|
. |
Phật Học Tinh Yếu
Hòa Thượng Thích Thiền Tâm
Trọn bộ 3
thiên
---o0o---
Sự Phát Triển
Của Tiểu Thừa
Tiết mục:
I. Nguyên nhân phân biệt danh từ
II. Sự phát triển của Hữu-bộ
III. Sự phát triển của Kinh-Lượng-bộ
IV. Sự phát triển của Đồng Diệp bộ
Kinh sách tham khảo: Dị-Bộ-Tông-Luân-Luận, Phật-Học-Đại-Cương,
Lược-Sử-Truyền-Bá-Phật-Giáo, Ấn-Độ-Phật-Giáo-Sử-Lược.
Đề yếu: Bởi chúng sanh căn tánh có khác nhau, nên giáo pháp mới
chia thành Đại, Tiểu-thừa sai biệt. Tuy nhiên, nhìn nơi hiện thực, mỗi bên
đều có những ưu điểm riêng. Trong ba bộ phái Tiểu-thừa được phát triển
nhất, giáo nghĩa đặc sắc của Hữu-bộ là Câu-Xá-Luận; giáo nghĩa đặc sắc của
Kinh-bộ là Thành-Thật-Luận. Đạo lý của hai bộ nầy về sau gây thành
Câu-Xá-Tông và Thành-Thật-Tông bên Trung-Hoa. Còn Nam-phương Thượng-Tọa-bộ
nhờ ở điểm giữ theo cổ truyền, đến nay thế lực vẫn không suy giảm, lại có
phần muốn lấn hơn Bắc-phương Phật-giáo.
Nam-tông và Bắc-tông đã có những ưu điểm riêng, thiết tưởng người học Phật
cũng nên có quan niệm bao dung, tham khảo giáo nghĩa cùng sự hành trì của
đôi bên để chiết trung lấy, bỏ những phần ưu, liệt.
Tiết I: Nguyên Nhân Phân Biệt Danh Từ
Sau khi Phật-giáo chia thành hai mươi bộ, các phái đều phát đạt, nhưng
tiến trình rất sai khác nhau. Hoặc có bộ phái dừng lại nơi giáo lý
Tiểu-thừa, có bộ phái biến thành Đại-thừa. Các phái Tiểu-thừa phần nhiều
thuộc hệ thống Thượng-Tọa-bộ. Các phái Đại-thừa phần nhiều thuộc hệ thống
Đại-Chúng-bộ.
Trước tiên, sau khi Ðức Thế-Tôn diệt độ trong khoảng 100 năm, Phật-giáo
chưa bị chia chẻ, nên thật ra chưa có danh xưng phân biệt. Lúc giáo đoàn
Tăng-lữ lần lần chia thành hai mươi bộ, ta có thể gọi đó là thời kỳ bộ
phái Phật-giáo. Bấy giờ những danh từ Tiểu-thừa, Đại-thừa hay Nguyên-thủy
để chỉ định cho một tập đoàn nào cũng chưa có. Nhưng sau khi Đại-thừa
Phật-giáo được chính thức thành lập, những học giả Đại-thừa muốn phân biệt
sự cao thấp về mặt tư tưởng giáo lý, nên gọi những bộ phái thiên về quan
niệm tự độ, chấp Ngã Không pháp hữu là Tiểu-thừa. Trái lại, Tiểu-thừa
Phật-giáo không chấp nhận danh từ Tiểu-thừa, để tỏ ra giáo lý của mình đi
đúng với căn bản hơn, sau nầy họ tự xưng là phái Nguyên-thủy. Gần đây,
muốn gây ý niệm dung hòa trong khi giao tiếp, bên Đại-thừa thường tự xưng
là Bắc-tông và gọi bên Tiểu-thừa là Nam-tông.
Khi Đại-thừa Phật-giáo mới ra đời và lần lần được hưng long, phái
Tiểu-thừa bị kích thích bởi ảnh hưởng đó, cũng trở nên tiến đạt. Thời ấy,
bên phái Tiểu-thừa, giáo lý được phát triển hơn cả là học thuyết của
Nhất-Thiết-Hữu-bộ và Kinh-Lượng-bộ.
Tiết II: Sự Phát Triển Của Hữu Bộ
Lập nghĩa của Hữu-bộ, ban sơ lấy Phát-Trí-Luận của ngài
Ca-Chiên-Diên-Ni-Tử làm căn bản. Kế đó, các luận sư trong bộ phái nầy căn
cứ theo bản luận mà diễn thích thành sáu bộ khác, gọi là Lục-Túc-Luận. Ít
lâu sau, những học giả thuộc bản bộ lại y cứ theo Phát-Trí-Luận và
Lục-Túc-Luận mà giải thích một cách tỉ mỉ, biên soạn thành bộ
A-Tỳ-Đạt-Ma-Đại-Tỳ-Bà-Sa-Luận. Về thời gian chế tác bộ Ðại-Tỳ-Bà-Sa, có
nhiều thuyết khác nhau. Có thuyết cho rằng niên đại chế tác luận nầy vào
lúc Phật diệt độ hơn 400 năm, khi vua Ca-Nị-Sắc-Ca mới lên ngôi. Còn trong
Thế-Thân-Truyện lại bảo sau Phật diệt độ 500 năm. Ngài Đạo-Đỉnh, vị pháp
sư viết lời tựa Tỳ-Bà-Sa-Luận, thì nói là hơn 600 năm sau Phật diệt độ.
Thuyết sau nầy gần với sự thật hơn cả.
Đương thời, tông nghĩa của Hữu-bộ lấy xứ Ca-Thấp-Di-La làm trung tâm, và
được thịnh hành ở địa phương Tây-bắc Ấn-Độ. Khi bộ Đại-Tỳ-Bà-Sa-Luận đã
được biên soạn, học thuyết của Hữu-bộ dường như trở nên cố định, ngưng
phát triển trong một thời gian. Nhưng đến sau, do phản ứng từ sự công kích
của những luận sư Đại-thừa Phật-giáo như Long-Thọ, Đề-Bà, các phái
Tiểu-thừa cũng lần thức tỉnh. Riêng về Hữu-bộ, họ hết sức chỉnh đốn lại
nội dung của tông nghĩa mình. Như ngài Thi-Đà-Bàn-Ni (Stapàni) soạn thuật
bộ Đề-Bà-Sa-Luận; ngài Pháp-Thắng (Dharmasri) soạn thuật bộ
A-Tỳ-Đàm-Tâm-Luận. Sau đó, ngài Ưu-Ba-Phiên-Đà (Upasantà) sáng tác bộ
A-Tỳ-Đàm-Tâm-Luận-Kinh; ngài Đạt-Ma-Đà-La (Dharmatràta) sáng tác bộ
Tạp-A-Tỳ-Đàm-Tâm-Luận. Tất cả những bộ luận trên đều cùng chung mục đích
phát huy chân giáo nghĩa của Hữu-bộ. Niên đại xuất thế của các vị luận sư
kể trên, thuộc vào khoảng đầu thế kỷ thứ hai đến cuối thế kỷ thứ tư
tây-lịch. Đến đầu thế kỷ thứ năm, có ngài Tắc-Kiền-Địa-La (Skandila), trứ
thuật bộ Nhập-A-Tỳ-Đạt-Ma-Luận. Giáo nghĩa của Hữu-bộ nhờ đó thêm phần đặc
sắc.
Từ trước Hữu-bộ đã có bốn vị học giả trứ danh, mà cổ lai thường gọi là
Hữu-tông-tứ-đại-luận-sư. Bốn ngài đó là: Pháp-Cứu (Dharmatràta), Diệu-Âm
(Ghosa), Thế-Hữu (Vasumitra) và Giác-Thiên (Buddhadeva). Đến cuối thế kỷ
thứ tư, có hai đại học giả Phật-giáo là Vô-Trước (Asanga) và Thế-Thân
(Vasubandhu) ra đời. Hai ngài sanh quán ở thành Phú-Lâu-Sa-Bổ-La
(Purusapura - Bá-Lộ-Sa), thuộc nước Kiền-Đà-La. Trước tiên hai ngài tin
theo Bà-La-Môn-giáo, sau thấy đạo nầy chưa được cứu cánh, nên đồng
xuất-gia học tập giáo lý Tiểu-thừa trong Hữu-bộ. Nhưng vì không mãn nguyện
với học thuyết Tiểu-thừa, về sau hai vị lại chuyển sang nghiên cứu
Kinh-điển của Đại-thừa Phật-giáo.
Riêng về ngài Thế-Thân, khi còn ở Hữu-bộ, nhân nghiên cứu học thuyết của
Kinh-bộ thấy có nhiều ý tứ cao siêu, muốn đem học thuyết nầy chiết trung
với Hữu-bộ để bổ khuyết cho giáo nghĩa của tông mình. Nhưng vì tông lý
uyên nguyên khó bề tường tận, ngài sang xứ Ca-Thấp-Di-La tham phỏng với
một vị đại-đức của Hữu-bộ là A-la-hán Ngộ-Nhập (biệt danh Chúng-Hiền,
Tăng-Già-Bạt-Đà-La - Samghabhadra). Sau khi nắm hết được các yếu nghĩa,
Tôn-giả Thế-Thân trở về bản quốc giảng Đại-Tỳ-Bà-Sa-Luận, nạn phá những
chỗ ý tứ chưa được ổn, cải thiện lại học thuyết của Hữu-bộ. Và, thuận theo
lòng ngưỡng mộ cùng sự yêu thỉnh của các học giả ở Ca-Thấp-Di-La, ngài
biên tập lại những bài giảng của mình thành bộ A-Tỳ-Đạt-Ma-Câu-Xá-Luận
(Abhidharma Kosasàstra). Chúng-Hiền luận-sư là một học giả chính thống của
Hữu-bộ nghe ngài Thế-Thân sau khi phỏng đạo với mình, trở về làm luận
Câu-Xá, bác phá nhiều điểm cổ truyền của bản tông, có ý không bằng lòng.
Do đó luận-sư viết ra hai bộ: A-Tỳ-Đạt-Ma-Bảo-Luận cũng gọi là
Thuận-Chánh-Lý-Luận và A-Tỳ-Đạt-Ma-Hiển-Tông-Luận; bộ trước dụng ý phá tà,
bộ sau dụng ý hiển chánh. Nhưng hai bộ luận nầy vì chấp theo cựu thuyết,
nên nội dung còn lủng củng, có nhiều chỗ phải viết trái với cổ nghĩa, ý tứ
mới được thông. Vì vậy, bộ Câu-Xá-Luận được chiếm phần ưu thế hơn; các học
giả trong Hữu-bộ khi tham tầm giáo lý của bản tông, chỉ nghiên cứu
Câu-Xá-Luận là đầy đủ. Còn hai bộ luận của ngài Chúng-Hiền soạn, với chủ
trương kháng đối Câu-Xá-Luận, ngược lại, bị họ coi là phản bội với giáo
nghĩa của Hữu-bộ. Do đó, người đời sau gọi Câu-Xá-Luận là
Tân-Tỳ-Bà-Sa-Luận, Tôn-giả Thế-Thân là tân giáo chủ của phái Tát-Bà-Đa
(Hữu-bộ).
Và, học thuyết của Hữu-bộ phát triển đến đây là cùng cực.
Tiết III: Sự Phát Triển Của Kinh Lượng Bộ
Theo Bắc-truyền, Kinh-Lượng-bộ tức là Thuyết-Chuyển-bộ. Nhưng theo
Nam-truyền thì hai bộ ấy khác nhau, Kinh-Lượng-bộ phát xuất là
Thuyết-Chuyển-bộ. Nếu căn cứ thuyết sau nầy, giáo nghĩa của hai phái tất
phải có chỗ sai biệt. Nhưng thuyết của Nam-truyền không tìm thấy kinh sách
để tham khảo, nên nay chỉ theo Bắc-truyền mà lược thuật tông nghĩa của
Kinh-Lượng-bộ.
Sở dĩ được gọi Kinh-Lượng, vì bộ nầy lấy kinh làm Chánh-Lượng, mà không y
theo Luật, Luận. Trong thời kỳ kiết-tập thứ nhất, vị Tôn-giả trùng tuyên
tạng-kinh là ngài A-Nan, nên phái nầy suy tôn ngài làm sơ tổ của bản bộ.
Kinh-Lượng lại có tên là Thuyết-Chuyển với hàm ý: học thuyết của bộ nầy
lưu chuyển về sau không cùng. Theo Kinh-Lượng-bộ, giáo nghĩa của tạng Kinh
có công năng gây thành hạt giống trong tâm thức, hạt giống đó họ gọi là
Nhất-vị-uẩn. Nhất-vị-uẩn lại có công năng sanh ra tự quả là Danh và Sắc.
Danh sắc chủng tử cùng tâm chủng tử hai bên duy trì nhau, nên dù cho ở địa
vị hữu tâm hay vô tâm, Nhất-vị-uẩn vẫn hằng tương tục không tiêu diệt.
Chủng tử hằng tương tục không tiêu diệt nầy gọi là Tế-ngũ-uẩn, tương đối
với Thô-ngũ-uẩn sanh diệt biến hóa. Tế-ngũ-uẩn tức là Nhất-vị-uẩn,
Thô-ngũ-uẩn gọi là Căn-biên-uẩn.
Trước tiên, Kinh-Lượng-bộ chấp ngoài tâm có pháp, sau lần lần có khuynh
hướng về Duy-tâm-luận. Phái nầy có hai học giả trứ danh: vị trước là
Cưu-Ma-Ra-La-Đa (Đồng Thọ), chủ trương thuyết Sắc-tâm-hỗ-trì. Vị sau là
Thất-Lỵ-La-Đa (Thắng-Thọ), chủ trương thuyết Tế-ý-thức. Tế-ý-thức là bốn
uẩn vi tế làm căn bản cho Thô-ngũ-uẩn. Theo Kinh-Lượng-bộ, các loài dị
sanh tự nhiên có chủng tử vô lậu. Do đó, dù Phật ra đời hay không ra đời,
được nghe pháp hay không nghe pháp, những loài nầy đều có năng lực tự giải
thoát. Bản phái lại lập ra thuyết Thắng-Nghĩa-Bổ-Đặc-Già-La, cho đây là
cái thật ngã vi tế. Bổ-Đặc-Già-La nầy không có biệt thể khác năm uẩn như
phái Độc-Tử và Chánh-Lượng, mà rất vi tế không thể nghĩ bàn, nên mới gọi
là Thắng-Nghĩa. Tế-ý-thức là ngã thể trong nhân vị khi chưa thành Phật.
Thắng-Nghĩa-Bổ-Đặc-Già-La là bản thể vô thủy vô chung, thông cả phàm-phu
và Phật-vị.
Kinh-Lượng-bộ lại lập ra ba định tụ: Chánh-định-tụ, Tà-định-tụ và
Bất-định-tụ. Chánh-định-tụ là pháp vào Niết-bàn. Tà-định-tụ là pháp không
thể vào Niết-bàn. Bất-định-tụ là pháp không nhất định được Niết-bàn. Phái
nầy cũng lập ra thuyết Vô-vi-vô-tác-dụng như Hữu-bộ. Vô-vi-vô-tác-dụng đại
khái giống như thuyết Chân-như-bất-động của Duy-Thức. Vì thế, có kẻ cho
Kinh-Lượng-bộ là tiền khu của Duy-Thức-tông.
Đến giữa thế kỷ thứ tư Tây-lịch, có ngài Ha-Lê-Bạt-Ma (Harivarman -
Sư-Tử-Khải) ra đời, chỉnh đốn lại giáo nghĩa của Kinh-Lượng-bộ.
Ha-Lê-Bạt-Ma gốc người Trung-Ấn, thuộc dòng Bà-La-Môn, đã từng tu học theo
phái Số-luận, sau mới quy-y Phật-giáo. Khi nương về chánh-pháp, đầu tiên
ngài theo đại-đức Cưu-Ma-La-Đa, một học giả của Hữu-bộ, tham cứu về
Phát-Trí-Luận. Sau ngài thấy học thuyết của Hữu-bộ còn nông cạn mà lối
biện luận lần lần đi vào chỗ phiền toái, nên chuyển sang nghiên tầm giáo
nghĩa của Đại-Chúng-bộ. Khi nương về Kinh-Lượng-bộ, ngài có mục đích thống
nhất giáo nghĩa của các phái, nên mới chiết trung các học thuyết Đại,
Tiểu-thừa, mà soạn ra bộ Thành-Thật-Luận (Satyasiddhi Sàstra).
Nội dung của Thành-Thật-Luận là căn cứ vào thuyết Tứ-thánh-đế, để chỉnh
đốn lại đạo lý của Phật-giáo. Trong đây chia thành năm tụ, gồm 202 phẩm.
Năm tụ là: Phát-tụ, Khổ-đế-tụ, Tập-đế-tụ, Diệt-đế-tụ và Đạo-đế-tụ. Phát-tụ
giải thích ý nghĩa Tam-bảo và mục đích tạo luận. Khổ-đế-tụ nói về sự khổ
nung nấu của ngũ ấm. Tập-đế-tụ bàn vấn đề nghiệp và phiền não. Diệt-đế-tụ
giải thích vấn đề Niết-bàn. Còn Đạo-đế-tụ thuyết minh về Định và Trí. Điểm
đặc sắc trong luận, là nơi phẩm Diệt-Pháp-Tâm có đề cập đến thuyết
Nhân-pháp-câu-không, giống như giáo nghĩa của Đại-thừa, còn các phẩm khác
đều bàn về Tiểu-thừa-pháp. Ngoài ra, ngài Ha-Lê-Bạt-Ma còn kế thừa thuyết
“Hiện tại thật hữu, quá vị vô thể” của Kinh-Lượng-bộ.
Đại khái, Kinh-Lượng-bộ được phát triển rực rỡ nhất, nhờ khoảng thời gian
bộ Thành-Thật-Luận ra đời.
Tiết IV: Sự Phát Triển Của Đồng Diệp Bộ
Đồng-Diệp-bộ cũng gọi là Nam-phương Thượng-Tọa-bộ. Sở dĩ có danh từ
Nam-phương Thượng-Tọa-bộ là để phân biệt với Thượng-Tọa-bộ tại miền
Bắc-Ấn. Đồng-Diệp-quốc hay Sư-Tử-quốc đều là biệt danh của người Trung-Hoa
gọi đảo Tích-Lan; Nam-phương Thượng-Tọa-bộ thịnh hành trước tiên ở đảo
nầy, nên gọi là Đồng-Diệp-bộ. Về sau Phật-giáo các nước: Miến-Điện,
Thái-Lan, Ai-Lao, Cao-Miên, từ hình thức cho đến giáo nghĩa đều giống như
Nam-phương Thượng-Tọa-bộ của Tích-Lan. Vậy nay chỉ nói về Thượng-Tọa-bộ đã
phát triển nơi xứ nầy, còn Phật-giáo ở các nước kia, vì đồng một hệ thống
có thể suy ra để hiểu, vả lại phạm vi cũng quá rộng, nên xin ngừng lại cho
phần lịch sử.
Về Phật-giáo Tích-Lan, nơi mục “Kinh Phật tiếng Ba-ly” trong chương thứ
bảy của bản thiên đã có nói lược qua, nên nay chỉ đề cập những điểm cần
yếu.
Đạo lý của Phật-giáo Tích-Lan, lúc đầu thuộc về hệ thống Thượng-Tọa-bộ.
Giáo đoàn trước tiên là Đại-Tịnh-Xá-Tự-Phái, gọi tắt là Đại-Tự-Phái
(Mahàvihàra). Phái nầy được thành lập từ đời vua Thiên-Ái-Đế-Tu thứ bảy,
thuộc Thượng-Tọa-bộ (Theriyanikàya). Đến thời kỳ Vô-Úy-Vương tức vị, lại
xuất sanh phái Vô-Úy-Sơn-Tự (Abhyagiri) thuộc về Pháp-Hỷ-bộ (Dhammaruci
nikàya). Sang triều vua Cù-Đàm-Bà-Gia (Gotabhaya) lại phát xuất thêm một
phái mới nữa, gọi là Kỳ-Đà-Lâm-Tự (Tetavana). Như vậy, từ thế kỷ thứ ba
trước kỷ nguyên đến đầu thế kỷ thứ hai sau Tây-lịch, Phật-giáo Tích-Lan có
tất cả ba phái khác nhau.
Đến đầu thế kỷ thứ mười một, xứ Tích-Lan bị dân tộc Tamil ở Nam-Ấn-Độ tràn
tới đánh phá đô thành, thiêu hủy chùa tháp, tàn sát chư Tăng, nên
Phật-giáo ở nơi đây bị suy vi trong một thời gian. Sau đó vài mươi năm, có
vua Tỳ-Dà-Gia-Bà-Hầu (Vijaya bhàhu) nổi lên đánh đuổi quân thù, khôi phục
lại bờ cõi, sai sứ sang Miến-Điện nghinh thỉnh Tam-tạng Kinh-điển đem về.
Phật-giáo ở bản xứ nhờ đó mới trở lại hưng thịnh.
Cuối thế kỷ thứ mười hai, vua Ba-Ra-Ca-Ma-Bà-Hầu (Parakhama bhàhu), một vị
anh quân của Tích-Lan, lên ngôi thống trị. Vua là người hết sức lưu tâm
đến việc chấn hưng và thống nhất Phật-giáo. Từ trước ở bản xứ, ba phái
Phật-giáo vẫn đối lập nhau, nhưng sau khi lên ngôi, vua dung hòa và thống
nhất ba phái thành một, lấy tông nghĩa của Đại-Tự-Phái thuộc Thượng-Tọa-bộ
làm giáo học chính thống.
Từ thế kỷ thứ mười sáu trở đi, nước Tích-Lan tuy bị người Bồ-Đào-Nha và
Hòa-Lan dùng đủ mọi cách đem tư tưởng Thiên-Chúa-giáo truyền vào, nhưng
dân chúng phần đông vẫn là tín đồ của Phật-giáo. Đến tháng hai năm 1948,
xứ Tích-Lan thoát khỏi vòng cai trị của người Anh và tuyên ngôn độc lập.
Sang tháng 5 năm 1950, hội nghị Phật-giáo-thế-giới gồm đại biểu của 29
nước được chiêu tập tại nơi đây. Hội nghị nầy đã quyết định từ nay về sau,
Phật-giáo của các nước thuộc hệ thống Tiểu-thừa đều gọi là Theravada
(Thượng-Tọa-bộ Phật-giáo). Và từ đó, giữa Tiểu-thừa và Đại-thừa Phật-giáo
đã có sự thông cảm.
Tóm lại, sự tiến triển của Nam-phương Thượng-Tọa-bộ ở Tích-Lan nói riêng,
cũng như các nước: Miến-Điện, Thái-Lan, Ai-Lao, Cao-Miên nói chung, đều
đồng những điểm đặc sắc then chốt là:
- Chỉ tôn thờ Phật Thích-Ca là đấng Bổn-Sư duy nhất.
- Đều thông dụng thứ Kinh-điển chép bằng tiếng Ba-ly.
- Chỉ có chư Tăng, không có Ni chúng.
- Chư Tăng đều vấn y vàng, ôm bát.
- Phái xuất-gia cố gắng giữ giới, tham Thiền, phái tại-gia ưa thích sự
cúng dường, bố thí.
---o0o---
Mục
Lục
Thiên thứ nhất | 1
| 2
| 3
| 4
| 5
| 6
| 7
| 8
| 9
| 10
| 11 | 12
Thiên thứ hai
| 1
| 2
| 3
| 4
| 5
| 6
| 7
| 8
Thiên thứ ba
| 1
| 2
| 3
| 4
| 5
| 6
| 7
| 8
---o0o---
Source:
Di Đà Nguyện Hải
Vi tính:
Huệ Toàn, Huệ Trang, Từ Hỷ và Tuệ Cường
Trình bày : Nhị Tường
Cập nhật ngày 01-04-2003
|
|