|
. |
Phật Học Tinh Yếu
Hòa Thượng Thích Thiền Tâm
Trọn bộ 3
thiên
---o0o---
Khái Yếu Về Ngũ
Giới
Tiết mục:
I. Những điểm thiết yếu về Ngũ-giới
II. Nghi thọ năm giới và tánh tướng
II. Lược thuyết về việc đắc giới
IV. Tướng phá giới
Kinh sách trích dẫn: Kinh Ưu-Bà-Tắc-Giới,
Thập-Tụng-Yết-Ma-Tỷ-Khưu-Yếu-Dụng, Kinh Ðại-Phương-Tiện-Phật-Báo-Ân,
Tát-Bà-Ða-Tỳ-Ni-Tỳ-Bà-Sa.
Ðề yếu: Ðạo Nho có Tam-cang Ngũ-thường, đạo
Phật có Tam-quy Ngũ-giới. Về năm giới, nếu so sánh đôi bên, thì không sát
sanh là nhân, không trộm cướp là nghĩa, không tà dâm là lễ, không nói dối
là tín, không uống rượu là trí. Kẻ nho sĩ nếu cang thường chẳng vẹn thì
không đủ thành nhân; hàng Phật-tử như quy giới chẳng tròn, không những đã
hư phẩm cách, mà kiếp sau còn mất thân người (Ngũ-giới bất toàn, nhơn
thiên lộ tuyệt).
Ðức Phật chế ra giới vốn y cứ trên tâm từ bi, trí huệ, bình đẳng, mục đích
đem lại an vui trật tự cho cá nhân, gia đình, xã hội, và làm lợi ích cho
tất cả chúng sanh. Ngài chỉ đưa ra lẽ phải cùng sự lợi hại, để mỗi người
tự chọn lựa lấy, chứ không bắt buộc ai phải triệt để tuân theo. Chỗ đặc
điểm của Phật-giáo, chính ở nơi Đức Phật không phải là một đấng uy quyền
độc tôn, tự ý giữ phần thưởng phạt. Bởi theo đạo Phật, một hành động, lời
nói hoặc ý nghĩ tốt hay xấu, tự nó đã mang theo ảnh hưởng vui khổ, hay
phần thưởng phạt rồi. Vậy Ðức Thích-Ca chỉ là một vị hướng dẫn sáng suốt,
còn kết quả vui khổ chính ở nơi người biết chọn đường.
Năm giới sau đây tuy dường đơn sơ, nhưng nó lại là căn bản của các giới.
Nếu giữ tròn Ngũ-giới, hành giả sẽ duy trì được thiện căn, không mất thân
trời, người và đã có nền tảng để bước lên các nấc thang cao như Thập-giới,
Cụ-túc giới, Bồ-Tát giới, cho đến quả Vô-thượng-bồ-đề.
Bốn tiết trong bản chương, hai tiết đầu lược thuyết về sự lợi hại cùng
nghi thức thuộc Ngũ-giới, có lẽ phần đông Phật-tử đã khái niệm được. Ðến
như hai tiết kế nói về sự đắc giới, phá giới, thì người học Phật cần nên
lưu tâm, vì đây là phần thực hành, thuộc về điểm tối quan trọng.
Tiết I: Những Ðiểm Thiết Yếu Về Ngũ Giới
Khi còn là chúng-sanh, ai cũng có sự mê mờ lầm lỗi. Ðể cho hàng Phật-tử
tránh sự mê lầm ấy, Ðức Thế-Tôn tùy mỗi trình độ mà chế ra các giới.
“Giới” là những điều răn cấm, mục đích ngăn ác hạnh, đưa chúng-sanh đến
chỗ an lành. Giới luật của hàng Phật-tử tại-gia có Ngũ-giới,
Bát-quan-trai-giới, Bồ-Tát-giới. Bát-quan-trai-giới và Bồ-Tát-giới, nếu
thọ được thì phẩm lành tăng tiến, phước huệ lớn thêm, không thọ cũng chẳng
đến nỗi mất nhân thân. Riêng về Ngũ-giới, sau khi quy-y Tam-bảo, mỗi người
Phật-tử tại-gia đều phải thọ; nếu chẳng vâng giữ thì nhân phẩm không toàn
vẹn, kiếp sau phải mất thân người.
Ngũ-giới là năm điều răn cấm gồm có: không giết hại, không trộm cướp,
không tà dâm, không nói vọng và không uống rượu.
1. Không giết hại: - Trong điều răn cấm thứ nhất, Đức Phật khuyên
chúng ta không được giết hại sanh mạng, từ loài người cho đến loài vật.
Phật-giáo cấm sát sanh bởi những lý do:
A- Tôn trọng Phật tánh bình đẳng: - Ðức Thế-Tôn đã bảo: Tất cả
chúng-sanh đều có Phật tánh, đều có khả năng thành Phật. Chân tánh đã bình
đẳng thì chúng ta không nên cho rằng Phật tánh ở người có giá trị hơn ở
vật, ở màu da này, giai cấp này, có giá trị hơn màu da kia, giai cấp kia.
Cho nên giết hại một sanh mạng là giết hại một Đức Phật ở tương lai.
B- Tôn trọng sự công bình: - Mọi loài đều biết ham sống sợ chết,
trừ gặp cảnh cùng quẫn hay lý do quan trọng khác, nên mới phải quyên sinh.
Chúng ta đã xem sanh mạng mình là quý, nếu ai mưu hại thì dùng đủ cách để
tự bảo vệ, tại sao lại ỷ khôn mạnh mà giết loài ngu yếu để thỏa lòng căm
tức hoặc cầu miếng thơm ngon? Việc mình không muốn lại đem ra đối xử với
kẻ khác, loài khác, ấy là mất sự công bình. Vậy nên lấy lòng mình suy lòng
người, cho đến loài vật, chớ giết, chớ bảo giết.
C- Nuôi dưỡng lòng từ bi: - Ðã là chúng-sanh có tình thức thì loài
nào cũng biết đau đớn, vui buồn. Một chuyện nhỏ nhặt như khi chúng ta đi
lỡ vấp, tự có cảm giác đau đớn, và trong cảnh tử biệt sanh ly ai cũng
thương buồn! Thế thì tại sao ta lại nhẫn tâm làm cho kẻ khác hoặc vật
khác, trước khi tắt hơi thở phải rên siết trong lệ nóng, quằn quại trong
máu đào, và chịu nỗi thương tiếc đau buồn trong cảnh sanh ly tử biệt? Một
chút đau đớn chính mình còn khó kham chịu, lại gây cho chúng-sanh nỗi
thống khổ vô hạn, tức không có lòng từ bi, không xứng đáng là con của
Phật.
D- Tránh nhân-quả xấu ác: - Khi ta giết một người, tất đã gây mối
oán hờn với gia đình quyến thuộc họ. Trong lúc thế cô sức yếu, thân thích
nạn nhân chỉ đành ôm hận, nhưng họ vẫn rình rập chờ cơ hội báo thù. Loài
vật cũng vậy, nếu có thể báo oán nó không dung tha kẻ giết. Theo kinh
Phật, kẻ giết hại lâu ngày thì nghiệp sát càng nặng, sau khi chết phải đọa
vào Địa-ngục, Ngạ-quỷ, Súc-sanh, chịu vô lượng sự khổ. Ðến khi được thân
người lại bị nhiều bịnh hoặc chết non. Cho nên càng sát hại, càng tăng
thêm nghiệp khổ, mãi xoay vần trong nẻo luân-hồi, không biết ngày nào được
ra khỏi.
Trái lại, nếu người giữ giới không sát hại hoặc phóng sanh, thì sẽ được
những quả báo như sau: sắc lực đầy đủ, ít hay đau bịnh, thân tâm an ổn,
mọi người yêu kính, thọ số lâu dài, thường hưởng phước vui ở cõi trời hoặc
cõi người.
2- Không trộm cướp: - Giới thứ hai, Đức Phật khuyên chúng ta không
nên trộm cướp từ vật trọng như châu báu vàng bạc, đến vật mọn như cọng
rau, trái ớt, mũi kim. Ðại khái những vật gì người ta không cho mà mình cố
lấy, đều thuộc về trộm cướp.
Nếu phân biệt rộng ra, thì trộm cướp có nhiều hình thức như: lén lút mà
lấy, ỷ bè đảng mạnh giựt ngang, cậy quyền thế làm tiền kẻ yếu, nhân lúc
người túng ngặt cho vay nặng lời hoặc cầm mua với giá rẻ mạt, tích trữ đầu
cơ để bán chợ đen, cân non, đong thiếu, trốn thuế, lậu đò, mưu mô lường
gạt để lấy của... Tắt một lời, bất cứ hình thức nào, nếu do lòng gian tham
lấy của tư hay công trong trường hợp bất chính, đều thuộc về trộm cướp.
Vì sao Đức Phật cấm trộm cướp? Bởi đối với tài vật sở hữu ta biết tôn
trọng giữ gìn, mà trở lại cố chiếm đoạt của người, đó là trái lẽ công
bình. Khi ta mất hay vô ý đánh mất một số tiền hoặc vật chi, ta lo buồn ăn
ngủ không yên; tại sao lại đang tâm lấy của người để cho họ phải khóc
than, đau khổ. Ðó chính là thiếu lòng từ bi. Trộm cướp gây cho phạm nhân
bị tù tội, bị khinh chê cha mẹ gia đình cũng buồn rầu xấu hổ. Hơn nữa, nếu
trộm cướp làm cho người lâm cảnh nghèo khổ hoặc thất chí quyên sinh, thì
kẻ gây nhân phải chịu nghiệp báo không nhỏ. Theo kinh Phật, kẻ trộm cướp
sẽ bị những ác quả, nhẹ thì vất vả nghèo hèn, nặng phải làm Súc-sanh để
trả nợ, hoặc bị đọa vào Địa-ngục. Cho nên vì lẽ công bình, vì lòng từ bi,
vì giữ nhân cách, vì tránh ác báo, Ðức Thế-Tôn khuyên răn không nên trộm
cướp.
Nếu giữ giới không trộm cướp, mà lại có lòng xót thương giúp đỡ bố thí,
thì sẽ được mọi người kính yêu, lòng từ bi và các phẩm lành tăng tiến, tài
vật đầy đủ khỏi cảnh nghèo nàn, thường được sanh lên cõi trời cõi người
hưởng phước an vui.
3- Không tà dâm: - Tà dâm chẳng phải là cấm hẳn việc nam nữ, mà chỉ
ngăn không được ngoại tình. Theo giới điều thứ ba nầy, khi vợ chồng cưới
hỏi có đủ lễ gọi là chánh; ngoài ra lén lút lang chạ làm điều phi hạnh gọi
là tà. Nói vi tế hơn, dù vợ chồng chánh thức mà ăn nằm không phải chỗ, gần
gũi không chừng mực, cũng thuộc về tà dâm. Ðức Phật sở dĩ cấm tà dâm, vì
mỗi người ai cũng muốn gia đình mình đầm ấm yên vui, vợ con trinh chánh,
nếu lại đi phá hoại làm nhục nhã cho gia đình kẻ khác, đó là trái lẽ công
bình. Kẻ làm tà hạnh chơi bời lả lơi, tất bị mọi người khinh rẻ chê bai,
đó là mất phẩm cách. Khi trong nhà chồng hoặc vợ có dạ tà tư thì gia đình
ấy không còn hạnh phúc, bởi chồng vợ không tin nhau, con cái bị xấu hổ,
thân thuộc không đoái hoài, sự nghiệp sẽ suy vi. Kẻ đắm mê sắc dục cũng
như người cầm đuốc đi ngược gió, tai họa trở lại chính mình, nếu không hại
nước tan nhà thì cũng hư thân mất mạng. Như chúng ta đã thấy trên báo chí
hằng ngày, những án mạng và kết quả thảm khốc do sắc dục gây ra, nếu tính
lại, không biết bao nhiêu mà kể! Theo trong kinh, những ác quả do tà dục
gây ra, nhẹ thì nhiều kiếp vợ con không trinh chánh, gia đình tan rã, nặng
tất sẽ bị đọa Tam-đồ. Tóm lại, vì trọng lẽ công bình, vì tránh ác báo đời
nầy và đời sau, Đức Phật đã răn dạy không nên tà dâm.
Nếu giữ giới không tà dâm, thì hiện đời gia đình được hòa thuận an vui,
mọi người nể trọng, đời sau sáu căn đoan nghiêm toàn vẹn, vợ con trinh
chánh, được người kính mến, khỏi sự phiền lụy ưu sầu, như kinh Thập-Thiện
đã nói.
4- Không nói vọng: - Tướng trạng về điều giới thứ tư nầy có bốn
cách: nói dối, nói thêu dệt, nói đôi chiều, nói thô ác.
Nói dối là như chuyện không nói có, có nói không; việc quấy nói phải, phải
nói quấy, điều nghe nói không nghe, không nghe nói nghe; hoặc trước mặt
khen dồi, sau lưng chê mạt. Tóm lại, những lời trước sau mâu thuẫn, chân
giả khác nhau, trong ngoài bất nhất, đều thuộc về nói dối cả.
Nói thêu dệt là việc ít xít ra nhiều làm cho người sân hận, trau chuốt lời
nói để chữa lỗi mình, hoặc dùng lời ngọt ngào êm tai để cám dỗ khiến cho
người say mê đắm nhiễm, cũng có khi là nói châm biếm làm cho kẻ nghe phải
khổ tâm. Ðại khái những lời nói thêm bớt không đúng nghĩa chơn thật, cho
đến văn chương bóng bảy phù phiếm, làm cho người mê loạn, tâm ý phóng đãng
theo việc tà, hoặc sanh niệm vơ vẩn thương buồn, đều thuộc về nói thêu
dệt.
Nói đôi chiều là đem chuyện đây học kia, đem chuyện kia học đây, đến chỗ
nầy nghiêng theo bên nầy đi chỗ nọ phụ theo bên nọ, làm cho đôi bên sanh
ra giận hờn thù oán nhau, khiến bạn bè đang thân trở thành nghi ngờ chống
đối.
Nói thô ác là mắng chửi la hét, dùng nhiều lời lẽ nặng nề không thanh bai,
làm cho người nghe phải khổ đau hoặc buồn rầu sợ hãi.
Bốn điều trên đều gọi là nói vọng, tức những lời trái với lẽ chân thật.
Bởi Phật-giáo là đạo như thật, nếu người Phật-tử mãi theo ngọn trào hư
vọng không thiết tìm sự thật thì khó trở lại nguồn chân. Ta đã sống trong
vòng mê vọng mà còn chồng chất thêm sự giả dối nữa, thì làm sao đi đến chỗ
giải thoát? Cho nên muốn học Phật, tất phải tôn trọng sự thật. Lại, động
lực của sự dối trá là lòng tham sân ích kỷ, muốn hại người để thỏa ý niệm
đen tối của mình. Kẻ bị phỉnh gạt phải sanh phiền não, đau khổ, có khi
chuốc oán vương thù, hoặc tán gia bại sản. Người tu hành mà làm như thế
thì lương tri đã mất, đâu còn tình thương? Kẻ dối trá không những làm mất
lòng tin tưởng của mọi người đối với mình, mà lại gây cho bao nhiêu kẻ
khác nỗi hoang mang nghi ngại. Sự an hòa trong xã hội do đó mà bị xáo
trộn. Cho nên lời nói tuy không phải đao kiếm, nhưng còn nguy hiểm hơn, vì
nó có tác dụng của hai mũi nhọn, một mũi đâm vào người khác, và một mũi
trả lại đâm chính người sử dụng. Ðức Như-Lai thường phát ra phạm âm thanh
triệt, tướng lưỡi rộng dài có thể chấm đến mé tóc nơi trán, do vì nhiều
kiếp tu hạnh chân thật, không nói vọng. Theo kinh Phật, nghiệp vọng ngữ
nếu nhẹ thì mang quả báo bị mọi người mất tin tưởng, chán nản lánh xa,
việc làm thất bại; như nói vọng có tánh cách hại nhân hoặc phá hoại
Tam-bảo, kẻ ấy sẽ đọa vào ba đường ác, khi được làm người phải bị câm
ngọng, chịu sự khinh rẻ chê bai. Cho nên, vì tôn trọng sự thật, vì lòng từ
bi, vì bảo tồn sự trung tín đối với mình và trong xã hội, vì tránh quả báo
xấu ác, Đức Phật khuyên dạy không nên nói vọng.
Nếu giữ giới không vọng ngữ, sẽ được mọi người mến trọng tin cậy, thường
ưa gần gũi, việc làm thuận lợi; và bởi lời chân thật phát từ tâm chân
thật, nên các phẩm lành tăng tiến, thường hưởng phước nhơn thiên.
5- Không uống rượu: - Về giới thứ năm, Đức Phật khuyên không nên tự
mình uống rượu, hoặc ép bảo người khác uống.
Sở dĩ, Đức Phật cấm uống rượu, vì rượu càng uống càng đi vào chỗ thâm
nhiễm, các chứng bịnh như đau gan, đau mắt, phong tê, bại liệt, ung độc do
đó mà sanh, không những đã hại thân mình, mà còn di lụy đến con cháu.
Người uống rượu khi say sưa thì cử chỉ lời nói đều thô tháo, bỏ bê công
việc, bị người cười cợt chê bai. Một chén thuốc độc nếu ta uống vào, chỉ
chết một thân hiện tại, chứ uống rượu thì tâm thần hôn muội, trí huệ lần
lần mất, giết chết pháp-thân, bị đọa vào vòng sanh-tử khổ trong vô số
kiếp. Lại uống rượu tuy không phải là phạm sát, đạo, dâm, vọng, nhưng nó
là nguyên nhân sanh ra bốn thứ ấy vô số tội lỗi khác. Theo trong kinh,
uống rượu gây ra mười điều tai hại như sau: của tiền rơi mất, thân hay đau
bịnh, tăng trưởng lòng giết hại, thêm việc sân hận tranh cãi, trí huệ lần
lần kém, phước đức tiêu mòn, sự nghiệp không thành, tuổi thọ giảm bớt,
thân tâm nhiều khổ, khi chết đọa vào Địa-ngục.
Nói đại khái, vì tránh đau bịnh, vì giữ phẩm cách, vì bảo tồn hạt giống
trí huệ, vì ngăn ngừa tội lỗi, Đức Phật răn dạy không nên uống rượu.
Nếu giữ giới không uống rượu, về phương diện cá nhân, sẽ tránh được mười
điều tai hại trên. Về phương diện đoàn thể thì gia đình được yên vui, con
cái ít tật bịnh, xã hội được hòa mục, nòi giống thêm hùng cường.
Trên đây chỉ kể lược qua về điều lợi hại của sự giữ và phạm năm giới. Ðứng
về chiều sâu, tức là phương diện chủng tử mà nói, thì như chư Tổ đã dạy:
nếu sát sanh, sẽ mất hết hạt giống từ bi; nếu trộm cướp, sẽ mất hết hạt
giống phước đức, nếu tà dâm, sẽ mất hết hạt giống thanh tịnh; nếu nói
vọng, sẽ mất hết hạt giống chân thật; nếu uống rượu, sẽ mất hết hạt giống
trí huệ. Ðể nói thêm về mối nguy hại của sự khuyết phạm năm giới, xin trần
thuật một đoạn kinh sau đây cho người học Phật thêm cẩn ý:
“Có năm việc mà trong hiện tại, mọi người không thể làm cho của cải và
sanh mạng được tăng trưởng. Năm điều ấy là: sát sanh, trộm cướp, tà dâm,
nói vọng và uống rượu.
Tất cả chúng-sanh vì ưa giết hại, nên trong hiện đời bị ác sắc, ác lực, ác
danh, chết yểu, tài vật hao giảm, quyến thuộc chia lìa, hiền-thánh quở
trách, người không tin dùng, kẻ khác làm tội mà mình mang họa. Ðó là
nghiệp quả trong đời hiện tại. Lúc bỏ báo-thân lại đọa vào Tam-đồ, bị ác
sắc, ác lực, ác danh, đói khát, chịu nhiều nỗi khổ sở, mạng sống không lâu
dài. Ðây là nghiệp quả ở đời sau. Ðến khi được làm người, lại chịu thân
bần tiện, cùng khổ, xấu xa, suy bịnh, đoản thọ. Do sức nghiệp ác của đương
nhơn, khiến cho ngũ cốc hoa màu bên ngoài bị hao kém, gây ương lụy cho mọi
người.
Nếu kẻ nào ưa trộm cướp, thì hiện đời bị ác sắc, ác lực, ác danh, tiền của
hao giảm, quyến thuộc chia lìa, mạng sống ngắn ngủi, người khác mất đồ
mình bị nghi ngờ, dù muốn kết thân cũng không ai tin cậy, thường bị
hiền-thánh quở trách. Ðó là nghiệp quả trong đời hiện tại. Lúc bỏ báo-thân
lại đọa vào Tam-đồ, bị ác sắc, ác lực, ác danh, đói khát, chịu nhiều nỗi
khổ sở, mạng sống không lâu dài. Ðây là nghiệp quả ở đời sau. Ðến khi sanh
làm người lại nghèo hèn, tuy được tài vật liền bị hao mất, cha mẹ anh em
vợ con đều không thương mến, thân thường khổ nhọc, tâm hằng buồn lo. Do
sức nghiệp ác của đương nhân, khiến cho mọi người khi ăn món chi vào, phần
sắc lực cũng kém, gây ương lụy cho vạn dân.
Nếu kẻ nào ưa tà dâm thì khó giữ gìn thân mình cho đến kẻ khác, mọi người
trông thấy đều sanh lòng nghi kỵ, khi làm việc chi trước hay nói dối, tâm
thường rối loạn chịu sự khổ não, tài vật hao mất khó tu pháp lành, vợ con
khinh buồn không còn thương mến, thân thể suy kém mạng sống ngắn ngủi. Ðó
là quả báo hiện tại của nghiệp tà dâm. Lúc bỏ báo-thân, lại đọa vào
Tam-đồ, bị ác sắc, ắc lực, đói khát, chịu nhiều nỗi khổ sở, mạng sống
không lâu dài. Ðây là nghiệp quả ở đời sau. Ðến khi được làm người thì
hình tướng xấu thô, hay ác khẩu, không ai thích thân thiện, không thể giữ
gìn thê thiếp, con trai, con gái. Do sức ác nghiệp của đương nhơn, khiến
cho mình và người không được tự tại.
Nếu kẻ nào ưa nói vọng, thì hiện đời bị ác sắc, ác khẩu, dù có nói thật
cũng không ai tin, mọi người khinh ghét chẳng muốn thấy gặp. Ðó là nghiệp
quả đời hiện tại. Lúc bỏ báo-thân lại đọa vào Tam-đồ, chịu sự đói khát,
nhiệt não, khổ sở vô cùng. Ðây là nghiệp của đời sau. Ðến khi được làm
người thì tướng miệng và âm thanh không đầy đủ, dù nói thật cũng không ai
tin, kẻ khác cũng không ưa gặp mặt, tuy nói chánh-pháp người không thích
nghe. Do sức ác nghiệp của đương nhơn chiêu cảm, khiến cho sản vật bên
ngoài thường bị hao kém.
Nếu kẻ nào thích uống rượu thì trong hiện tại hay hao mất tài vật, thân
tâm nhiều bịnh, thường ưa đấu tranh, tiếng xấu đồn xa, trí huệ lần kém,
tâm không hổ thẹn, sắc lực hao mòn, không thể tu pháp lành, thường bị
nhiều tiếng chê trách, mọi người không muốn gần gũi. Ðó là nghiệp quả hiện
tại của sự uống rượu. Lúc bỏ báo-thân rồi lại bị đọa vào Tam-đồ, thường
chịu đói khát và vô lượng sự khổ não. Ðây là ác quả đời sau. Ðến khi được
làm người, tâm thường cuồng loạn, không thể nghĩ nhớ pháp lành. Do nghiệp
ác của người nầy chiêu cảm, khiến cho sản vật bên ngoài thường bị hư hao,
thối nát.
Nầy Thiện-nam-tử! Năm ác pháp như trên, nay ngươi có thể chân thật xa lìa
chăng?” (Kinh Ưu-Bà-Tắc-Giới)
Tiết II: Nghi Thọ Năm Giới Và Tánh Tướng
Nghi thức thọ năm giới, về phần khái yếu, như trong luật đã nói:
Con là... từ nay cho đến suốt đời, xin quy-y Phật Lưỡng-túc-tôn, quy-y
Pháp Ly-dục-tôn, quy-y Tăng Chúng-trung-tôn. (Nói ba lần). Con là.... đã
quy-y Phật rồi, quy-y Pháp rồi, quy-y Tăng rồi. Nay con ở trong giáo pháp
của Ðức Thích-Ca-Mâu-Ni Như-Lai, nguyện thọ năm giới làm Ưu-bà-tắc (hay
Ưu-bà-di), xin đại-đức chứng tri. (Nói ba lần. Giới-sư bảo):
Thiện-nam-tử! Ðức Thích-Ca Mâu Ni, Ða-Đà-A-Dà-Độ, A-La-Ha,
Tam-Miệu-Tam-Phật-Ðà, đã vì hàng Ưu-bà-tắc nói ra năm giới. Phàm là kẻ
Ưu-bà-tắc (hay Ưu-bà-di), suốt đời phải giữ gìn năm điều giới nầy:
Ðiều thứ nhất, suốt đời lìa sự sát sanh, là giới của hàng Phật-tử tại-gia,
con có thể giữ được không? (Nên đáp: - Dạ giữ được. Các giới sau cũng
thế).
Ðiều thứ hai, suốt đời lìa sự trộm cướp, là giới của hàng Phật-tử tại-gia,
con có thể giữ được không?
Ðiều thứ ba, suốt đời lìa sự tà dâm, là giới của hàng Phật-tử tại-gia, con
có thể giữ được không?
Ðiều thứ tư, suốt đời lìa sự nói vọng, là giới của hàng Phật-tử tại-gia,
con có thể giữ được không?
Ðiều thứ năm, suốt đời lìa sự uống rượu, như rượu nếp, rượu mía, rượu nho,
tất cả các thứ rượu đều không được uống, là giới của hàng Phật-tử tại-gia,
con có thể giữ được không? (Thập-Tụng-Yết-Ma-Tỷ-Khưu-Yếu-Dụng)
Trong năm giới trên, bốn điều trước thuộc về tánh-giới, một điều uống rượu
sau thuộc về tướng-giới. Nói tánh-giới, vì những giới nầy có liên quan đến
tâm tánh, như người phạm tà dâm tức nhiên trong tâm nặng về ái-dục, người
phạm vọng ngữ tất nơi tâm có sự gian dối. Cho nên về tánh giới thì dù
người có thọ giới hay không, nếu phạm cũng đều bị sa đọa. Còn tướng giới
là giới thuộc về hình thức phát thệ để ngăn ngừa sự phạm lỗi; nếu có thọ
mà phạm thì đắc tội, không thọ thì không đắc tội. Tuy nhiên, đây là nói
người không thọ tửu giới chỉ uống rượu chút ít nên không mang tội phạm
giới; nếu không thọ giới rượu song uống nhiều cũng gây nghiệp và bị sa
đọa.
Sự trì giới còn có trường hợp “khai, giá”, nghĩa là mở và khép. Ví như
người tuy đã thọ giới không vọng ngữ, nhưng vì lòng từ bi muốn cứu mạng
loài vật, hay muốn tránh sự buồn khổ vô ích cho kẻ khác mà phương tiện nói
dối, thì không phạm. Hoặc như đã thọ giới rượu, nhưng vì bệnh tê bại phải
dùng thuốc rượu điều trị mới lành, thì có thể đối trước bàn Phật hay chư
Tăng xin phương tiện dùng rượu để trị bệnh trong một thời gian. Ðây là
nghĩa “khai”, tức là tạm mở ra, hay tạm cho. Như trường hợp không cần phải
dùng phương tiện, hay khi tạm dùng phương tiện để lợi mình lợi người đã
xong rồi, phải chín chắn giữ giới không được trái phạm. Ðây là nghĩa
“giá”, tức là khép, hay ngăn đóng. Cho nên thọ giới không phải là mãi hạn
chế hành giả trong một khuôn khổ, và cách giữ giới của người trí không
phải cứ mãi theo một đường lối cố định. Như theo kinh Vị-Tằng-Hữu, trong
ngày thọ Bát-quan-trai, bà Mạt-Lỵ phu-nhân vì cứu viên ngự trù mà phải
uống rượu, nói dối, bày trò ca nhạc và trang điểm nơi thân. Sau khi viên
ngự trù thoát nạn, phu-nhân đem việc ấy thưa hỏi thì Đức Phật bảo rằng bà
đã không phạm giới mà còn có phước, và lại khen là một hành giả có trí
phương tiện. Vậy người thọ giới nên suy gẫm điều nầy, đừng quá lo sợ.
Ngoài nghĩa khai, giá, còn có nghĩa “trì, phạm”. Như sau khi thọ giới,
trong trường hợp bình thường không cần phương tiện, hành giả chín chắn giữ
giới gọi là “trì”. Nếu đã thọ giới mà không giữ, hoặc trường hợp không
đáng phương tiện mà phương tiện gọi là “phạm”. Người đã thọ giới, phải ý
thức bốn nghĩa khai, giá, trì, phạm trên đây.
Ðể học giả hiểu rộng thêm trong việc thọ giới, xin dẫn một đoạn kinh
thuyết minh về giá-tội và thật-tội (tức là tánh-tội):
“Trong năm giới Ưu-bà-tắc, những gì thuộc về thật-tội và giá-tội?
Bốn giới trước thuộc về thật-tội, một giới rượu sau thuộc về giá-tội. Sở
dĩ uống rượu được cùng bốn điều trên kết thành năm giới, vì nó là nguồn
gốc của sự phóng đãng, hay gây ra việc phá phạm bốn giới kia. Như vào thời
Đức Phật Ca-Diếp, có một vị Ưu-bà-tắc do xem thường giới thứ năm, nên
phóng tâm uống rượu rồi sanh ra thèm thịt, bắt trộm gà của kẻ khác đem
giết. Người phụ nữ hàng xóm qua tìm gà, lại bị ông hãm hiếp. Ðến khi kẻ
khác hỏi, ông chối rằng mình không có làm việc ấy. Kết cuộc vì nhất thời
bị rượu làm loạn tâm, nên ông đã phạm luôn cả bốn giới kia. Có người do
uống rượu mà phạm bốn tội nghịch, chỉ trừ không thể phá Tăng. Vì thế,
người uống rượu tuy không phải túc nghiệp mà mắc quả báo cuồng loạn, bởi
rượu hay gây sự mê hoặc điên đảo, khiến cho chúng-sanh như dại, như ngây.
Lại khi đã bị loạn tâm vì rượu, tất hành giả phải bỏ mất chánh nghiệp như
ngồi thiền, tụng kinh và làm việc chúng. Cho nên uống rượu tuy không phải
là thật-tội, nhưng do các nhân duyên trên, dễ đồng với thật-tội”. (Kinh
Ðại-Phương-Tiện-Phật-Báo-Ân)
Tiết III: Lược Thuyết Về Việc Ðắc Giới
Người thọ Ngũ-giới cần nên biết thế nào là đắc giới. Ðể chứng minh và khái
thuyết về việc nầy, xin dẫn mấy đoạn kinh như sau:
“Khi ấy, ngài Ưu-Ba-Ly thưa:
- Bạch Thế-Tôn! Người thọ giới Ưu-bà-tắc, trong
trường hợp thấy mình khó giữ đủ năm điều, nếu thọ một hoặc hai cho đến bốn
giới, có thể gọi là đắc giới chăng?
Ðức Phật đáp:
- Kẻ ấy không đắc
giới.
- Bạch Thế-Tôn! Nếu
không đắc giới thì tại sao trong kinh có chỗ nói thiểu phần, đa phần, cho
đến mãn phần Ưu-bà-tắc? Vậy ý nghĩa ấy như thế nào?
- Nầy Ưu-Ba-Ly! Sở dĩ
ta nói lời ấy, vì muốn thuyết minh công đức trì giới nhiều hoặc ít, chớ
không phải nói có cách thọ giới như vậy.
Ưu-Ba-Ly lại thưa:
- Bạch Thế-Tôn! Có
thể được thọ năm giới từ một, hai, cho đến mười ngày chăng?
Ðức Phật bảo:
- Không thể được! Như-Lai chế ra các giới đều có
chừng hạn của mỗi thứ. Nếu thọ Ngũ-giới tất phải suốt đời, như thọ
Bát-quan-trai-giới thì chỉ một ngày một đêm. Phép bạch Tứ-yết-ma truyền
giới cũng có thượng, trung, hạ. Ngũ-giới là hạ-phẩm-giới, Thập-giới là
trung-phẩm-giới, Cụ-giới là thượng-phẩm-giới. Riêng về Ngũ-giới cũng có ba
phẩm: Nếu dùng tâm bậc hạ mà thọ thì đắc giới thuộc phẩm hạ; nếu dùng tâm
bậc trung mà thọ thì đắc giới thuộc phẩm trung; nếu dùng tâm bậc thượng mà
thọ thì đắc giới thuộc phẩm thượng. Thập-giới và Cụ-giới cũng đều có ba
phẩm như thế.
Ngũ-giới là nền tảng của các giới, vì trong Bát-giới, Thập-giới, Cụ-Giới,
Bồ-Tát-giới cũng có năm giới căn bản ấy. Nếu có người trước dùng tâm hạ
phẩm đắc Ngũ-giới, rồi sau dùng tâm trung phẩm hay thượng phẩm thọ
Thập-giới hoặc Cụ-giới, thì các giới khác mới thuộc về trung phẩm hay
thượng phẩm, còn năm giới căn bản vẫn thuộc về hạ phẩm. Tại sao thế? Vì
giới Ba-la-đề-mộc-xoa không có đắc hai lần.
Lại nữa, nếu lấy theo thứ lớp mà nói, thì Ngũ-giới thuộc về hạ phẩm,
Thập-giới thuộc về trung phẩm, Cụ-giới thuộc về thượng phẩm. Nhưng nếu cứ
theo tâm mà luận, thì lại khác. Như có người dùng tâm bậc thượng mà đắc
Ngũ-giới, đó thuộc về thượng phẩm giới. Nếu dùng tâm bậc trung mà đắc
Thập-giới, đó thuộc về trung phẩm giới. Nếu dùng tâm bậc hạ mà đắc
Cụ-giới, đó thuộc về hạ phẩm giới. Vì bởi nghĩa nầy, nên giới phẩm tùy tâm
mà có cao thấp, không nhất định đắc Cụ-giới là thuộc về thượng phẩm, hay
đắc Ngũ-giới là thuộc về hạ phẩm”. (Kinh Ðại-Phương-Tiện-Phật-Báo-Ân)
Về Ba-la-đề-mộc-xoa, trong ngũ đạo duy có nhơn đạo đắc giới, còn bốn nẻo
kia rất khó. Tại sao thế? Vì chư thiên nơi cõi trời tâm nhiễm lạc sâu nặng
nên khó đắc giới. Như thuở trước Tôn-giả Mục-Kiền-Liên vì người đệ-tử đau
bịnh, lên cõi trời hỏi cách điều trị nơi ông Kỳ-Bà (ông đã sanh lên thiên
quốc). Khi ngài đến nơi vừa lúc chư thiên đang vào vườn Hoan-Hỷ vui chơi.
Lúc ấy tất cả thiên chúng đi ngang qua thấy Tôn-giả đứng bên lề đường,
nhưng không vị nào đoái hoài đến. Ông Kỳ-Bà đi sau rốt, trông thấy
Tôn-giả, liền đưa một tay lên chào, rồi dong xe đi thẳng. Ngài
Mục-Kiền-Liên tự nghĩ: “Kẻ nầy khi còn ở nhân gian, là đệ-tử tại-gia của
mình; nay vừa được hưởng phước trời, đã vội say đắm quên mất tánh cũ”.
Nghĩ xong, ngài liền dùng thần lực bắt cỗ xe như ý đứng lại. Bất đắc dĩ,
Kỳ-Bà phải xuống xe đảnh lễ nơi chân. Tôn-giả liền nói nhiều nhân duyên để
quở trách. Kỳ-Bà thưa: “Bạch Ðại Ðức! Vì khi còn ở nhân gian tôi là đệ-tử
của ngài, nên mới có được cử chỉ như thế, còn chư thiên khác vị nào cũng
đi suốt qua cả, đâu có ai thưa hỏi đón chào? Ấy do bởi sự vui nơi đây rất
vi diệu, nên thiên chúng đắm nhiễm, tâm không được tự tại. Xin đại-đức thể
tình mà khoan thứ cho”. Tôn-giả hỏi: “Đệ-tử của ta bịnh như thế, phải điều
trị cách nào?” Kỳ-Bà thưa: “Chỉ cấm thực ít hôm là khỏi”.
Có một độ, ngài Mục-Kiền-Liên khuyên Thích-Ðề-Hoàn-Nhân rằng: “Ðức Như-Lai
ra đời là một thắng duyên khó gặp, sao ông chẳng thường gần gũi Phật để
thưa hỏi chánh-pháp?” Ðế-Thích muốn tỏ cho ngài biết sự khó được như ý đó,
liền bảo gọi một vị thiên-tử đến. Vị thiên-tử nầy có một thiên-nữ và một
kỹ nhạc, tuy biết mạng lịnh của Thiên-đế là oai trọng, nhưng vì đắm nhiễm
quá sâu, nên đợi gọi đến lần thứ tư bất đắc dĩ mới tạm dẹp sự vui qua một
bên, gắng gượng đến trình diện. Thiên-đế hỏi lý do đến trễ, ông hổ thẹn
đem sự thật tâu lên. Khi ấy, Ðế-Thích mới thưa: “Bạch đại-đức! Vị thiên-tử
nầy duy có một thiên-nữ, một kỹ nhạc, mà còn khó nỗi cắt bỏ sự vui. Huống
chi tôi là Thiên-vương có nhiều cung điện rực rỡ nguy nga, vô số ngọc-nữ
phi-tần hầu hạ, trăm ngàn thứ kỹ nhạc nhiệm mầu, nhìn bên Ðông quên bên
Tây, nỗi ái lạc buộc ràng, sự cắt lìa còn khó hơn muôn phần! Vì thế, tuy
nhận hiểu Như-Lai khó gặp, chánh-pháp khó nghe, cũng không biết làm sao để
thường gần gũi được!”
Phàm thọ giới phải dùng tâm mạnh mẽ quả quyết tự thệ, mới có thể đắc giới.
Chư thiên sở dĩ khó đắc giới, vì ý niệm say đắm theo thú vui ngũ dục nặng
nhiều, sức thiện tâm lại kém yếu. Hàng Ngạ-quỷ bị khổ vì đói khát, thân
tâm nóng bức; chúng Địa-ngục chịu vô lượng nỗi khổ độc, tâm ý duy nhớ biết
sự khổ đau, nên không do đâu mà đắc giới. Còn chúng Bàng-sanh phần nhiều
vì nghiệp chướng nặng, không hiểu biết chi, chẳng thọ pháp-giới, nên cũng
khó đắc giới. Tuy trong kinh có nhiều chỗ nói rồng cầu trai pháp, nhưng
Long-vương do thiện tâm thọ Bát-quan-trai nên chỉ được công đức lành chớ
khó đắc trai vì bởi còn nhiều nghiệp chướng.
Về nhơn đạo, trong tứ thiên hạ, duy loài người ở ba châu: Diêm-Phù-Đề,
Cù-Da-Ni, và Phất-Bà-Đề, là có thể đắc giới. Lại trong ba châu, riêng
người ở châu Diêm-Phù-Đề dễ đắc giới hơn cả. Về châu Cù-Da-Ni, thuở trước
Ðức Thế-Tôn sai Tôn-giả Tân-Ðầu-Lư qua bên ấy làm Phật-sự, nên nơi đó có
bốn bộ chúng. Châu Phất-Bà-Đề nhờ nhiều vị Tỷ-khưu đắc đạo sang hoằng hóa,
nên ở đó cũng có bốn bộ chúng. Duy người nơi châu Uất-Đan-Việt vì bị phước
báo ngăn che, lại căn trí si mê không thọ thánh pháp, chánh giáo không thể
lưu hành, nên không có nhân duyên đắc giới.
Loài người có bốn hạng: nam, nữ, huỳnh môn và hai căn. Trong bốn hạng nầy,
duy có nam nữ đắc giới, còn huỳnh môn và hai căn không đắc giới. Trong hai
hạng nam, nữ, những kẻ giết cha, giết mẹ, giết A-la-hán, làm thân Phật ra
huyết, phá hòa hợp Tăng, làm hoen ố Tỷ-khưu-ni, tặc trụ, độ người vượt
pháp, đọa căn lành, đều không đắc giới. (Tát-Bà-Ða-Tỳ-Ni-Tỳ-Bà-Sa)
Tiết IV: Tướng Phá Giới
Ðã biết qua việc đắc giới, hàng Phật-tử lại cần nên hiểu thế nào là tướng
phá giới. Như đoạn kinh sau:
... “Ðã truyền giới xong, lại nên bảo: Có sáu trọng pháp mà bậc Ưu-bà-tắc,
Ưu-bà-di cần phải giữ gìn nghiêm nhặt:
Nầy Thiện-nam-tử! Hàng Phật-tử tại-gia đã thọ giới rồi, trên từ thánh-nhơn
dưới cho đến loài trùng kiến, đều không được cố tâm giết. Nếu tự mình giết
hoặc bảo người giết, kẻ ấy liền bị mất giới Ưu-bà-tắc, hãy còn không được
Noãn-pháp, huống chi quả Tu-đà-hoàn cho đến quả A-na-hàm! Phạm lỗi nầy,
tức là hạng Ưu-bà-tắc phá giới, xấu xa, đê tiện, nhơ bẩn, kiết nghiệp. Ðây
là trọng pháp thứ nhất, cần phải giữ!
Hàng Phật-tử tại-gia đã thọ giới rồi, dù gặp nhân duyên mất mạng, cũng
không được trộm cướp trên từ vàng bạc châu báu dưới cho đến một đồng tiền.
Nếu trộm cướp, kẻ ấy liền bị mất giới Ưu-bà-tắc, hãy còn không được
Noãn-pháp, huống chi quả Tu-đà-hoàn cho đến quả A-na-hàm! Phạm lỗi nầy,
tức là hạng Ưu-bà-tắc phá giới, xấu xa, đê tiện, nhơ bẩn, kiết nghiệp. Ðây
là trọng pháp thứ hai, cần phải giữ.
Hàng Phật-tử tại-gia thọ giới rồi, dù gặp nhân duyên mất mạng, cũng không
được nói lời hư dối, như bảo: tôi đã được Bất-tịnh-quán, cho đến quả
A-na-hàm. Nếu gây tội đại vọng ngữ, kẻ ấy liền bị mất giới Ưu-bà-tắc, hãy
còn không được Noãn-pháp, huống chi quả Tu-đà-hoàn cho đến quả A-na-hàm!
Phạm lỗi nầy, tức là hạng Ưu-bà-tắc phá giới, xấu xa, đê tiện, nhơ bẩn,
kiết nghiệp. Ðây là trọng pháp thứ ba, cần phải giữ!
Hàng Phật-tử tại-gia đã thọ giới rồi, dù gặp nhân duyên mất mạng, cũng
không được tà dâm. Nếu tà dâm, kẻ ấy liền bị mất giới Ưu-bà-tắc, hãy còn
không được Noãn-pháp, huống chi quả Tu-đà-hoàn cho đến quả A-na-hàm! Phạm
lỗi nầy, tức là hạng Ưu-bà-tắc phá giới, xấu xa, đê tiện, nhơ bẩn, kiết
nghiệp. Ðây là trọng pháp thứ tư, cần phải giữ!
Hàng Phật-tử tại-gia đã thọ giới rồi, dù gặp nhân duyên mất mạng, cũng
không được rao nói những lỗi lầm của Tỷ-khưu, Tỷ-khưu-ni, Ưu-bà-tắc,
Ưu-bà-di. Nếu rao nói tội lỗi của tứ-chúng, kẻ ấy liền bị mất giới
Ưu-bà-tắc, hãy còn không được Noãn-pháp, huống chi quả Tu-đà-hoàn cho đến
quả A-na-hàm! Phạm lỗi nầy, tức là hạng Ưu-bà-tắc phá giới, xấu xa, đê
tiện, nhơ bẩn, kiết nghiệp. Ðây là trọng pháp thứ năm, cần phải giữ!
Hàng Phật-tử tại-gia đã thọ giới rồi, dù gặp nhân duyên mất mạng, cũng
không được uống rượu hoặc bán rượu. Nếu uống rượu bán rượu, kẻ ấy liền bị
mất giới Ưu-bà-tắc, hãy còn không được Noãn-pháp, huống chi quả Tu-đà-hoàn
cho đến quả A-na-hàm! Phạm lỗi nầy, tức là hạng Ưu-bà-tắc phá giới, xấu
xa, đê tiện, nhơ bẩn, kiết nghiệp. Ðây là trọng pháp thứ sáu, cần phải
giữ!
Nầy Thiện-nam-tử! Nếu người thọ giới Ưu-bà-tắc có thể chí tâm giữ gìn
những điều mình đã lãnh thọ, không hủy phạm, tất sẽ được giới quả như
thế”. (Kinh Ưu-Bà-Tắc-Giới)
Như trên, kinh Ưu-Bà-Tắc-Giới đã thuyết minh rõ ràng về tướng phá giới của
hàng Phật-tử tại-gia. Có vị bảo: “Về giới sát, thì Ngũ-giới, chỉ cuộc hạn
trong loài người, Thập-giới và Cụ-giới đến loài Súc-sanh thông thường,
Bồ-Tát-giới mới đến loài trùng kiến. Nếu giới thứ nhất trong Ngũ-giới mà
hạn chế đến loài trùng kiến, thì hàng Phật-tử tại-gia không thể giữ được”.
Lời ấy không đúng, vì tất cả loài hữu-tình đều có sanh mạng, nếu giết hại,
quyết định sẽ mang ác báo. Như người chưa ăn chay trường được, có thể mua
những vật đã chết hoặc bị làm thịt rồi, không nên tự mình giết hay bảo
người khác giết. Ðến như loài ruồi muỗi trùng kiến, duy trừ trường hợp
biết mà cố sát mới phạm giới, còn ngộ sát thì chỉ cần ăn năn sám hối và từ
sau để ý dè dặt thêm hơn, không thuộc về lỗi hủy phạm.
Có kẻ nói: Hàng quân nhân Phật-tử có thể giữ giới sát chăng? Xin thưa:
Theo nghĩa phương tiện thì có thể được. Như thuở xưa, Nguyên-Khuê thiền-sư
ở Trung-Hoa sau khi đắc đạo, có thần Ðông-Nhạc đến xin thọ Tam-quy
Ngũ-giới. Lúc Ðại-sư truyền giới thứ nhất, Nhạc-thần thưa: “Đệ-tử cầm
quyền cai trị cả một vùng, nếu kẻ thuộc hạ phạm tội nặng mà không gia
hình, thì làm sao duy trì kỷ luật?” Ðại-sư đáp: “Không phải thế đâu! Chỉ
đừng nên lạm sát mà thôi”! Nhạc thần thưa: “Như vậy, đệ-tử có thể giữ
được”. Thế thì cứ theo nghĩa phương tiện, vì thi hành bổn phận, vì sự bất
đắc dĩ không quyết tâm lạm sát, hàng quân nhân Phật-tử có thể giữ được
giới thứ nhất.
Suy rộng ra, như trong kinh Niết-Bàn, khi tiền thân là một vị quốc-vương,
đức Thích-Ca vì bảo vệ chánh-pháp để lợi ích cho chúng-sanh mà giết viên
đại-thần. Và trong một đoạn kinh khác, cũng thuở tiền thân làm một vị
thuyền chủ tên Ðại-Bi, Ðức Thích-Ca lại vì cứu năm trăm mạng thương khách
mà giết mười sáu tướng cướp biển. Cả hai trường hợp đó, Đức Phật đều bảo
rằng nhờ thế mà Ngài được tiêu tội sanh phước, mau đắc quả
A-Nậu-Đa-La-Tam-Miệu-Tam-Bồ-Ðề. Cho nên, đúng theo lẽ thật của trí huệ và
bi tâm lợi tha, có những trường hợp tuy sát sanh nhưng không phải phá giới
mà chính là trì giới, và còn được tiêu nghiệp thêm phước. Nhưng đó là trí
phương tiện và việc làm của Bồ-Tát, ta đừng nên đem tâm thô thiển vội y cứ
theo mà phóng ý sát sanh. Sở dĩ bút giả dẫn việc trên ra, là muốn biểu
dương nghĩa rộng lớn của Phật-pháp, để cho người thọ giới đừng chấp định
theo hình thức hay một phương diện nào của giới pháp, mà sanh tâm băn
khoăn nghi ngại thế thôi.
Như Đức Phật đã nói: khi còn là chúng-sanh thì tất cả đều có lỗi lầm. Hàng
xuất-gia nếu chưa đắc đạo, cũng vẫn còn trong vòng chi phối của phiền não.
Nhất là vào thời mạt-pháp nầy, bậc chân tu rất ít, người khuyết phạm lại
nhiều. Vậy tất cả những người con Phật nên gìn lòng trung thứ, từ bi, xét
lỗi mình, dung lỗi người, tìm phương tiện sửa chữa nâng đỡ cho nhau; đừng
nên rêu rao nói lỗi của tứ-chúng. Bởi làm như thế, là bên trong đã tự gieo
rắc hạt giống xấu ác của ghét khinh thù hận, bên ngoài làm tổn não người,
ngăn trở hảo tâm của kẻ muốn học đạo, tạo nghiệp phá hủy Phật-pháp. Vì
vậy, Đức Phật đã ghép tội rao nói lỗi của tứ-chúng vào một trong sáu trọng
pháp. Thế mà, có những Phật-tử vì thiếu học hiểu suy xét, vì tự ái cao
mạn, hoặc vì bè phái riêng, rêu rao những việc lỗi lầm chưa biết thật hay
hư của chư tăng ni cùng người đồng đạo; như vậy có xứng đáng là con của
đấng Ðiều-Ngự chăng? Xin đem lòng trung thực nêu ra đây lời nhắc nhở chung
cho tất cả người học Phật, để đồng nhơn tránh những khổ báo ở hiện tại và
tương lai.
---o0o---
Mục
Lục
Thiên thứ nhất | 1
| 2
| 3
| 4
| 5
| 6
| 7
| 8
| 9
| 10
| 11 | 12
Thiên thứ hai
| 1
| 2
| 3
| 4
| 5
| 6
| 7
| 8
Thiên thứ ba
| 1
| 2
| 3
| 4
| 5
| 6
| 7
| 8
---o0o---
Source:
Di Đà Nguyện Hải
Vi tính:
Huệ Toàn, Huệ Trang, Từ Hỷ và Tuệ Cường
Trình bày : Nhị Tường
Cập nhật ngày 01-04-2003
|
|