|
. |
Phật Học Tinh Yếu
Hòa Thượng Thích Thiền Tâm
Trọn bộ 3
thiên
---o0o---
Pháp Giới Tổng Luận
Tiết mục:
1. Luận về bốn pháp-giới
II. Luận về y chánh
III. Luận về đồng-biệt-dị-kiến
IV. Luận về cộng-bất-cộng-biến
Kinh sách tham khảo: Kinh Hoa-Nghiêm, Thập-Lục-Quán-Kinh-Sớ, Kinh
Pháp-Hoa, Kinh Duy-Ma-Cật, Kinh Anh-Lạc-Bản-Nghiệp, Kinh Nhân-Vương,
Thành-Duy-Thức-Luận, Kinh A-Hàm, Tông-Cảnh-Lục.
Đề yếu: Thật ra, khi nói: Luận về pháp-giới, trong ấy tất phải có nhiều
vấn đề. Nhưng ở đây, bút giả đã gom góp những điểm chính yếu chia thành
bốn tiết để trình bày, nên xin tạm gọi là tổng luận.
Hai tiết đầu thuyết minh chung về tánh tướng của pháp-giới. Tánh tướng nầy
nếu tế phân thì vô cùng, nhưng gom lại không ngoài bốn pháp-giới và hai
phần y chánh. Hai tiết sau tuy không minh luận duyên khởi của pháp-giới,
song kỳ thật trong ấy đã ẩn thuyết về lý nầy. Như tiết đồng-biệt-dị-kiến
tuy nói về tương-vi-thức-tướng của hữu-tình, nhưng nội dung đã ẩn lý
nghiệp-cảm-duyên-khởi. Và đoạn cộng-bất-cộng-biến thì ẩn lý
A-lại-da-duyên-khởi.
Xem qua bản chương, đọc giả nên chú ý: thuyết Duy-tâm của Phật-giáo không
phải cực đoan như Duy-tâm hay Duy-vật của các môn triết học khác. Theo
quan niệm Phật-giáo, tâm tức vật, vật tức tâm, tâm vật chỉ là bản thể duy
nhất, mà Tánh tông gọi đó là Duy-tâm và Tướng tông lại gọi đó là Duy-thức.
Pháp-giới Duy-tâm hay Duy-thức chính là lý nầy.
Tiết I: Luận Về Bốn Pháp Giới
Nếu so sánh phạm vi lớn nhỏ, thì một Tiểu-thế-giới không bằng một
Tiểu-thiên-thế-giới, một Tiểu-thiên-thế-giới không bằng một
Trung-thiên-thế-giới, một Trung-thiên-thế-giới không bằng một
Đại-thiên-thế-giới. Đại-thiên-thế-giới tức là một Phật-độ; nhưng chư Phật
có vị lấy một cõi Đại-thiên làm một Phật-độ. Đem một Phật-độ so sánh với
một thế-giới-chủng thì thật cách biệt vô cùng! Một thế-giới-chủng gồm hai
mươi tầng từ thấp đến cao, mỗi tầng có từ một Phật-sát vi-trần Phật-độ,
cho đến hai mươi Phật-sát vi-trần Phật-độ. Thế-giới-chủng sánh với
thế-giới-hải lại còn kém xa. Như riêng về thế-giới-hải
Liên-Hoa-Tạng-Trang-Nghiêm, có đến mười bất-khả-thuyết Phật-sát vi-trần
thế-giới-chủng.
Bàn đến thế-giới-hải, thì thật là cảnh giới tuyệt rộng rãi mênh mang,
không lường không ngằn, tợ hồ thế-giới đến đây là cùng cực. Nhưng mà chưa
bao quát, thế-giới-hải còn có Pháp-giới-an-lập-hải. Theo kinh, một
An-lập-hải đại khái gồm có những thế-giới-hải nhiều bằng số bụi nhỏ của
tám bất-khả-thuyết cõi Phật. Như trong kinh Hoa-Nghiêm, bậc đại thiện tri
thức hiện thân làm Chủ-dạ-thần, tên là Tịch-Tịnh-Âm-Hải nói: “Khi Ðức
Tỳ-Lô-Giá-Na Như-Lai ở nơi đạo tràng nầy thành quả chánh-giác, mỗi niệm
thị hiện sức đại thần thông; bấy giờ tôi được thân cận, liền chứng vào môn
Tam-Muội-Niệm-Niệm-Xuất-Sanh-Quảng-Đại-Hỷ-Trang-Nghiêm-Giải-Thoát.
Lúc
chứng được môn giải thoát nầy rồi, tôi có thể hiện thân vào những
Pháp-giới-an-lập-hải nhiều bằng số bụi nhỏ của mười bất-khả-thuyết
bất-khả-thuyết cõi Phật. Trong vô lượng vô biên Phật-sát vi-trần số cõi
Phật của tất cả An-lập-hải, tôi thấy mỗi mỗi Phật-độ đều có Ðức
Tỳ-Lô-Giá-Na Như-Lai trong mỗi niệm thành chánh-giác và hiện các phép thần
biến. Và cũng lại thấy mình ở nơi chỗ các Ðức Như-Lai ấy thừa sự cúng
dường, nghe nói diệu pháp”. (Lược thuật)
Theo đoạn kinh trên, ta thấy cảnh giới của chư Phật rộng rãi vô biên, nếu
không vào môn đại-giải-thoát, không chứng được đại-tam-muội, thì không thể
nào thấy hiểu nổi. Đạt đến cảnh nầy thì quên tình tuyệt lự, tâm địa rỗng
rang không còn sự suy nghĩ nữa. Nhìn lại chúng ta, chút thân trần mạt, một
điểm thức linh, sánh với pháp hải bao la, còn nhỏ hơn hạt cát nơi bãi sa
mạc, bóng bọt giữa trùng dương, hoảng hốt như huyễn như hóa, dường mộng
dường mê, thật không đáng chi cả!
Trên đây, sở dĩ gọi Pháp-giới-an-lập-hải, bởi pháp-giới là danh mục của
chân tâm; thể dụng chân tâm rất sâu rộng, tánh và tướng vô ngại, lấy tâm
làm pháp, lấy tâm làm giới, nên xưng là “Pháp-giới”. Trong pháp-giới có
những diệu tướng sai biệt trang nghiêm, tập hợp thành từng khu vực riêng
không lẫn lộn nhau, nên gọi là “An-lập”. Mỗi cõi An-lập bao trùm vô lượng
vô biên Phật-sát, thế-giới-chủng, thế-giới-hải; vì nó có tánh cách rộng
rãi mênh mang như biển cả bao hàm muôn tượng, nên gọi là “Hải”. Sánh với
An-lập-hải, thế-giới-hải tuy cũng gọi là biển thế-giới, nhưng chỉ là vùng
biển nhỏ, thua kém hẳn trùng dương rộng rãi bao la. Chân tâm đã có vô biên
An-lập-hải, nên tánh và tướng giao nhiếp, sự cùng lý viên dung, gọi là
Nhất-chơn-pháp-giới. Từ Nhất-chơn-pháp-giới phân xuất ra bốn pháp-giới như
sau:
1. Lý-pháp-giới: Đây là chỉ cho phần chân-như-môn của Như-Lai-tạng. Thể
chân-như nầy linh hư vắng lặng, sáng suốt một mầu, đủ bốn đức thường, lạc,
ngã, tịnh.
2. Sự-pháp-giới: Đây là phần sanh-diệt-môn của Như-Lai-tạng, gồm vô lượng
sự tướng sai biệt. Sự tướng nầy sanh diệt thay đổi, như sóng bọt nổi tan
ngoài biển cả, ráng mây biến huyễn nơi trời cao, tùy hạnh nghiệp thiện ác
mà hóa hiện.
3. Lý-sự-vô-ngại-pháp-giới: Vì muôn pháp như huyễn, không có tự tánh và
thật thể, nên toàn sự là lý. Bởi chân-như cũng không tự tánh và thật thể
tùy duyên mà biến hiện, nên toàn lý và sự. Lý và sự đây ví như nước với
sóng, ngõa-khí cùng vi-trần; sóng tan thành nước, nước nổi thành sóng,
vi-trần kết hợp thành ngõa-khí, ngõa-khí tiêu hoại thành vi-trần, không
thể phân biệt ngoài sóng có nước, ngoài ngõa-khí có vi-trần. Cho nên chân
không chẳng ngoài diệu hữu, chân lý không ngoài huyễn sự, vì lý tức sự,
sắc tức không, nên gọi là vô ngại.
4. Sự-sự-vô-ngại-pháp-giới: Lý đã tức là sự, nên lý không ngại sự, sự
không ngại lý, lý không ngại lý, sự không ngại sự, mỗi trần không ngại,
mỗi pháp dung thông. Vì lẽ sự-sự-vô-ngại, nên bậc Bồ-Tát chứng vào cảnh
giới Bất-tư-nghì-giải-thoát, có thể xem tường vách núi non hư không, lại
qua tự tại; có thể kéo dài sát-na thành muôn kiếp, thâu gọn muôn kiếp
trong sát-na; lại có thể để núi Tu-Di vào hạt cải, dùng hạt cải bao chứa
núi Tu-Di, mà cảnh giới và loài hữu-tình trong ấy không bị tăng tổn.
Về ý chí “pháp-giới” trên đây, thì “pháp” lấy quỹ-tắc làm nghĩa, “giới”
lấy tánh-phần làm nghĩa. Quỹ-tắc và tánh-phần nầy, ở nơi lý là
Lý-pháp-giới ở nơi sự là Sự-pháp-giới; cho đến lý-sự và sự-sự cũng như
vậy. Bởi lý không chừng hạn, sự có muôn sai, nên cổ-đức đã bảo:
“Hòa ấm hơi xuân đồng
một tiết.
Thấp cao hoa cỏ khác
muôn màu”.
Tóm lại, trong tánh tạng, thế-giới trùng trùng, tịch quang lặng lặng,
không và sắc bao la, nhưng phải ngoài lý cùng sự. Lý, sự nầy diễn ra thành
bốn pháp-giới, thâu lại về cõi Nhất-chơn.
Tiết II: Luận Về Y Chánh
Khắp mười phương thế-giới đã vô lượng vô biên, mà loài hàm-linh cũng vô
cùng vô tận. Nhưng tóm lại, tất cả không ngoài y-báo và chánh-báo.
Y, Chánh là gì? Kinh Anh-Lạc-Bản-Nghiệp nói: “Sắc thân của tất cả hữu-tình
thuộc về phần chủ thể của nghiệp quả, nên gọi là chánh-báo. Cảnh giới của
loài hữu-tình nương tựa và thọ dụng như y phục, thức uống ăn, vật dụng,
phòng nhà, ruộng vườn, cho đến núi, rừng, sông, biển, đất đai, gọi là
y-báo”. Với lập nghĩa bao quát hơn, Hạnh-Nguyện-Phẩm-Sớ-Sao nói: “Quốc độ
sở y hoặc tịnh hoặc uế của phàm thánh là y-báo. Thân năng y của trời,
người, nam, nữ, tại-gia, ngoại-đạo, chư thần cho đến Bồ-Tát, Phật gọi là
chánh-báo”. Thế thì nói cho đủ, y-báo gồm có bốn độ, chánh-báo gồm có mười
giới.
1. Chánh-báo: Mười giới của chánh-báo là gì? Ấy là thân thể của sáu phàm,
bốn thánh. Sáu phàm là Địa-ngục, Bàng-sanh, Quỷ-thần, A-tu-la, Người và
Trời. Bốn thánh là Thanh-Văn, Duyên-Giác, Bồ-Tát và Phật. Thân thể của lục
phàm tùy nghiệp nhân thiện ác mà có xấu đẹp. Bậc Thanh-Văn, Duyên-Giác về
phần tâm thì thanh tịnh, nhưng phần thân vì còn chịu ảnh hưởng của nghiệp
nhân nên cũng có hơn kém khác nhau. Chư Bồ-Tát và Phật do phước huệ đều
thắng, nên cả thân tâm đều trang nghiêm thanh tịnh. Chư Thanh-Văn,
Duyên-Giác ngoài thật thân còn có biến-hóa-thân. Chư Bồ-Tát có
biến-hóa-thân và báo-thân. Chư Phật có đủ ba thân là biến-hóa-thân,
báo-thân và pháp-thân. Về nghĩa tam-thân của Phật, vì xưa nay các
Kinh-luận hoặc nói riêng về một phương diện, nên những nhà học Phật kém
công phu nghiên cứu dễ bị mê mờ. Tam-thân theo Tiểu-thừa và Đại-thừa có
chỗ sai biệt; riêng về Đại-thừa lại có thông nghĩa và biệt nghĩa. Về biệt
nghĩa chẳng hạn như Thiên-Thai tông và Mật tông, mỗi bên có lập thuyết
riêng về tam-thân. Nay xin y theo nghĩa Tiểu-thừa và thông nghĩa Đại-thừa
mà giải thích về ba thân của Phật.
Theo Tiểu-thừa, Phật có ba thân: Pháp-thân là thật thể trong sạch, gồm có
năm công đức: giới, định, huệ, giải-thoát, giải-thoát-tri-kiến. Báo-thân
là thân cao một trượng sáu có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của
Phật, do những phước nghiệp kết thành. Hóa-thân là Phật do lòng từ bi hóa
ra thân các dị loại như sư tử, nai, chim hóa độ các loài ấy.
Theo Đại-thừa, nghĩa tam-thân có phần rộng rãi và phiền toái hơn. Kể từ
thấp đến cao, trước tiên biến-hóa-thân cũng gọi ứng-hóa-thân nghĩa là chư
Phật do lòng từ bi muốn hóa độ chúng-sanh nên hiện ra nhiều thân.
Ứng-hóa-thân có hai: thắng-ứng-thân và liệt-ứng-thân. Liệt-ứng-thân là
thân Phật một trượng sáu là hóa-thân thuộc chín giới. Có chỗ gọi là
kim-thân một trượng sáu là ứng-thân, còn các dị loại do Phật hóa hiện là
hóa-thân. Thắng-ứng-thân là thân Phật nơi Tịnh-độ như kinh
Quán-Vô-Lượng-Thọ nói: “Đức Phật A-Di-Đà thân cao sáu mươi muôn ức
na-do-tha hằng-hà-sa do-tuần, viên quang như trăm ức cõi Đại-thiên. Phật
có tám muôn bốn ngàn tướng, mỗi tướng có tám muôn bốn ngàn vẻ đẹp”.
Báo-thân của Phật cũng có hai: tự-thọ-dụng-thân và tha-thọ-dụng-thân.
Tha-thọ-dụng-thân là như Ðức Thích-Ca-Mâu-Ni hiện ra thân Lô-Xá-Na cao một
ngàn trượng, có vô lượng tướng hảo, ngồi trên hoa sen ngàn cánh, vì hàng
Thập-Ðịa Bồ-Tát mà thuyết pháp. Bởi Phật hiện ra thân nầy với mục đích làm
lợi lạc cho các bậc đại-sĩ, nên gọi là tha-thọ-dụng. Có chỗ nói
tha-thọ-dụng-thân và thắng-ứng-thân danh khác nhưng thể đồng, vì hai thân
nầy có vi-trần tướng hảo và đó mới chính thật là thân quả báo của Phật do
vô lượng phước lành kết hợp. Tự-thọ-dụng-thân chính là cõi
Thật-báo-trang-nghiêm rộng rãi vô biên bao hàm vi-trần quốc độ. Chư Phật
chứng được cảnh giới nầy, tự mình thọ dụng pháp lạc nhiệm mầu, nên gọi là
tự-thọ-dụng. Đây là lấy độ làm thân; và vì báo-thân có hai nghĩa thọ dụng
ấy, nên cũng gọi là thọ-dụng-thân.
Pháp-thân chính là cõi Thường-tịch-quang. Đây là thể Nhất-chơn pháp-giới
bao hàm tánh tướng rộng rãi vô biên; vì Phật lấy pháp tánh pháp tướng làm
thân, nên gọi là pháp-thân. Pháp-thân với tự-thọ-dụng-thân cũng danh khác
thể đồng; tự-thọ-dụng thân hiển phần tướng ẩn phần tánh. Pháp-thân hiển
phần tánh ẩn phần tướng. Pháp-thân đây vì lấy chân-như bản tánh làm thân,
nên cũng gọi là tự-tánh-thân hay pháp-tánh-thân.
Vì nghĩa thắng-ứng-thân thông với tha-thọ-dụng-thân, pháp-thân thông với
tự-thọ-dụng-thân; nên trong Kinh-luận có chỗ gọi thắng-ứng-thân là
báo-thân hoặc tự-thọ-dụng-thân là pháp-thân, làm cho người học Phật dễ bị
mê mờ lầm lạc. Nơi đây xin nói rõ hơn, đối với ba thân của Phật, các hàng
phàm-phu Nhị-thừa chỉ thấy được ứng-hóa-thân; chư Bồ-Tát thấy được
báo-thân, báo-thân nầy về sắc thân có vô lượng tướng hảo, về quốc độ có vô
lượng trang nghiêm; còn pháp-thân duy chư Phật mới chứng kiến một cách
viên mãn. Mỗi vị Phật đều có đủ ba thân, riêng về đấng giáo chủ cõi Ta-Bà,
thì pháp-thân Như-Lai là Ðức Tỳ-Lô-Giá-Na, báo-thân Như-Lai là Ðức
Lô-Xá-Na, ứng-thân Như-Lai là Ðức Thích-Ca-Mâu-Ni. Ba Đấng Như-Lai nầy một
có đủ ba, ba chính là một, chỉ vì tùy thuận thế gian mà luận ba thân thế
thôi. Ðể giải thích thêm, đoạn trước tuy nói hàng Nhị-thừa có
biến-hóa-thân, chư Bồ-Tát có biến-hóa-thân và báo-thân nhưng thân của
Nhị-thừa, Bồ-Tát chưa được tự tại viên mãn bằng Phật.
2. Y-báo: Bốn độ của y-báo là gì? Ấy là Phàm-thánh-đồng-cư-độ,
Phương-tiện-hữu-dư-độ, Thật-báo-vô-chướng-ngại-độ và Thường-tịch-quang-độ.
Phàm-thánh-đồng-cư-độ là cõi có bậc Tam-thừa thánh-nhơn và phàm-phu ở
chung. Cõi nầy chia ra làm hai loại: Phàm-thánh-đồng-cư-tịnh-độ và
Phàm-thánh-đồng-cư-uế-độ. Uế-độ như cõi Ta-Bà dẫy đầy non cao vực thẳm,
các tướng nhơ ác, ngoài Tam-thừa thánh-nhơn ở còn có vô lượng chúng-sanh
thuộc sáu đạo cư trú. Tịnh-độ như cõi Cực-Lạc thanh tịnh trang nghiêm, nơi
đây duy có các bậc Đại-thừa thánh-nhơn và những người niệm Phật vãng sanh
ở.
Phương-tiện-hữu-dư-độ là tâm độ của bậc Thanh-Văn, Duyên-Giác. Nói
“phương-tiện” là bởi các vị nầy do tu phương-tiện đạo như Tứ-đế,
Thập-nhị-nhân-duyên, phá kiến tư hoặc, chứng quả nhơn không. Gọi “hữu-dư”,
vì hàng Thanh-Văn, Duyên-Giác còn chưa phá được trần-sa và vô-minh-hoặc.
Trí chứng của hàng Nhị-thừa trên đây, thuộc về Nhất-thiết-trí.
Thật-báo-vô-chướng-ngại-độ là báo độ của hàng Đại-thừa Bồ-Tát. Nói
“thật-báo” là bởi các bậc nầy do viên-tu-tam-quán, phá hết trần-sa-hoặc và
một phần vô-minh-hoặc, chứng vào báo độ chân thật của cảnh giới nhị không.
Gọi “vô-chướng-ngại”, vì trong cảnh giới nầy không tức sắc, sắc tức không,
tâm và sắc không ngăn ngại lẫn nhau. Trí chứng của hàng Bồ-Tát trên đây
thuộc về Đạo-chủng-trí.
Thường-tịch-quang-độ là Tịnh-độ của chư Phật. “Thường” tức là đức
Pháp-thân, “Tịch” tức là đức Giải-thoát, “Quang” tức là đức Bát-Nhã. Đây
là cảnh giới nhất chơn, dung thông cả tánh tướng bao la. Ba cõi trên nếu
có gọi Tịnh-độ là chỉ căn cứ ở ít nhiều phần thanh tịnh, riêng cõi
Thường-tịnh-quang mới thật là Tịnh-độ viên mãn cứu cánh. Cho nên kinh
Nhân-Vương nói: “Tam hiền thập thánh ở quả báo; duy Phật mới trụ nơi
Tịnh-độ”. Và trí chứng nầy thuộc về Nhất-thiết-chủng-trí.
Về chánh-báo và y-báo trên đây, hàng phàm-phu vì mê mờ, bậc Nhị-thừa còn
pháp chấp, nên thấy có y, chánh riêng biệt, thân, độ khác nhau. Chư Phật
và Bồ-Tát đã chứng lý nhị không, nên thấy y-báo tức là chánh-báo, quốc độ
nguyên chính tự thân. Đây là những sở kiến biệt và đồng về y chánh.
Tiết III: Luận Về Đồng Biệt Dị Kiến
Đồng-biệt-dị-kiến tức là đồng-nghiệp-kiến; và biệt-nghiệp-kiến vì chỗ thấy
thuộc về đồng-nghiệp và biệt-nghiệp khác nhau nên gọi là dị-kiến.
Đồng-nghiệp-kiến là ví như trong một đám tiệc, những người không uống
rượu, tâm trí tươi tỉnh, đồng thấy nhà cửa vẫn bình tịnh yên lặng.
Biệt-nghiệp-kiến là như cũng chính cảnh đó, mà người say rượu riêng thấy
nhà cửa, bàn ghế đảo lộn, đất đai nghiêng đổ, gập ghềnh. Lại như cũng đồng
một thời khắc, mà người say mê công việc thấy giờ phút trôi qua rất mau,
kẻ khoắc khoải trông chờ lại cảm thấy ngày dài vô tận. Và như cũng đồng
một cảnh mà người có hỷ sự thấy cây cỏ vui tươi, chim hót như chào, hoa
cười như đón; còn kẻ mang nặng mối sầu, lại thấy trời mây áo não, cây cỏ
ưu tư, vật chi cũng đượm một vẻ u buồn. Đây cũng chỉ tạm mượn việc người
để giải thích, thật ra sở kiến của các loài còn có rất nhiều sai biệt.
Cảnh đồng-biệt-dị-kiến nầy đối với chúng-sanh toàn là vọng, với chư Phật
thuần là chơn.
Luận về vọng-kiến-sai-biệt của chúng-sanh, như lửa của Ngạ-quỷ, loài người
thấy là nước; nước của người, Ngạ-quỷ thấy là lửa hay một dòng sông máu
mủ. Như một con sông, loài người thấy là sông, chư thiên thấy là lưu ly
hay bảo địa, loài thủy tộc thấy đó là nhà cửa của chúng. Như một khúc gỗ,
loài người thấy là gỗ, mọt mối thấy đó là thức ăn. Lại như phẩn uế loài
người thấy là chất hôi nhơ, Bàng-sanh thấy là thức ăn thơm ngon; một cỗ
tiệc đầy đủ các món nấu nướng chiên xào, người thấy đó là trân hào mỹ vị,
chư thiên thấy là chất nhơ nhớp. Và như cung điện của người cùng Quỷ-thần
đồng ở một chỗ, song người không thấy cung điện của quỷ, quỷ không thấy
cung điện của người; quỷ đối với tường vách của người thì không ngại, với
tường vách của mình thấy bị ngăn cách, trái lại người cũng vậy. Nói chung,
chúng-sanh vì tùy nơi nghiệp duyên, nên đều ở trong vòng vọng kiến,
đồng-nghiệp thì thấy đồng, biệt-nghiệp lại thấy khác.
Còn chư Phật vì vọng nghiệp tiêu trừ nên không còn sở kiến sai biệt như
chúng-sanh, chỉ thấy muôn cảnh đều hư huyễn toàn là một màu vắng lặng,
không thật, không hư, không đồng, không khác (Phi thật phi hư, phi như phi
dị, bất như tam giới kiến ư tam giới chi tướng (Kinh Pháp-Hoa). Cho nên
cõi Phật cùng cõi chúng-sanh đồng ở một chỗ, nhưng kiếp lửa chỉ làm hoại
cảnh thế gian, Phật-độ vẫn là bất hoại. Vì thế, kinh Hoa-Nghiêm nói:
“Trong mỗi mỗi sát
chủng.
Kiếp lửa không nghĩ
bàn.
Hiện cảnh tuy đại ác.
Nơi ấy thường kiên
cố”.
Kinh Pháp-Hoa cũng
nói:
“Chúng-sanh thấy kiếp
hết.
Lửa lớn đốt tiêu tan.
Cõi ta đây yên ổn.
Thiên nhơn hằng đông
luôn”.
Về điểm nầy, các nhà
chú sớ cho cõi hư hoại thuộc về biến-hóa-độ, cõi không hư hoại chẳng phải
chỉ riêng cho pháp-tánh-độ, mà chỉ cho tha-thọ-dụng-độ; vì pháp-tánh-độ cố
nhiên vẫn là như như bất hoại. Cho nên kiếp lửa chỉ thiêu hoại cảnh thế
gian, không thể làm hoại báo độ của chư Phật, dù rằng hai cõi nầy đồng ở
một nơi. Hai cõi tuy đồng, một trụ xứ mà chúng ta không thấy được Phật-độ,
là bởi nghiệp báo không đồng.
Như trong kinh Duy-Ma, ngài Xá-Lợi-Phất thấy cảnh Ta-Bà nầy đầy dẫy núi
rừng, hầm hố và các tướng uế ác, liền nghĩ rằng: “Ðức Thế-Tôn đã nói nếu
tâm Bồ-Tát tịnh thì cõi Phật thanh tịnh, mà cõi nầy dẫy đầy sự nhơ ác như
thế, chẳng hóa ra tâm của Ngài chưa được thanh tịnh hay sao?”
Loa-Kế-Phạm-Vương biết ý niệm ấy liền bảo Xá-Lợi-Phất: “Ngài chớ nên nghĩ
như thế. Chính tôi thấy quốc độ của Phật Thích-Ca thanh tịnh như
Tự-Tại-Thiên-cung”. Khi ấy, Phật bảo: “Thế nào, Xá-Lợi-Phất! Nhật nguyệt
trong sáng mà người mù chẳng thấy, đó là lỗi tại họ hay lỗi bởi đôi vầng
nhật nguyệt?” Liền đó, Phật bấm ngón chân xuống đất, tức thời ba ngàn
thế-giới của cõi Ta-Bà biến thành thanh tịnh, có đủ trăm ngàn thứ kỳ trân
dị bảo trang nghiêm, ví như cõi Vô-Lượng-Công-Đức-Bảo-Trang-Nghiêm
Như-Lai. Ðại chúng thấy thế đều than thở, khen ngợi cho là việc chưa từng
có. Ðức Thế-Tôn lại bảo Xá-Lợi-Phất: “Phật-độ của ta thường nghiêm tịnh
như thế, nhưng vì muốn độ chúng-sanh hạ liệt, nên thị hiện ra cõi bất tịnh
uế nầy. Ví như chư thiên ăn chung trong một bảo khí, tùy nơi phước đức hơn
kém mà mỗi kẻ thấy màu sắc thức ăn khác nhau. Nếu người nào thanh tịnh, sẽ
thấy cõi nầy có đủ công đức trang nghiêm”.
Về đoạn kinh trên, ngài Cưu-Ma-La-Thập đã giải thích: “Chư Phật vì muốn
xứng hợp với tâm chúng-sanh, nên hiện ra quốc độ không đồng. Chỗ thấy của
Loa-Kế-Phạm-Vương là chỉ tùy sở kiến riêng, thật ra ông cũng chưa thấy hết
sự nghiêm tịnh của Phật-độ Ðức Thích-Ca. Đoạn sau so sánh Phật quốc của
Đức Bổn-sư như cõi Vô-Lượng-Công-Đức-Bảo-Trang-Nghiêm, thế thì biết báo độ
của Ðức Mâu-Ni Thế-Tôn thật rất nghiêm tịnh và ở ngay cõi nầy. Đây là cảnh
tịnh và uế đồng một trụ xứ song không chướng ngại và lẫn lộn nhau; ví như
đồng trong một bảo khí mà hai vị thiên-tử vì phước đức hơn kém, nên thấy
có hai thức ăn sai biệt”.
Tóm lại, pháp-thân nguyên vô tướng, ứng vật mà hiện hình; chân độ vẫn vô
phương, tùy cơ mà hiển lộ. Đây là do nghiệp thiện ác của chúng-sanh và bản
nguyện của chư Phật, nên trong đồng có biệt, trong biệt có đồng, trong
tịnh có uế, trong uế có tịnh vậy
Tiết IV: Luận Về Cộng, Bất Cộng Biến
Tất cả thế-giới do đâu mà có, và ai là tác-giả? Đó đều do tâm mà có, và
duy tâm tạo ra. Từ vô thỉ đến nay, tất cả chúng-sanh bởi mê chân hợp vọng,
nên cấu thành A-lại-da-thức; do thức nầy mà biến ra các loại căn thân và
khí thế-giới. A-lại-da tức là thức thứ tám, thức nầy chia làm hai phần:
Kiến và Tướng. Kiến phần biến thành bảy thức trước, Tướng phần biến thành
căn thân và khí giới; nội lục căn vì có chấp thọ nên thuộc về thân tướng
phần, ngoại khí giới vì không chấp thọ nên thuộc về sơ tướng phần. Hai món
tướng phần nầy đều do tứ đại hợp thành, tứ đại là năng tạo, y chánh là sở
tạo, và tám thức là chủ thể của năng biến. Tám thức nầy chia thành tam
năng biến, mà A-lại-da-thức lại là động lực căn bản. Vì thế, Duy-thức nói:
“Từ vô thỉ làm nhân. Và sở y các pháp. Do đây có các nẻo. Cùng sự chứng
Niết-bàn”. Lại nói: “Ba cõi không có pháp chi khác, chỉ là một tâm tạo ra.
Tất cả nhân-quả, thế-giới, vi-trần đều nhân tâm mà thành thể”.
Theo như trên, nếu thức biến tợ ra thế-giới, là mỗi thức riêng biến, hay
là các thức chung biến?
Lý nầy rất uẩn khúc, xin chia làm bốn nghĩa để giải thích:
1. Cộng-trung-cộng-biến: Đây là do sức thành thục của
bát-thức-cộng-tướng-chủng, biến ra các tướng thế gian. Trong đây, tuy sở
biến của các hữu-tình đều riêng, mà tướng tương tợ không khác. Ví như một
vùng đèn đuốc sáng tuy sự sáng ấy do từ cá biệt của các ngọn đèn hợp lại,
nhưng tánh cách sáng của mỗi ngọn đèn đại để đều giống nhau, nên chúng mới
tương hợp được. Như núi non do sức nghiệp Kiến-chấp của những cá biệt
chúng-sanh hợp lại biến thành, sông ngòi do sức nghiệp Tham-ái của những
cá biệt chúng-sanh họp lại mà huyễn hiện. Đây gọi là cộng-biến
(cộng-trung). Trong tướng non sông vô chủ của cộng-biến nầy, mỗi người cho
đến các loài đều có thể thọ dụng, nên lại gọi trùng lập thêm một chữ Cộng
(Cộng-trung-cộng).
Ðức Thế-Tôn đã bảo: “Nếu phát minh được chân tâm, trở về nguồn giác, thì
mười phương thế-giới thảy đều tiêu tan”. Từ xưa đến nay những vị tu hành
đắc đạo cũng nhiều, nhưng tại sao thế-giới vẫn còn hiển hiện, hay là lời
Phật nói không đúng ư? - Thưa không! Khi người tu phát minh chân nguyên
thì cảnh giới quả thật cũng tiêu tan, nhưng chỉ tiêu một phần tự-biến của
mình mà thôi; cho đến người chết thác sanh về cõi khác cũng vậy. Như một
vùng nhiều đèn sáng, nếu một đôi ngọn tắt mất hay bị dời đi nơi khác, thì
sự sáng cũng vẫn còn, bởi hãy còn các ngọn đèn kia. Nếu quả thật mỗi
chúng-sanh đều trở về nguồn giác thì tất cả cảnh giới đều tiêu tan, lẽ ấy
không còn nghi ngờ chi nữa!
2. Cộng-trung-bất-cộng-biến: Đây là cảnh tự-biến và riêng mình được thọ
dụng trong tướng cộng-biến. Như một dãy núi non hay một vùng ruộng nương
rộng rãi, tuy do nghiệp thức của nhiều chúng-sanh biến hiện; nhưng có một
khoảnh núi hay ruộng do tự thức mình biến tạo và riêng mình được thọ dụng.
Lại như một khu đô thị do nhiều lầu đài nhà cửa của nhiều người hợp lại mà
thành, nhưng trong ấy có một ngôi nhà do mình kiến tạo và chỉ riêng mình
được làm chủ; cảnh tự-biến trong cộng-biến là như vậy.
3. Bất-cộng-trung-cộng-biến: Đây là cảnh sở hữu của một người mà kẻ khác
có thể tạo tác và thọ dụng. Như một khu vườn đất rộng, trước tiên do một
người khai khẩn và làm chủ. Sau người nầy lại cho nhiều kẻ khác mướn;
những kẻ ấy có thể cất nhà cửa, trồng cây cối nơi những vuông đất mình
mướn, và đều có thể thọ dụng phần tạo tác của mình. Vì cảnh tướng trong
khu đất rộng ấy tuy do một người tạo lập và làm chủ, nhưng thật ra cũng do
nhiều kẻ khác kiến thiết và được thọ dụng, nên gọi là cảnh
bất-cộng-trung-cộng-biến.
4. Bất-cộng-trung-bất-cộng-biến: Đây là cảnh riêng mình tạo lập và riêng
mình làm chủ. Như anh thợ mộc cất một ngôi nhà, đóng những giường tủ bàn
ghế tùy tự ý để cho mình thọ dụng. Những thứ nầy do anh tạo ra và chính
anh làm chủ, nên thuộc về cảnh tượng bất-cộng-trung-bất-cộng-biến.
Bốn nghĩa thế gian tướng trên đây tuy có uẩn khúc, nhưng đều không ngoài
những điểm: tự-biến, cộng-biến, tự-thọ-dụng, cộng-thọ-dụng.
Đến đây có một điểm nghi cần giải thích. Theo như trên đã nói thì sắc do
thức biến, nhưng tại sao chư thiên ở cõi Tứ-thiền còn tâm thức, mà cõi ấy
lại gọi là Vô-sắc? Vô-sắc-giới chẳng phải không có hình tướng, nhưng vì
sắc chất ấy quá vi tế con mắt tầm thường không thể thấy được, nên gọi là
Vô-sắc. Như Kinh Hoa-Nghiêm nói: “Tỷ căn của Bồ-Tát ngửi biết được mùi
thơm nơi cung điện của cõi Vô-sắc”. Kinh A-Hàm cũng nói: “Khi Tôn-giả
Xá-Lợi-Phất nhập Niết-bàn, chư thiên ở cung trời Vô-sắc rơi nước mắt như
mưa!” Cho nên chỗ thấy của chúng-sanh ở hạ giới thuộc về nghiệp-quả-sắc,
hiện cảnh của Vô-sắc-giới thuộc về định-quả-sắc.
Kinh Hoa-Nghiêm nói:
“Nếu người muốn biết
rõ.
Chư Phật trong ba
đời.
Nên quán
tánh-pháp-giới.
Tất cả do tâm tạo”.
Trong lý tâm tạo nầy
lại có nghĩa Tự-tại-biến và Bất-tự-tại-biến. Bất-tự-tại-biến là chúng-sanh
do biệt-nghiệp mà có những cảnh tướng biến hiện riêng, và bị cảnh giới ấy
chi phối nên không được tự tại. Như loài Ngạ-quỷ do nghiệp tham lam bỏn
sẻn, nên thấy đâu cũng là cảnh sông máu, biển lửa hay sa mạc khô khan, rồi
bị khổ trong đó không được tự do. Bởi chúng-sanh do biệt-nghiệp khiến mỗi
loài có những cảnh tướng riêng như thế, nên cảnh ấy cũng gọi là
Tương-vi-thức-tướng. Tự-tại-biến là bậc đắc đạo, đã phá tan hoặc-nghiệp
chứng lý duy-tâm, nên có thể biến hiện cảnh tướng một cách tự tại, như chỉ
cõi đất hóa vàng ròng, khuấy sông dài thành tô lạc. Đây là cảnh tùy theo
chân trí mà biến chuyển, cảnh nầy gọi là Sắc-tự-tại-tướng.
Tóm lại, trong pháp-giới tất cả đều do tâm tạo, mà tâm là vật, vật là tâm,
nên Đức Phật đã bảo: “Ba cõi duy tâm, muôn pháp duy thức”. Đáng lẽ trong
đây nên minh luận về các lý duyên-khởi của pháp-giới, nhưng vì chương nầy
có hạn, và bản ý của bút giả cũng muốn lưu lại mục ấy để phân biệt giữa
thuyết Duy-tâm và Duy-thần trên phương diện tìm đường giải thoát, nên xin
hẹn lại ở thiên sau.
---o0o---
Mục
Lục
Thiên thứ nhất | 1
| 2
| 3
| 4
| 5
| 6
| 7
| 8
| 9
| 10
| 11 | 12
Thiên thứ hai
| 1
| 2
| 3
| 4
| 5
| 6
| 7
| 8
Thiên thứ ba
| 1
| 2
| 3
| 4
| 5
| 6
| 7
| 8
---o0o---
Source:
Di Đà Nguyện Hải
Vi tính:
Huệ Toàn, Huệ Trang, Từ Hỷ và Tuệ Cường
Trình bày : Nhị Tường
Cập nhật ngày 01-04-2003
|
|