|
. |
Phật Học Tinh Yếu
Hòa Thượng Thích Thiền Tâm
Trọn bộ 3
thiên
---o0o---
Khái Yếu Về Tam
Quy
Tiết mục:
I. Ý nghĩa Tam-quy
II. Danh nghĩa Tam-bảo
III. Yếu điểm về việc thọ Tam-quy
IV. Chỗ phi quy-y
Kinh sách trích dẫn: Kinh Ðại-Thừa-Lý-Thú-Lục-Ba-La-Mật, Luận
Du-Già-Sư-Ðịa, Kinh Văn-Thù-Sư-Lợi-Vấn, Kinh Ưu-Bà-Tắc, Kinh
Ðại-Phương-Tiện-Phật-Báo-Ân.
Ðề Yếu: Pháp Tam-quy dường như đơn giản,
song ít người thấu hiểu tường tận. Có vị đã quy-y, nhưng chưa rõ về nghĩa
Tam-bảo. Có kẻ tuy mến chánh giáo, song chỉ đối trước tôn tượng nguyện
quy-y Phật, Pháp mà không quy-y Tăng, hoặc khinh chư tăng không chịu gần
gũi, khiến cho việc thọ Tam-quy không thành và tự nuôi lớn lòng cao mạn,
không được phần pháp ích. Lại có người nghe nói quy-y Tam-bảo không đọa
Tam-đồ chẳng hiểu đó là chỉ cho lý Tam-quy, nên bên ngoài tuy vẫn thọ
Tam-quy, thờ Phật, tụng kinh, đi chùa, cúng dường chư tăng, nhưng bên
trong không diệt lòng tham sân si, vì danh lợi sắc tài mà gây nhiều nghiệp
ác, kết cuộc phải bị sa đọa.
Các tiết trong bản chương thuyết minh khái yếu về Tam-quy qua mấy điểm: ý
nghĩa Tam-quy, Tam-bảo; nghi thức quy-y; những điều tín thệ khi thọ
Tam-quy, Tam-quy là nền tảng của Ngũ-giới và các giới; tại sao chư thiên
là chỗ phi quy-y, Như-Lai là nơi chân quy-y?
Bốn chúng của Phật, nhất là hàng Phật-tử tại-gia, cần nên thông hiểu về
Tam-quy để cho sự tu học được thêm phần lợi ích.
Tiết I: Ý Nghĩa Tam Quy
Tam-quy nguyên lời tắt, nói cho đủ là “Quy-y Tam-bảo”. Quy là trở về; Y là
nương tựa. Quy-y là trở về nương tựa nơi mà mình đã vì si mê lầm lạc,
phóng đãng bỏ ra đi. Ví như đứa trẻ vì khờ dại, bỏ cha mẹ đi hoang, trải
qua những kinh nghiệm khổ đau, tự biết tỉnh ngộ, quay trở về nương tựa
dưới lòng từ ái, lời khuyên dạy thiết thật, bóng tuổi tác hiền hòa của
song thân. “Quy-y” nguyên là phiên âm Trung-Quốc qua danh từ Nam-Mô (Namo)
của Phạm-ngữ, cũng có nghĩa là cung kính hay phục tùng.
Tam-bảo là ba ngôi báu: Phật, Pháp, và Tăng. Ví như châu báu có thể giúp
cho người khỏi nghèo khó, ba ngôi nầy có thể khiến cho chúng-sanh được
phước nhơn thiên, cho đến khỏi sự khổ luân-hồi đến Niết-bàn an vui, nên
gọi là “Bảo”. “Phật” gọi cho đủ là Phật-Ðà (Buddha), Trung-Hoa dịch là
Giác-giả. Danh từ nầy chỉ cho bậc giác ngộ viên mãn trên ba phương diện:
Tự-giác, giác-tha, và giác-hạnh. Tự-giác viên mãn, là tự mình giác ngộ đến
chỗ cứu cánh. Giác-tha viên mãn, là biết các phương pháp dẫn dạy
chúng-sanh đến chỗ cứu cánh. Giác-hạnh viên mãn, chỉ cho hạnh giác ngộ gồm
phước, huệ, tự tha, đều đi đến chỗ đầy đủ, hoàn toàn. “Pháp” nguyên phiên
âm của Trung-Hoa, gọi theo Phạm-ngữ là Ðạt-Ma (Dharma). Ðây là những
phương pháp tu hành để đi đến Phật quả, đại ước như ba tạng: Kinh, luật,
luận. “Tăng” nói đủ theo tiếng Phạm là Tăng-già (Sangha), có nghĩa: Hòa
hiệp chúng hay Thanh tịnh chúng. Ðây là những vị tu hành giữ giới hạnh
trong sạch, hòa thuận chia sớt cho nhau những gì đã thu nhận được, nói đại
khái là sống theo phép lục hòa. Theo đúng nghĩa thì từ bốn người trở lên
mới được gọi là Tăng, nhưng một người cũng có thể đại biểu cho Tăng.
Chúng-sanh từ nhiều kiếp đến nay vì si mê lầm lạc, nên bị luân chuyển
quanh sáu đường, sống trong bể nước mắt khổ đau và bùn nhơ dục vọng. Trong
cảnh đen tối “cuộc vui vui dở, nỗi sầu sầu thêm” ấy, ai là người có chút
thức tỉnh, lại không muốn trở về nguồn trong sáng, an lành? Nhưng làm thế
nào để thoát ly? Biết nơi đâu là nương tựa?
Theo đấng Ðại-giác, chúng-sanh muốn lìa bến khổ trở lại nguồn vui, chỉ có
quy-y Tam-bảo. Tại sao thế? Vì trong Tam-bảo, Phật là đấng hoàn toàn sáng
suốt, trí bi đầy đủ, phước huệ vô biên, đức hạnh đều toàn vẹn. Ngài là bậc
đạo sư vĩ đại nhất, đã có những kinh nghiệm bản thân để dẫn dắt muôn loài
thoát nẻo luân-hồi, đến nơi cực quả. Về pháp, thì ba tạng Kinh-điển của
Phật đầy đủ phương châm, có công năng đưa chúng-sanh vượt khỏi bến mơ,
bước lên bờ giác. Còn Tăng là những vị giới hạnh trong sạch, đã lìa bỏ mọi
thú vui vật chất, hướng về nẻo quang minh, có thể thay thế cho Phật để dẫn
dắt chúng-sanh đi trên đường đạo. Xin dẫn một vài đoạn Kinh-luận, để nói
thêm về ý nghĩa Tam-quy:
- Lại nữa, Từ-Thị! Nếu chúng-sanh nào muốn quy-y Tam-bảo, nên phát tâm như
thế nầy: Nay ta đã sanh làm thân người, xa lìa tám nạn, đó là việc rất khó
được. Vậy ta phải dùng phương tiện khéo, mà tu tập tất cả pháp thắng diệu.
Nếu ta trái với tâm nguyện giải thoát không cầu những pháp lành, chính là
tự khinh bỏ mình. Ví như có người đi thuyền ra biển, tìm được chỗ có châu
báu, nhưng lại trở về tay không. Cũng như thế, Phật, Pháp, Tăng bảo là chỗ
nương tựa để thoát khổ, nếu kẻ nào được gặp mà chẳng quy-y, sau dù có hối
hận cũng không thể kịp! Ðã biết như thế rồi, phải nên siêng năng tu tập
pháp lành nguyện cho mau được thành tựu. Những tội lỗi từ quá khứ cũng cần
sám hối khiến cho trừ diệt. Phải nghĩ rằng ta từ vô thỉ đến nay, do thân,
miệng, ý, tạo ra tội chướng vô lượng vô biên. Những lỗi ấy đều từ tâm niệm
điên đảo giả dối mà sanh, vẫn không có thật. Như thế, các tội đã gây đối
với cảnh tôn trọng như Phật, Pháp, Tăng, cha mẹ sư trưởng, cho đến lỗi nhỏ
như vi-trần, nay đều sám hối.... Lại đối với những nghiệp lành của tất cả
thánh-hiền như Phật và đệ-tử, hàng Ðộc-Giác, Thanh-Văn, bậc hữu học vô học
cùng các loài hữu-tình trong mười phương đều phải phát tâm tùy hỷ.
Nên xét nghĩ, như khi mình đau nặng, trông mong có người quen thuộc nâng
đỡ, xoa nắn, tắm rửa, lo lắng cho việc ăn uống thuốc men. Dù được sự săn
sóc đầy đủ như thế, nhưng nỗi bịnh khổ của tự thân trong hiện tại còn
không ai thay thế cho được, huống nữa là bao nhiêu nỗi khổ lớn sanh-tử ở
đời vị lai ư? Ta đã không nơi nương tựa như thế, thì loài hữu-tình nào có
khác chi! Vậy cần phải quy-y ngôi Tam-bảo chân thật, vì là chỗ thường trụ.
Ví như người trí khi gặp cảnh hiểm nạn, biết cầu bậc có thế lực cứu giúp
chở che. Cũng như thế, chúng-sanh trong nẻo hiểm nạn luân-hồi, phải nương
về ngôi Tam-bảo, mới có thể vượt qua sông sanh-tử to rộng. Nghĩ như thế
rồi, phát lòng tín hướng quả quyết, quỳ gối chắp tay đem hết thân tâm
thành kính đúng theo pháp quy-y Tam-bảo. Sau khi quy-y xong lại phải phát
đại tâm, nguyện cứu độ tất cả chúng-sanh vượt qua biển sanh-tử khổ não,
đến bờ Niết-bàn an vui.
Nầy Từ-Thị! Ví như kẻ lương đạo dẫn dắt đoàn thương khách vượt qua vùng sa
mạc rộng lớn mênh mang đầy nguy hiểm, đến chỗ an toàn thế nào, thì đạo-sư
Tam-bảo cũng vậy. Ba ngôi báu khéo đưa chúng-sanh vượt qua đêm sanh-tử dài
dặc mịt mờ hầu như vô tận, đến trời mai rạng rỡ của Niết-bàn. Vậy kẻ phát
tâm tu hạnh Ðại-thừa, phải nên như thế mà quy-y Tam-bảo. (Lược trích kinh
Ðại-Thừa-Lý-Thú-Lục-Ba-La-Mật)
- Quy-y có mấy ngôi? Có ba ngôi là Phật, Pháp, Tăng. - Do nhân duyên gì mà
chỉ có ba ngôi? Do bốn duyên: 1- Như-Lai là đấng toàn thiện, phước huệ đều
viên mãn. 2- Ðối với tất cả loài hữu-tình, đầy đủ phương tiện khéo để
chiết phục, điều nhiếp. 3- Ðủ lòng đại bi. 4- Giả sử có kẻ đem tất cả tài
bảo cúng dường Như-Lai cũng không vui mừng, chỉ dùng chánh hạnh cúng dường
mới sanh hoan hỷ. Do đó, Đức Phật, giáo pháp và các đệ-tử của Ngài, đều
đáng cho chúng-sanh quy-y.
- Ðủ mấy duyên mới có thể gọi là chân thật quy-y? Ðủ bốn duyên: 1- Biết
công đức. 2- Biết ý nghĩa sai biệt. 3- Chính mình phát thệ nguyện. 4- Nhận
rõ không có đạo sư nào hơn.
- Hạnh tu về quy-y như thế nào? Có bốn chánh hạnh: 1- Gần gũi thiện tri
thức. 2- Nghe học chánh-pháp. 3- Suy nghĩ như pháp. 4- Thực hành đúng
pháp. Thành tựu được bốn hạnh nầy, mới gọi là quy-y. (Luận Du-Già-Sư-Ðịa)
Tiết II: Danh Nghĩa Tam Bảo
Nói về phần khái yếu, Tam-bảo có ba bậc là: Ðồng-thể-Tam-bảo,
Xuất-thế-Tam-bảo, và Trụ-trì-Tam-bảo.
- Về Ðồng-thể-Tam-bảo, thì Ðồng-thể-Phật-bảo là chỉ cho chân tánh đồng
đẳng sáng suốt của chư Phật và tất cả chúng-sanh. Ðồng-thể-Pháp-bảo, tức
là nói tất cả chúng-sanh cùng chư Phật đồng một pháp tánh từ bi, trí huệ.
Ðồng-thể-Tăng-bảo là chỉ cho thể tánh thanh tịnh, sự lý hòa hợp của chư
Phật và chúng-sanh.
- Về Xuất-thế-Tam-bảo, thì Xuất-thế-Phật-bảo chỉ cho Ðức Thích-Ca-Mâu-Ni,
Ðức A-Di-Ðà và chư Phật trong mười phương, đã được giác ngộ tự tại, thoát
khỏi vòng ràng buộc của thế gian. Xuất-thế-Pháp-bảo, chỉ cho chánh-pháp
của Phật như Tứ-đế, Thập-nhị-nhân-duyên, Lục-độ, nói chung là ba tạng
kinh, có công năng làm cho chúng-sanh vượt khỏi nẻo sanh-tử luân-hồi.
Xuất-thế-Tăng-bảo, là các bậc thánh-tăng như Văn-Thù, Phổ-Hiền, A-Nan,
Ca-Diếp, những vị đã siêu thoát ba cõi, chứng quả Niết-bàn.
- Về Trụ-trì-Tam-bảo, thì Trụ-trì-Phật-bảo là chỉ cho những tượng Phật
bằng kim khí, bằng gỗ, bằng sành, đất, xi măng, thêu trên vải hay vẽ trên
giấy. Trụ-trì-Pháp-bảo là ba tạng giáo điển kinh, luật, luận viết hay in
trên giấy, trên vải, trên lá buông, hoặc khắc chạm vào gỗ, đồng, đá.
Trụ-trì-Tăng-bảo, chỉ cho các vị Tỷ-khưu tu hành chân chánh, giới hạnh
trong sạch trang nghiêm.
Nói tóm lại, Ðồng-thể-Tam-bảo là lý tánh đồng đẳng của Phật, Pháp, Tăng.
Xuất-thế-Tam-bảo chỉ cho đức siêu thoát thế gian của ba ngôi báu. Trụ trì
Tam-bảo là hình tướng Tam-bảo lưu trụ ở đời để duy trì đạo pháp, làm nhân
duyên độ chúng-sanh.
Ngoài ra về Tăng, lại có Phàm-phu-tăng và Thắng-nghĩa-tăng. Phàm-phu-tăng
là những vị xuất-gia cạo tóc mặc pháp phục, chưa chứng đạo quả.
Thắng-nghĩa-tăng là những vị đã chứng thánh-quả, đúng với nghĩa thanh tịnh
giải thoát của Tăng, không luận về hình tướng. Như thuở xưa, sau khi Phật
diệt độ, ở xứ Thiên-Trúc có một vị Sa-môn tu chứng quả A-na-hàm. Vừa lúc
đắc đạo, vị đại-đức nầy liền dùng phép thần túc đi mau lẹ như khoảng co
duỗi cánh tay, lên trên cung trời Ðâu-Suất để yết kiến đức Di-Lặc. Nhưng
khi đến nơi, ông thấy Ðức Di-Lặc tuy có 32 tướng, song còn để tóc, đầu đội
thiên quan, mình mặc thiên y xinh đẹp, đeo chuỗi ngọc và những đồ nghiêm
sức rực rỡ của cõi trời. Thấy thế, vị Sa-môn bỗng sanh quan niệm chấp
trước rằng: ta không nên đem hình thức tôn trọng của người xuất-gia, mà
đảnh lễ vị mang hình tướng thế tục. Nghĩ xong, ông vội hiện thần thông trở
xuống hạ giới. Về sau, việc nầy lan truyền ra, các vị tôn đức khác phê
bình ông còn chấp hình thức phương tiện của Phàm-phu-tăng, mà không đạt
phần chân thật của Thắng-nghĩa-tăng, nên để mất sự lợi ích nghe pháp với
một vị Nhất-Sanh Bồ-Tát. Chuyện trên đây cũng đáng làm gương cho hàng
Phật-tử xuất-gia, tại-gia suy gẫm.
Ðể nói rộng thêm, xin lược dẫn một đoạn kinh thuyết minh về ý nghĩa
Tam-bảo:
“Bấy giờ, Từ-Thị Bồ-Tát-Ma-Ha-Tát thưa rằng: “Bạch Thế-Tôn! Sao gọi là
Phật, Pháp, Tăng-bảo? Phải nên quy-y thế nào? Ðức Phật bảo: - Nầy Từ-Thị!
Phật bảo có hai: Phật-thân và Phật-đức. Phật-thân là thân Như-Lai có 32
tướng, đủ mười hiệu, từ vô lượng kiếp về quá khứ đã không tiếc thân mạng
tu viên mãn sáu độ muôn hạnh, đời nay ngồi nơi cội bồ-đề dứt hết kiến
hoặc, hàng phục ma quân, được nhất thiết chủng trí, thành ngôi
Chánh-đẳng-chánh-giác. Phật-đức là Như-Lai có đủ mười lực, bốn vô úy, mười
tám pháp bất cộng, đại từ đại bi đại hỷ đại xả, ba môn giải thoát, sáu
phép thần thông, lìa phiền não chướng, sở tri chướng và tất cả tập khí,
được Tứ-trí, Nhị-trí, Vô-công-dụng-đạo, khởi hiện như huyễn hóa, đi xa
hoặc gần đều tự tại không chướng ngại, có thể để vô lượng núi Tu-Di trong
một hạt cải... Những công đức như thế vô lượng vô biên, Như-Lai thảy đều
đầy đủ.
Pháp bảo có ba thứ: Ðệ-nhất-Pháp-bảo là Niết-bàn, cam-lộ, giải-thoát, lấy
thường, lạc, ngã, tịnh làm thể tánh, hay thoát ly sanh già bịnh chết, lo
thương buồn rầu. Ðây chính là pháp-thân giải thoát của Ma-Ha-Bát-Nhã.
Ðệ-nhị-Pháp-bảo là các công đức mầu thuộc giới, định huệ, và ba mươi bảy
phần bồ-đề như: Tứ-niệm-xứ, Tứ-chánh-cần, Tứ-thần-túc, Ngũ-căn, Ngũ-lực,
Thất-giác-chi, Bát-chánh-đạo. Ba mươi bảy phần nầy làm phương tiện cho
Pháp-bảo thanh tịnh trước. Nói phương tiện là vì tu pháp nầy có thể chứng
được Pháp-thân thanh tịnh. Ðệ-tam-Pháp-bảo, là chánh-pháp mà vô lượng
Căng-già-sa chư Phật đời quá khứ và ta đã nói ra, như tám muôn bốn ngàn
diệu pháp uẩn, để điều phục chúng-sanh thuần thục, hữu duyên, khiến cho
A-Nan và các đại đệ-tử một phen nghe đều ghi nhớ hết. Chánh-pháp nầy nhiếp
thành năm phần: Tô-Đát-Lãm, Tỳ-Nại-Gia, A-Tỳ-Đạt-Ma, Bát-Nhã-Ba-La-Mật-Đa,
và Ðà-La-Ni môn. Như-Lai và các đệ-tử dùng năm tạng nầy hóa đạo
chúng-sanh, tùy căn cơ đáng độ mà vì thuyết pháp. Nếu những hữu-tình ưa ở
rừng núi và chỗ thanh vắng u nhàn mà tu tịnh lự, thì vì họ nói tạng
Tô-Đát-Lãm. Nếu những hữu-tình ưa tập giới hạnh oai nghi để hộ trì
chánh-pháp khiến cho một vị hòa hợp, được trụ lâu nơi đời, thì vì họ nói
tạng Tỳ-Nại-Gia. Nếu những hữu-tình ưa phân biệt tánh tướng của các pháp,
tìm tòi nghiên cứu đến chỗ rốt ráo u thâm, thì vì họ nói tạng A-Tỳ-Đạt-Ma.
Nếu những hữu-tình ưa tu tập trí huệ chân thật của Ðại-thừa, xa lìa ngã
chấp, pháp chấp, thì vì họ nói tạng Bát-Nhã-Ba-La-Mật-Đa. Nếu những
hữu-tình không thể thọ trì khế kinh, điều phục, đối pháp, Bát-nhã; hoặc
tạo các nghiệp ác như: tứ-trọng, bát-trọng, ngũ-vô-gián, nhất-xiển-đề,
(vô-tính-căn: không tin Phật-pháp) báng kinh Phương-đẳng, thì vì họ nói
tạng Ðà-La-Ni, khiến cho được mau tiêu trừ tội chướng, chứng ngộ Niết-bàn.
Năm pháp tạng nầy ví như các vị: nhũ, lạc, sanh-tô, thục-tô, đề-hồ; khế
kinh như nhũ, điều phục như lạc, đối pháp như sanh-tô, Bát-nhã như
thục-tô, tổng trì như đề-hồ. Trong năm vị, đề-hồ là vi diệu bậc nhất, vì
hay trừ các bịnh khiến cho loài hữu-tình thân tâm an vui. Cũng như thế,
trong năm tạng, Ðà-La-Ni là bậc nhất, vì hay tiêu trừ tội nặng khiến cho
chúng-sanh mau thoát vòng sanh-tử, chứng pháp-thân tâm an lạc của
Niết-bàn. Khi ta diệt độ, phú chúc cho A-Nan thọ trì tạng Tô-Đát-Lãm,
Ưu-Ba-Ly thọ trì tạng Tỳ-Nại-Gia, Ca-Ða-Diễn-Na thọ trì tạng A-Tỳ-Đạt-Ma,
Mạn-Thù-Thất-Lỵ Bồ-Tát thọ trì tạng Bát-Nhã, Kim-Cương-Thủ Bồ-Tát thọ trì
tạng Ðà-La-Ni.
Tăng bảo cũng có ba là: Ðệ-nhất-nghĩa-tăng, Thánh-tăng và Phước-điền-tăng.
Ðệ-nhất-nghĩa-tăng là chư Phật thánh-tăng như pháp mà trụ, không thể nhìn
thấy, cầm nắm, phá hoại, hoặc thiêu đốt, làm hại, không thể nghĩ bàn! Ðây
là những phước điền tốt đẹp của tất cả chúng-sanh, tuy làm phước điền mà
không nhận lãnh, và các pháp công đức thường không biến đổi. Thánh-tăng là
Tu-đà-hoàn hướng, Tu-đà-hoàn quả, Tư-đà-hàm hướng, Tư-đà-hàm quả, A-na-hàm
hướng, A-na-hàm quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả, Bích-Chi-Phật hướng,
Bích-Chi-Phật quả, Bát-đại-nhân-giác, Tam-hiền, Thập-thánh.
Phước-điền-tăng là các vị Bí-sô, Bí-sô-ni giữ gìn giới hạnh, học nhiều,
trí huệ, ví như cây Thiên-ý hay che mát chúng-sanh. Lại như đám mưa rào
mát ngọt hay thắm nhuần giúp ích kẻ lữ hành khô khát đang đi nơi đồng
hoang bãi sa mạc, như tất cả châu báu xuất sanh từ biển nước mặn.
Phước-điền-tăng cũng như thế, hay cho loài hữu-tình sự an ổn vui tươi.
Nầy Từ-Thị! Trong ba ngôi Tăng-bảo như thế, tuy cũng đồng quy-y, nhưng
điểm tất yếu là quy-y Ðệ-nhất-nghĩa-vô-vi-Tăng-bảo. Tại sao thế? Vì
Ðệ-nhất-nghĩa-tăng là Thường-trụ-tăng. Ngôi Tăng-bảo nầy vô lậu vô vi,
không biến không đổi, là pháp tự chứng. Quy-y ngôi Tăng-bảo vô lậu như
thế, hay tiêu diệt tất cả sự khổ ách. Khi quy-y nên nguyện các hữu-tình
đều được công đức vô lậu, và nguyện khi mình đắc độ rồi, sẽ diễn pháp tam
thừa hóa đạo chúng-sanh. Lại nguyện rằng: “Ta nay quy-y Phật, Pháp,
Tăng-bảo không vì sợ hãi nỗi khổ trong ba đường ác, cũng không mong hưởng
phước báo cõi trời cõi người, mà chính muốn cứu độ loài hữu-tình thoát nẻo
luân-hồi khổ não. Ðó gọi là phép quy-y”. (Kinh
Ðại-Thừa-Lý-Thú-Lục-Ba-La-Mật)
Tiết III: Yếu Ðiểm Về Việc Thọ Tam Quy
Sau khi đã rõ ý nghĩa Tam-bảo và sự cần thiết về quy-y, người muốn bước
lên đường đạo đức, giải thoát, phải nên thực hành điều hiểu biết ấy. Quy-y
có hai: Sự-quy-y và Lý-quy-y.
Phần Tam-quy về Sự, thì Sự-quy-y Phật là thân hằng chiêm ngưỡng kính lễ
hình tượng Ðức Thế-Tôn, miệng xưng danh hiệu Ngài, tâm luôn luôn tưởng nhớ
nguyện suốt đời theo bước chân đấng Ðiều-Ngự. Sự-quy-y Pháp là việc nghe
học nghiên cứu nghĩa lý nhiệm mầu trong ba tạng, hoặc thường đọc tụng
kinh, luật, luận, nghi nhớ lời thánh-giáo, y theo đó mà tinh tấn tu hành.
Sự-quy-y Tăng là gần gũi những vị Sa-môn có giới hạnh, thông hiểu
chánh-pháp, để học hỏi những điều mình chưa biết. Người đã thọ Tam-quy,
đối với những bậc Tỷ-khưu hạnh giải cố nhiên là phải cung kính, cúng
dường, thân cận; nhưng với những vị Tăng không thanh tịnh tuy không gần
gũi, cũng đừng nên sanh lòng khinh mạn, nặng tiếng bêu rêu, vì làm như thế
có tánh cách phá hoại Tam-bảo, tự gây ác nghiệp cho mình.
Phần Tam-quy về Lý, là quy-y nơi lý tánh Phật, Pháp, Tăng của mình, cũng
gọi là Tam-tự-quy-y. Lý-quy-y Phật là hành giả phải dứt hết tâm mê vọng,
trở về với Phật tánh sáng suốt của mình. Phật tánh ấy mọi người chúng ta
đều sẵn có, chỉ vì từ vô thỉ ta hằng để nước lòng vẩn đục, nên làm mất ánh
sáng thiên chân. Tánh cách quy-y nầy là tìm nơi chính mình, chớ không phải
hướng theo bên ngoài. Tục ngữ có câu: “Không thờ Phật trong nhà, uổng đi
tìm Thích-Ca ngoài đồng” chính là lẽ ấy. Lý-quy-y Pháp là nương về pháp
tánh trong sạch của mình. Pháp tánh đó có đủ Tứ-vô-lượng-tâm,
Tứ-vô-ngại-biện, Tứ-trí, Tứ-đức-niết-bàn, Lục-ba-la-mật, tóm lại là vô
lượng pháp môn. Chúng ta cần phải phát huy những công đức sẵn có ấy.
Lý-quy-y Tăng là nương theo vị Tăng trong tâm mình. Vị Tăng đó tức là đức
tánh thanh tịnh, hòa hợp, giải thoát sẵn có của tâm, ví như Tăng-già là
hiện thân của sự thanh tịnh, hòa hợp, giải thoát bên ngoài. Khi ta còn mê
muội chưa biết rõ ông thầy của tự tâm, nay nhờ Phật chỉ dạy, ta nên nhận
thức mà trở về với Tăng-đức thanh tịnh của mình.
Tóm lại, Sự-Tam-quy thiên trọng về hình nghi, Lý-Tam-quy thiên trọng về
tâm tánh. Lý-Tam-quy như Pháp-Bảo-Ðàn-Kinh đã nói: “Giữ lòng giác ngộ, là
quy-y Phật, giữ lòng chân chánh là quy-y Pháp, giữ lòng thanh tịnh là
quy-y Tăng”. Người quy-y nếu chỉ thiên trọng về Sự-Tam-quy thì duy có bề
ngoài mà không có bề trong, chấp phương tiện mà không đi đến chỗ cứu cánh.
Nếu chỉ chấp Lý-Tam-quy phế bỏ phần Sự, tức là khinh mạn ngôi Tam-bảo,
trái với tự tâm, rồi phần Lý-quy-y cũng không thành. Tại sao thế? Vì chân
lý của tự tâm vốn giác ngộ thanh tịnh, không có tánh cách kiêu mạn thiên
chấp, vì trái với phương tiện thứ đệ của Phật dạy, vì toàn Sự tức là Lý.
Cho nên Bàng-Uẩn cư sĩ dù ngộ đạo cũng vẫn quy-y, Lục tổ Huệ-Năng dù thấu
suốt tự tâm, được truyền y bát, cũng phải thọ giới. Ðể nhấn rõ thêm những
điều trọng yếu, xin dẫn ít đoạn kinh nói đại lược về mấy điểm nghi thức
tín thệ, và cơ sở giới luật của Tam-quy:
“Khi ấy, Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát hỏi: -Bạch Thế-Tôn! Phép quy-y như thế nào?
Ðức Phật bảo: “Bạch đại-đức! Con là (tên họ hoặc pháp danh), từ nay cho
đến khi thành đạo bồ-đề, xin quy-y Phật, quy-y Pháp, quy-y Tăng”. Lần thứ
hai, thứ ba cũng nói như thế. Lại thưa: “Con là... đã quy-y Phật rồi,
quy-y Pháp rồi, quy-y Tăng rồi”. Nói như thế ba lần. Ðây là phép Tam-quy,
tam-kết, yếu điểm trong nghi thức quy-y”. (Kinh Văn-Thù-Sư-Lợi-Vấn)
...Lại nên bảo rằng: “Giới Ưu-bà-tắc rất khó giữ. Nếu đã quy-y Phật, thà
bỏ thân mạng, quyết không quy-y các vị thiên thần hay ngoại-đạo khác, như
Tự-Tại-Thiên... Nếu đã quy-y Pháp, thà bỏ thân mạng, quyết không nương
theo các kinh sách của ngoại giáo. Nếu đã quy-y Tăng, thà bỏ thân mạng,
quyết không gần gũi nương tựa theo tà chúng. Ông có thể như thế mà chí tâm
quy-y Tam-bảo chăng? Như người thọ Tam-quy đáp: “Có thể”, thì lại bảo
tiếp: - Nầy Thiện-nam-tử! Giới Ưu-bà-tắc rất khó giữ. Nếu người nào nương
về Tam-bảo, tất phải bố thí sự không sợ hãi cho chúng-sanh. Như kẻ ấy có
thể bố thí vô úy, thì mới đắc Tam-quy và giới Ưu-bà-tắc, cho đến quả
A-Nậu-Đa-La-Tam-Miệu-Tam-Bồ-Đề. Ông có thể như thế mà bố thí sự không sợ
hãi cho chúng-sanh chăng? (Kinh Ưu-Bà-Tắc-Giới)
Ngài Ưu-Ba-Ly thưa: -Bạch Thế-Tôn! nếu như khi thọ Tam-quy giới, trước
xưng Pháp-bảo, sau xưng Phật-bảo, có thành phép Tam-quy chăng? Ðức Phật
bảo: “Nếu kẻ vì không hiểu biết mà nói sai thứ lớp, thì không đắc tội,
thành phép Tam-quy. Như người đã hiểu biết mà cố ý nói sai thứ lớp, thì
đắc tội, phép Tam-quy không thành. Ưu-Ba-Ly hỏi: - Nếu xưng Phật, Pháp
không xưng Tăng; hay xưng Pháp, Tăng, không xưng Phật; hoặc xưng Phật,
Tăng, không xưng Pháp, như thế phép Tam-quy có thành chăng? Ðáp: Không
thành! Lại hỏi: - Nếu không thọ Tam-quy, có thể đắc Ngũ-giới, Bát-giới,
hoặc Thập-giới chăng? Nếu không bạch Tứ-yết-ma, đắc Cụ-túc giới chăng?
Ðáp: Tất cả giới đều không đắc. Như muốn thọ Ngũ-giới, trước phải thọ
Tam-quy. Ðã thọ xong Tam-quy, mới có thể đắc Ngũ-giới. (Kinh
Ðại-Phương-Tiện-Phật-Báo-Ân)
Tiết IV: Chỗ Phi Quy Y
Như Kinh nói, người đã quy-y Phật rồi, dù cho thiên thần còn không nên
nương theo, huống chi là tà-ma ngoại-đạo. Nhưng tại sao chư thiên cũng tôn
quý, lại không phải là những bậc đáng quy-y? Ta hãy xem một đoạn trong
luận tạng như sau:
Do năm nhân duyên, nên biết chư thiên không phải là chỗ quy-y? Năm nhân
duyên ấy là: 1- Do hình tướng. 2- Do tự tánh. 3- Do tác nghiệp. 4- Do pháp
nhĩ. 5- Do nhân-quả.
1. Tại sao do hình tướng, nên chư thiên không phải là chỗ quy-y?
Ấy bởi chư thiên không phải là những vị mà người
đời thường trông thấy, hoặc tiếp xúc nói chuyện. Có khi chư thiên thần
hình dáng oai mãnh, khác lạ, đáng khiếp sợ. Hơn nữa, chư thiên thường
buông lung theo sự tham ái vui chơi, bỏ việc lợi tha, không có lòng bi
mẫn, đối với nghĩa chân thật không thông đạt, chẳng biết những điều đáng
làm cùng không đáng làm.
Còn Đức Phật là bậc mà người đời được trông thấy, thường tiếp xúc nói
chuyện, hình tướng tươi đẹp, điềm tĩnh, trang nghiêm. Như-Lai xa lìa sự
tham ái, phóng dật, thương xót loài hữu-tình, hằng có tâm lợi tha, biết
việc đáng làm cùng không đáng làm, thông đạt nghĩa chân thật.
Lại nữa, Như-Lai là bậc chân quy-y, do bởi năm sự
kiện: 1- Vì lợi ích tất cả hữu-tình mà tu chứng bồ-đề. 2- Khéo xoay chuyển
bánh xe chánh-pháp. 3- Tâm lợi tha bình đẳng, không phân biệt ân, oán,
thân, sơ cùng dị loại. 4- Bỏ tất cả cung điện, quyến thuộc, sự tôn vinh,
nhiếp trừ tham ái, các căn tịch tịnh. 5- Hay giải quyết tất cả mối nghi
cho chúng-sanh.
2- Tại sao do tự tánh nên chư thiên không phải là chỗ quy-y?
Ấy bởi chư thiên còn tùy theo phiền não, còn nghiệp
hoặc, tánh chưa thuần thiện, không thể điều ngự kẻ khác đúng theo đạo lý.
Trái lại, Như-Lai lìa tất cả phiền não, tâm tánh thuần thiện, khéo điều
ngự tất cả loài hữu-tình.
3- Tại sao do tác nghiệp, nên chư Thiên không phải là chỗ quy-y?
Ấy bởi chư thiên còn an trụ nơi sự thọ hưởng dục
lạc, có thể gây ra ác nghiệp và làm tổn hại cho loài hữu-tình. Còn Đức
Phật thì tâm quảng đại sáng suốt trong sạch, thường an trụ nơi chánh định
hay làm những việc lợi ích cho chúng-sanh.
4- Tại sao do pháp nhĩ, nên chư thiên không phải là chỗ quy-y?
Ấy bởi tất cả kết quả tốt đẹp an vui của thế gian
và xuất thế gian đều do công lực của mình. Nếu tự mình không gắng sức ra
công làm lành tu tập, thì dù có hết sức thờ kính chư thiên, cũng không thể
được. Trái lại, tuy không kính thờ chư thiên mà gắng sức làm lành tu tập
cũng được kết quả tốt đẹp an vui.
5- Tại sao do nhân-quả, nên chư thiên không phải là chỗ quy-y?
Nên suy gẫm: Kết quả của thân trời là do nghiệp
trời, do cúng dường chư thiên, hay do vô nhân mà được? Nếu do tạo phước
trời thì nên nương theo nghiệp lành của mình, không cần quy-y chư thiên
kia. Nếu do vô nhân, thì cũng không cần quy-y chư thiên. Nếu do cúng
dường, thì bởi dùng tâm nguyện được sanh cõi trời, hay dùng đồ cúng mà
được sanh cõi trời? Nếu chỉ dùng đồ cúng thì tùy ý cúng dường bất cứ vị
nào cũng được thân trời, cần chi phải quy kỉnh chư thiên? Nếu chỉ dùng tâm
nguyện thì không cúng dường cũng được sanh cõi trời, cần chi dùng đồ cúng?
Nếu nói dùng cả tâm nguyện và đồ cúng, thì người làm ác chỉ cần quy kỉnh
cúng dường chư thiên cũng được làm thân trời hưởng phước lạc, chẳng lẽ
trái với lẽ phải, với nhân-quả hay sao? Cho nên ngoại-đạo bảo chỉ quy kính
cúng dường thiên thần, sẽ được sanh lên cõi trời hưởng phước an vui là
không đúng với đạo lý. (Luận Du-Già-Sư-Ðịa)
---o0o---
Mục
Lục
Thiên thứ nhất | 1
| 2
| 3
| 4
| 5
| 6
| 7
| 8
| 9
| 10
| 11 | 12
Thiên thứ hai
| 1
| 2
| 3
| 4
| 5
| 6
| 7
| 8
Thiên thứ ba
| 1
| 2
| 3
| 4
| 5
| 6
| 7
| 8
---o0o---
Source:
Di Đà Nguyện Hải
Vi tính:
Huệ Toàn, Huệ Trang, Từ Hỷ và Tuệ Cường
Trình bày : Nhị Tường
Cập nhật ngày 01-04-2003
|
|