốn cho được
phụng loan hòa hợp, không con muốn cho có người thừa tự, con cháu ngỗ
nghịch muốn cho nó trở nên thảo thuận hiền lương; tóm lại từ việc nhỏ đến
to, con người có muôn ngàn ước vọng. Nếu sự mong ước đó không thành, tất
kẻ ấy phải ôm lấy sự buồn rầu đau khổ. Cho đến có người vì thất vọng mà
mang bịnh hoặc quyên sinh. Nên sự mong cầu không toại ý cũng là một mối
khổ của kiếp người.
Chân tánh của ta bị năm uẩn che lấp, năm uẩn nầy cũng gọi là năm ấm, tức
là: sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Năm ấm đây đại khái chỉ cho phiền não.
Như một khoảng không gian trong tạnh mà bị khói lửa un xông, thì không khí
ở nơi đó trở nên ngột ngạt nóng bức. Tâm tánh trong sạch của ta cũng như
thế, nếu bị khói lửa phiền não ngũ ấm un xông, thì con người ấy đâu còn sự
sáng suốt, mát mẻ, an vui? Những vị tu hành đi sâu vào thiền định, không
những thấy một niệm phi pháp là khổ nhọc, mà một niệm hợp pháp cũng là mối
trần lao. Cho nên các bậc thánh-giả đã quan niệm năm ấm chẳng khác nào
kiếp lửa thiêu đốt thế gian. Chúng-sanh ba cõi đều còn trong phạm vi mù
mịt nóng bức của năm ấm, nhưng riêng về loài hữu-tình ở Dục-giới, nghiệp
phiền não có phần thô trọng hơn. Vì thế Đức Phật đã bảo: năm ấm lẫy lừng
là khổ!
Trong Bát-khổ trên đây, bốn món trước thuộc về khổ vật chất, bốn món sau
thuộc về khổ tinh thần. Sự khổ về vật chất, tinh thần của kiếp người, có
thể khái quát trong tám điều ấy. Ngoài thuyết Bát-khổ còn có thuyết
Tam-khổ là: Khổ-khổ, Hoại-khổ, và Hành-khổ.
Khổ-khổ là sự khổ tăng thượng, đại ý chỉ cho trên mối khổ nầy còn thêm nỗi
khổ khác; chẳng hạn như trên sự nghèo nàn còn thêm tật bệnh, trên khổ vật
chất còn thêm khổ tinh thần.
Hoại-khổ là nỗi khổ sau khi cuộc vui đã hoại, đại khái chỉ cho sự buồn khổ
trên cảnh tướng vô thường. Thí dụ như khi bạn bè thân quyến tụ hợp là vui,
lúc chia tay lại buồn; khi đắc thời được quyền chức thì vui, lúc thất thế
mất công danh lại khổ.
Hành-khổ là sự khổ do nghiệp hoặc lưu hành trong tâm thức, nhẹ thì nó làm
cho chúng-sanh mờ mịt tán loạn không được an điềm sáng suốt, nặng thì
khiến cho nổi lên nghiệp tham, sân, si vui buồn bất định.
Trong Tam-khổ đây, chúng-sanh ở cõi dục có đủ ba, nơi cõi sắc chỉ có
Hoại-khổ và Hành-khổ; còn cõi Vô-sắc duy có Hành-khổ.
Tóm lại, dù Tam-khổ hay Bát-khổ, đều y cứ trên pháp hữu vi. Nếu chúng-sanh
còn chấp trước pháp hữu vi dù thô hay tế, tất còn có khổ. Chính sự vui của
thế gian, Đức Phật cũng cho là mối vui điên đảo, là khổ chớ không phải
thật vui. Nên Ngài đã bảo: “Ba cõi đều vô thường. Các pháp hữu vi không có
chi là vui”. (Tam giới đại vô thường. Chư hữu vô hữu lạc). Sự vui chân
thật theo đấng Ðiều-Ngự, là cảnh vắng lặng, trong sạch, sáng suốt, giải
thoát của Niết-bàn thuộc đức Trí, và lòng thương xót cứu độ chúng-sanh
thuộc đức Bi.
Tiết II: Căn Bản Giải Thoát Của Ðạo Phật
Sự vui giữa đời, dù cho người từ bé đến già sống trong cảnh giàu sang
hưởng mọi thú vật chất, cũng chỉ là sự vui tương đối. Nhưng ở thế gian hỏi
có bao nhiêu người được hưởng cảnh no ấm giàu sang? Và dù gia tư phong
phú, mấy ai được vẹn toàn các phương diện: giàu có, sang trọng, xinh đẹp,
khỏe mạnh, sống lâu, thông minh; trong gia đình thì vợ đẹp con ngoan, dâu
hiền, cháu thảo, ngoài xã hội lại được mọi người mến yêu kính nể, danh
thơm bay khắp, uy thế lẫy lừng? Nhìn kỹ lại trong đời người nghèo thiếu đã
chiếm hết bảy tám phần mười, dù cho bậc đế vương cũng ở trong vòng
Bát-khổ.
Trên đây là đại khái nói sự vui về vật chất. Có người không cho vật chất
đầy đủ là vui, mà sống trong cảnh thanh bần, không làm điều gì trái với
lương tâm, nơi lòng tự nhiên có sự vui. Theo bậc hiền triết trong Nho giáo
thì: “Một đai cơm, một bầu nước, co cánh tay gối đầu, trong ấy có sự vui.
Còn giàu cùng sang, đối với ta như mây nổi”. (Nhất đơn tự, nhất biều ẩm,
khúc quăng nhi chẩm chi, lạc tại kỳ trung hĩ. Phú thả quý ư ngã như phù
vân). Và quan niệm: “Gành đá Khương-công đôi khóm trúc. Áo xuân Nghiêm-tử
một vai cày”, đều thể hiện cái vui thanh đạm ấy. Nhưng đây có lẽ là một
đối tượng so sánh giữa cái giàu ô trược nhiều lo lắng, không bằng cái
nghèo trong sạch tâm thanh thản mà thôi. Thật ra, nếu phần vật chất quá
thiếu thốn, van nợ tràn nước mắt, chạy ăn toát mồ hôi, thì dù người lương
thiện trong sạch đến đâu cũng vẫn thấy khổ, bởi con người chưa thoát khỏi
những quan hệ về vật chất. Vậy thì thuyết an bần lạc đạo theo nhà hiền
triết thế gian, chưa đi đến chỗ an vui giải thoát cứu cánh.
Có người thấy tình đời như nước chảy, việc đời như mây bay, cảnh bụi hồng
đều ngắn ngủi, phù hư, nên vào rừng thẳm lên non cao, học phép trường sanh
bất lão. Nhưng dù có kéo dài mạng sống đến ngàn muôn năm, kết cuộc cũng có
ngày chung tận, vì tất cả pháp hữu vi đều biến hoại. Sự thoát hóa nầy bên
đạo Tiên gọi là thi-giải. Hoặc có kẻ đắc Tứ-thiền, hay phá hoại sắc ấm
chứng được tứ-không, khi sức định đã mãn, cũng phải bị đọa vào nẻo
luân-hồi. Tại sao thế? Bởi theo lời Đức Phật, tất cả lối tu của ngoại-đạo
đều không thoát ngoài vòng chấp ngã, có khác nhau chỉ thô hoặc tế mà thôi.
Thế thì các pháp tu của ngoại giáo cũng chưa phải là đường lối giải thoát
cứu cánh.
Ðể tìm sự an vui chân thật, đi đến tận chân trời giải thoát, Phật-giáo
quan niệm rằng khi còn cái ta tất còn mối khổ, như khi một tấm bia đã dựng
lên thì bao nhiêu mũi tên đều tập trung vào. Cho nên, khác với các ngoại
phái còn bám víu bản ngã, Phật-giáo chủ trương phá cái ta, phá mối chấp
vật sở hữu của ta; và không những phá Nhơn-ngã, còn phá luôn cả Pháp-ngã.
Có người kinh nghi cho rằng: Nếu buông hết bản ngã, ta sẽ đi về đâu? Ta sẽ
như một khoảng không gian không còn tri giác nữa chăng? Xin đáp: nếu buông
bỏ huyễn ngã, ta sẽ được cái chân ngã. Chân ngã đây cũng gọi là chân tánh
hay Phật tánh. Chân tánh nầy trùm khắp cả mười phương hư không thế-giới,
mình tức là vật, vật tức là mình. Chừng ấy ta sẽ có một tri giác rất mầu
nhiệm, biết suốt ba đời, thấu rõ vạn hữu, gọi là linh-tri. Cho nên khi ta
bỏ được cái chấp nhỏ hẹp của tiểu ngã, tất sẽ trở về chân thể bao la của
đại ngã, đừng nghĩ rằng buông cái vọng ngã, ta sẽ lạc vào cảnh mờ mịt
không không. Ðể mô tả sự quy chân nầy, cổ-đức đã có câu: “Non cùng nước
tận ngờ không lối. Liễu biết hoa tươi lại một thôn!” Vậy yếu điểm giải
thoát của đạo Phật, có thể nói ước lược theo nhà Thiền là: bỏ tất cả để
được tất cả.
Tóm lại, nếu quả đời là tuyệt đối an vui, thì đạo không thành vấn đề. Tất
cả sự tranh đua của đời và xu hướng của đạo đều đi về một tiêu chuẩn:
tránh khổ tìm vui. Nhưng trên đường lối nầy có những điểm cạn sâu, thô tế,
và cứu cánh không cứu cánh khác nhau. Liên-Trì đại-sư một cao tăng đời
Minh bên Trung-Hoa, đã giản biệt sự hơn kém ấy qua những điểm như sau: “Sự
vui đam mê sắc dục, danh vọng, tiền của, bạc bài, rượu thịt không bằng cái
vui thanh nhã của cầm, kỳ, thi, họa, ngoạn thủy du sơn. Sự vui ngao du sơn
thủy cùng thi, họa, cầm, kỳ, lại không bằng mối vui đọc kinh sách
thánh-hiền. Sự vui đọc kinh sách thánh-hiền còn kém thua niềm vui tịnh
tâm”. Qua bốn lớp lạc thú ấy, ta thấy duy tịnh được tâm mới tìm ra nguồn
an vui mầu nhiệm. Ðể phân tích rõ hơn, tịnh tâm tức là định tâm; nhưng
định tâm của chúng-sanh trong ba cõi còn có đối đãi, chưa thoát vòng ngã
chấp, không bằng định tâm của bậc đã siêu thoát tam giới. Ý chỉ cứu cánh
về tịnh tâm của Liên-Trì đại-sư nói, thuộc về nghĩa sau nầy. Khi đã dứt
hết sự chấp trước, hành giả sẽ được thần thông, trí tuệ, hùng lực, biện
tài, rồi mặc sức cỡi thuyền bi nguyện độ khắp quần sanh.
Ðó là nguồn an vui và giải thoát chân thật cứu cánh của đạo Phật.
Tiết III: Ý Nghĩa Xuất Gia Của Ðạo Phật
Bởi những lạc thú của đời chưa phải là tuyệt đối an vui, nên mới có nhiều
xu hướng giải thoát khác nhau. Và để thực hiện những xu hướng đó, phần
đông các giáo phái đã lựa hình thức xuất-gia, vì tục duyên là cảnh tham
nhiễm và bao mối dây ràng buộc đối với người muốn đi trên đường giải
thoát. Riêng về sự xuất-gia của đạo Phật, thì có ba ý nghĩa hay ba giai
đoạn:
- Giai đoạn thứ nhất là xuất-thế-tục-gia. Ðây là phương diện thoát ly gia
đình, dứt hết tục duyên để yên tâm học đạo. Kinh Hiền-Ngu có đoạn nói:
“Nhà thế tục là ổ hang ân ái, nơi đủ các sự ràng buộc, là cảnh giả tạm vô
thường. Những kẻ được hưởng phước lạc ở cõi người cho đến cõi trời, đã
phóng túng say mê theo dục vọng. Họ không có con mắt trí huệ để nhận xét:
đó là cảnh giả dối không thật, là hố lửa sâu thiêu đốt kẻ ngu si tham
vọng, là hầm cạm bẫy đưa dắt chúng-sanh vào nơi ác thú luân-hồi. Giả sử có
vị nào xây tháp bằng bảy báu, công đức ấy cũng chưa bằng cho người đi
xuất-gia, vì tháp thất bảo kia có ngày sẽ bị kẻ tham ác ngu si phá hủy.
Những ai cản trở người phát tâm xuất-gia, kẻ đó sẽ bị tội đọa vào Địa-ngục
Hắc-ám, hoặc bị đui mù. Ví như nước tất cả các sông lớn, sông nhỏ, ngòi,
lạch, khe, suối, đều chảy về biển, sự thọ tội báo của kẻ ấy cũng sẽ như
thế. Cho người đi xuất-gia hay chính mình xuất-gia, công đức sâu rộng như
trời xanh biển thẳm”. (Trích lược). Ðại khái, muốn được xuất trần, trước
tiên phải lìa nhà thế tục, và sự lợi hại đã diễn tả như trên.
- Giai đoạn thứ hai là xuất-phiền não-gia. Sau khi lìa nhà thế tục, người
tu phải y theo lời Phật dạy, cố gắng lần lượt dứt trừ những nghiệp tham
lam, giận hờn, si mê, để ra khỏi nhà phiền não, vào cảnh thanh lương. Về ý
nghĩ nầy, Ðạo-An pháp sư có mấy lời cảnh sách theo lối văn liên vận tuy
chất phát bình dị, nhưng đầy ý nghĩa:
“Ông đã xuất-gia, xa lìa mẹ cha. Cạo tóc hủy hình, khoác mảnh áo dà. Ngày
từ thân thuộc, lớn nhỏ lệ sa. Diệt tình vui đạo, chí cao thiên hà. Nên giữ
tâm ấy, học nghiệp cho minh. Nếu còn đem tâm theo đường sắc thinh. Lửng lơ
năm tháng, đạo nghiệp không thành. Ðức hạnh ngày tổn, tiếng xấu càng sanh.
Thầy bạn hổ thẹn, người tục cười khinh. Xuất-gia như thế, chỉ thêm nhục
mình. Nay lời khuyên nhắc, phải gắng chuyên tinh!
Ông đã xuất-gia, nhẹ tình quân thân. Phải nên cố gắng, chí nhìn thanh vân.
Xa miền danh sắc, phong thái siêu trần. Vàng ngọc chẳng quý, duy đạo là
hơn. Giữ tiết thanh cao, nghèo khổ không sờn. Tu đức độ mình, độ khắp thế
nhơn. Nếu như cải tiết, theo lối phong trần. Ngồi chẳng ấm chiếu, chạy
khắp tây đông. Thân như sai dịch, danh lợi mê lòng. Giới đức kém thiếu,
đạo lý chẳng thông. Ðàn tín bình luận, bạn hữu xa lần. Xuất-gia như thế,
năm tháng uổng không. Nay lời khuyên nhắc, tự thương tự phòng!
Ông đã xuất-gia, tối hoặc thông minh. Học dù nhiều ít, hạnh phải chuyên
tinh. Bậc thượng thiền quán, bậc trung tụng kinh. Bậc hạ gieo phước, chùa
tháp kinh dinh. Ðâu nên hôm sớm, một việc không thành. Xuất-gia như thế,
luống uổng kiếp sinh. Nay lời khuyên nhắc, chớ nên phụ mình!”
- Giai đoạn thứ ba là xuất-tam-giới-gia. Sau khi đã hàng phục phiền não,
người tu phải cố gắng đi sâu vào thiền định, phá tan hết hoặc-nghiệp để
vượt ra ba cõi, thoát nẻo luân-hồi. Ðây mới là bước cứu cánh của xuất-gia.
Và theo cổ-đức, đây mới gọi là làm xong việc lớn của người tăng sĩ. Một vị
thiền khách đã diễn tả sự đắc ý ấy như sau:
“Tay với vòm Nam-đẩu.
Mình nghiêng dựa
Bắc-thần.
Ngước nhìn ngoài vũ
trụ.
Ai ấy bạn siêu nhân?”
Tóm lại, người xuất-gia dù chưa ra khỏi nhà tam giới, ít nhất cũng phải
thoát ly nhà thế tục và nhà phiền não. Nếu kẻ đã cạo tóc mặc pháp phục, mà
chỉ lo củng cố chùa chiền xem như cảnh tư hữu của mình, quanh năm mưu cầu
danh lợi hoặc tranh dành đệ-tử bổn đạo, xem như hàng quyến thuộc của mình,
thì tuy lìa khỏi sự ràng buộc về gia đình của đời, nhưng chưa thoát ly sự
ràng buộc về gia đình của đạo. Như thế cũng chưa đúng với ý nghĩa xuất-gia
thứ nhất. Cho nên một vị tăng hay ni, dù có chùa chiền, đệ-tử bổn đạo,
phải xem là nhân duyên giả huyễn, đừng sanh lòng tham đắm. Nên giữ đúng
theo lời Phật dạy: “Bồ-Tát tuy thị hiện có vô biên quyến thuộc nhưng nơi
tâm vẫn không quyến thuộc”. (Bồ-Tát tuy thị hiện vô biên quyến thuộc,
nhưng tâm hằng vô quyến thuộc). Và, nếu như một vị tăng vân thủy không lưu
trụ nơi đâu, xem có vẻ siêu thoát, nhưng nơi ngôn hạnh còn lộ vẻ tham sân
si, cũng chưa đúng với phong thái xuất-gia, bởi kẻ ấy còn trong nhà phiền
não.
Bậc thiền đức khi xưa đã gọi xuất-gia là việc trọng hệ khó khăn không phải
khả năng của quan văn hay võ có thể làm được, là như thế đó.
Tiết IV: Bản Hoài Ra Ðời Của Ðức Phật
Kinh Pháp-Hoa nói: “Chư Phật
Thế-Tôn chỉ vì một nhân duyên lớn mà hiện ra đời. Xá-Lợi-Phất! Sao gọi là
chư Phật Thế-Tôn chỉ vì một nhân duyên lớn mà hiện ra đời? - Ðó là các Ðức
Như-Lai vì muốn cho chúng-sanh mở mang tri-kiến-Phật để được thanh tịnh mà
hiện ra đời. Vì muốn chỉ bày tri-kiến-Phật cho chúng-sanh mà hiện ra đời.
Vì muốn cho chúng-sanh tỏ ngộ tri-kiến-Phật mà hiện ra đời. Vì muốn cho
chúng-sanh chứng vào tri-kiến-Phật mà hiện ra đời”.
Ðại ý đoạn kinh trên, chư Phật ra đời với bản hoài muốn cho tất cả
chúng-sanh đều thành Phật. Có thành Phật mới đi đến chỗ độ mình độ người
một cách viên mãn. Nhưng xét lại trong hàng Phật-tử xuất-gia, tại-gia,
phần đông sự phát tâm hướng đạo đã sai với mục đích căn bản ấy. Có kẻ đi
đến chùa để cầu cho gia quyến bình yên, làm ăn phát đạt. Có người cúng
dường tu phước để cầu sự vui ngũ dục đời sau. Có kẻ gặp cảnh duyên trắc
trở, mượn câu kinh tiếng kệ để an ủi tâm hồn. Có người vì tránh nạn duyên,
hoặc mến cảnh chùa tịch mịch, hay muốn an hưởng thanh nhàn, nên mới nương
cửa Phật. Tóm lại, nhân duyên vào đạo tuy nhiều, nhưng ít ai thiết thật xa
lìa danh lợi cầu quả giải thoát để độ mình độ người. Tuy rằng đối với
phàm-phu, đôi khi nghịch cảnh cũng là bước đầu dẫn đến Niết-bàn, hay chắp
tay trước thánh tượng, niệm một tiếng nam-mô, cũng là gieo nhân giải
thoát, nhưng người đã nương về Tam-bảo, cũng nên chuyển hướng tâm nguyện
và hành vi cho đúng với bản hoài của Phật. Lộ trình giải thoát với tiêu
điểm lợi mình lợi người, rất trắc trở khó khăn, nếu chẳng phải là người có
chí kiên nhẫn, đức dũng tiến, tất không thể đi đến nơi đến chốn. Cho nên
quan niệm tu hành theo lối cầu an như: “Ðã đem mình đến am mây. Tuổi nầy
gởi với cỏ cây cũng vừa”, thật đã sai lầm, không những trái với bản tâm
của Phật, còn lạc với thật nghĩa hướng đạo của mình.
Bản hoài ra đời của chư Phật đại để là thế. Tuy nhiên, vì căn cơ
chúng-sanh có muôn vàn sai khác, nên các Ðức Thế-Tôn khi xuất hiện đều
dùng vô số phương tiện dẫn dắt kẻ hữu duyên đi từ bậc thấp đến cao. Giáo
pháp của Phật tuy nhiều, nhưng có thể chia làm ba bậc, hay ba thừa, tức là
Tiểu-thừa, Trung-thừa và Đại-thừa. Hay gọi cách khác là hạ, trung,
thượng-thừa. Nếu nói rộng ra thì có đến năm thừa là: Nhơn, Thiên,
Thanh-Văn, Duyên-Giác, và Bồ-Tát thừa. Ðây là kể năm thừa theo lối thông
truyền. Theo kinh Ðại-Thừa-Trang-Nghiêm-Công-Ðức, cách phu diễn năm thừa
có hơi khác qua thứ lớp như sau: Bồ-Tát-thừa, Duyên-Giác-thừa,
Thanh-Văn-thừa, Chủng-chủng-tánh-thừa và Nhơn-Thiên-thừa.
Ðể diễn tiến theo tuần tự thấp đến cao, từ cạn đến sâu, những chương và
thiên sau, bút giả sẽ lần lượt trình bày khái quát về những giáo pháp ấy.
---o0o---
Mục
Lục
Thiên thứ nhất | 1
| 2
| 3
| 4
| 5
| 6
| 7
| 8
| 9
| 10
| 11 | 12
Thiên thứ hai
| 1
| 2
| 3
| 4
| 5
| 6
| 7
| 8
Thiên thứ ba
| 1
| 2
| 3
| 4
| 5
| 6
| 7
| 8
---o0o---
Source:
Di Đà Nguyện Hải
Vi tính:
Huệ Toàn, Huệ Trang, Từ Hỷ và Tuệ Cường
Trình bày : Nhị Tường
Cập nhật ngày 01-04-2003
|
|