---o0o---
- Chương
VII
- Ðịnh:
Sáu tùy niệm
-ooOoo-
1. Mười tùy niệm được
liệt kê theo sau mười bất tịnh quán (Ch. III, 105)
Niệm
(Sati) là tưởng niệm hay tùy niệm (anussati)
vì nó khởi lên luôn luôn; hoặc niệm thích hợp (anurùpa)
cho một thiện gia nam tử xuất gia vì lòng tìn, niệm có mặt
trong những trường hợp cần thiết gọi là tùy niệm.
Tùy niệm khởi lên có
cảm hứng từ Pháp gọi là niệm Pháp. Ðây là danh từ chỉ
niệm mà đối tượng là những đức tính đặc biệt của
Pháp được khéo giảng.
Tùy niệm khởi lên có
cảm hứng từ Tăng gọi là niệm Tăng. Ðây chỉ là danh tử
có đối tượng là những đức đặc biệt của Tăng chúng,
nghĩa là những tính như đi vào con đường chánh....
Tùy niệm khởi lên có
cảm hứng từ giới gọi là niệm giới. Ðây là danh từ chỉ
niệm có đối tượng là những đặc tính đặc biệt của
giới không bị rách...
Tùy niệm khởi lên có
cảm hứng từ bố thí gọi là niệm thí. Ðây là danh từ
chỉ niệm có đối tượng là những đức đặc biệt của
sự bố thí như rộng rãi...
Tùy niệm khởi lên có
cảm hứng từ chư thiên gọi là niệm thiên. Ðây là danh tử
chỉ niệm có đối tượng là những đức tính đặc biệt
của niềm tin, có chư thiên làm chứng.
Tùy niệm khởi lên có
cảm hứng từ cái chết gọi là niệm tử. Ðây là danh từ
chỉ niệm có đối tượng là sự chấm dứt mạng căn.
Thân hành niệm (kàya-
gata- sati): niệm ấy đi đến (gata) cái thân vật
chất (kàya) được phân tích thành tóc, v.v... Hoặc niệm
đi vào trong thân, nên gọi là thân hành niệm. Ðây là danh
từ chỉ niệm có đối tượng là tướng của những thân
phần gồm có tóc lông móng răng da v.v... (36 uế vật)
Tùy niệm có cảm hứng
hơi thở vào (ànàpàna) gọi là niệm hơi thở. Ðây
là danh từ có đối tượng là tướng thở ra hơi thở vào.
Tùy niệm có cảm hứng
từ sự bình an gọi là niệm diệt. Ðây là danh từ chi niệm,
có đối tượng là sự lắng dịu mọi đau khổ.
Niệm Phật
2. Một thiền giả có
niềm tin tuyệt đối, trước hết muốn tu tập tùy niệm về
đấng Giác Ngộ, thì nên độc cư tại một trú xứ thích hợp
và tưởng niệm đức tính đặc biệt của đấng Giác Ngộ,
như sau:
"Ðức Thế Tôn là
bậc A-la-hán Chánh Ðẳng Giác, đầy đủ minh và hạnh, đấng
thiện thệ, đấng hiểu rõ thế gian, bậc vô thượng đạo
sư điều phục những người đáng điều phục, bậc thầy
của chư thiên và loài người, Phật, Thế Tôn" (M. i
3; A. iii 285)
3. Ðây là cách niệm:
"Ðức Thế Tôn là như vậy vì Ngài là A-la-hán, Ngài như
vậy vì Ngài hoàn toàn giác ngộ.... Ngài như vậy vì Ngài
là Thế Tôn".
A-la-hán
4. Trước tiên hành giả
niệm "Ðức Thế Tôn là bậc A-la-hán (arahanta) hay
hoàn tất, vì những lý do như sau: (1) vì sự xa xôi (àraka),
(2) vì những kẻ thù (ari) và (3) những căm xe (ara)
đã được phá huỷ (hata), (4) vì Ngài xứng đáng (araha)
được tứ sự cúng dường, v.v... Và (5) vì không có những
ác hạnh thầm kín (rahàbhàva).
5. (1) Ngài hoàn toàn xa
xôi, tách rời hẳn mọi cấu uế vì Ngài đã triệt hết những
dấu vết của nhiễm ô nhờ chánh đạo do sự xa vời đó (àraka)
Ngài được gọi là viên mãn (arahanta).
Chúng ta gọi một người
là "xa xôi" với cái gì người ấy hoàn toàn không
có; bậc cứu thế cũng vậy không tỳ vết, nên đáng được
gọi là đấng viên mãn (arahanta).
6. Và những kẻ thù (ari)
tức là những ô nhiễm, đều được huỷ diệt (hata)
bởi đạo lộ, nên Ngài đã được gọi là người đã
hoàn tất, xong việc (arahants).
7. (3) Bánh xe luân hồi
với trục làm bằng vô minh và khát ái đối với các cõi hữu,
với căm xe gồm các hành, và vành xe là già chết được nối
liền với chiếc xe ba cõi bằng cái càng xe làm bàng nguồn
gốc các lậu hoặc (xem M. i, 55), đã được quay từ
thời gian vô thuỷ. Tất cả những căm xe (ara) này đã
bị Ngài huỷ hoại (hata) ở Bồ đề tràng, trong khi
Ngài đừng vững với hai chân tinh tấn, trên đất giới, bằng
tay tín Ngài sử dụng cái rìu tri kiến phá huỷ nghiệp - bởi
vì những căm xe đã bị phá huỷ như vậy, nên Ngài được
gọi arahanta, bậc A-la-hán.
8. Một cách giải
thích khác: chính là cái vòng vô thuỷ luân hồi đó được
gọi là "Bánh xe luân hồi". Vô minh là trung tâm điểm
của nó vì là căn để của sinh tử. Già chết là vành xe bởi
vì nó là tận cùng của vô mình. Mười chi phần còn lại
(trong mười hai nhân duyên) là căm xe, vì căn để của chúng
là vô minh và tận cùng của nó là già chết.
9. Ở đây, vô minh là
không biết về khổ, và vô minh, trong dục giới, là một
điều kiện (duyên) cho các hành ở cõi dục, vô minh trong sắc
giới là một điều kiện cho các hành ở sắc giới. Vô
minh trong vô sắc giới là một điều kiện cho hành ở vô sắc
giới.
10. Hành ở dục giới
là điều kiện cho thức ở dục giới. Tương tự với sắc
và vô sắc giới.
11. Kết sanh thức ở dục
giới là điều kiện cho danh sắc ở dục giới. Tương tự
đối với Sắc giới. Ở vô sắc giới, thức là điều kiện
cho danh (không có sắc) mà thôi.
12. Danh sắc trong dục
giới là điều kiện cho lục xứ (lục nhập) ở dục giới.
Danh sắc ở sắc giới là điều kiện cho ba xứ ở sắc giới.
13. Lục xứ ở dục giới
là điều ki?n cho sáu xúc ở cõi dục. Ba xứ ở sắc giới
là điều kiện cho ba xúc ở sắc giới. Ý căn (ý xứ) độc
nhất ở vô sắc giới là điều kiện cho một loại xúc ở
vô sắc giới.
14. Sáu xúc ở dục giới
là điều kiện cho sáu loại cảm giác ở dục giới (sáu thọ).
Ba xúc ở sắc gi?i là duyên (điều kiện) cho ba thọ (cảm
giác) ở đây. Một xúc ở vô sắc giới là duyên cho một
thọ ở đấy.
15. Sáu cõi ở dục giới
là duyên cho sáu ái ở cõi dục. Ba thọ ở sắc giới là
duyên cho ba cái ở sắc giới. Một thọ ở vô sắc giới
là duyên cho một ái ở vô sắc giới.
Khát ái trong các cõi
là duyên cho thủ ở đấy. Thủ, v.v... lần lượt làm duyên
cho hữu (sự trở thành)
16. Hữu tạo điều kiên
cho sanh, sanh tạo điều kiện cho già chết, Ví dụ, một người
nghĩ: "Ta sẽ hưởng thụ các dục lạc", và với sự
bám víu (thủ) vào các dục kể như điều kiện, vị ấy tà
hạnh về thân, lời và ý. Do hoàn thành tà hạnh, vị ấy
tái sinh trong một đoạ xứ. Cái nghiệp làm nhân cho sự
tái sinh của vị ấy ở đấy là nghiệp - hữu (kamma-bhavakamma
- process becoming), các uẩn phát sinh là sanh hữu (uppati-bhava
- rebirth, process becoming), sự sinh ra các uẩn gọi là
sanh, sự chín mùi của các uẩn gọi là giả, sự tan rã của
uẩn là chết.
17. Một người khác
nghĩ: "Ta sẽ hưởng thụ những lạc thú cõi trời"
và song song với ý nghĩ, nó làm các thiện hạnh. Do hoàn tất
các thiện hạnh vị ấy tái sanh ở cõi trời dục giới.
Cái nghiệp làm nhâân cho sự tái sinh của nó tại đấy gọi
là nghiệp hữu,... Như trên.
18. Một người nữa lại
nghĩ: "Ta sẽ hưởng thụ những lạc thú của trời Phạm
Thiên", và với dục thủ làm duyên (điều kiện), vị
ấy tu tập từ, bi, hỉ, xả, do hoàn tất tu thiền định, vị
ấy tái sinh ở Phạm thiên giới. Cái nghiệp làm nhân cho sự
tái sinh của vị ấy ở đây là nghiệp hữu, v.v...
19. Nhưng một người
khác lại nghĩ: "Ta sẽ hưởng thọ lạc thú cõi vô sắc"
và do vậy tu tập những thiền chứng khởi đầu bằng không
vô biên xứ. Do sự hoàn tất tu tập, vị ấy tái sanh tại
một trong những cảnh giới ấy. Nghiệp làm nhân cho sự
tái sinh của vị ấy tại đây là nghiệp hữu, các uẩn
sinh ra do nghiệp ấy là sanh hữu, sự sanh ra các uẩn là
sanh, sự chín mùi của uẩn là già, sự tan rã của uẩn là
chết. (xem M. ii, 263)
Các loại chấp thủ
còn lại cũng như trên.
20. Vậy, trí phân biệt
các duyên như sau: "Trong hiện tại Vô minh là nhân, hành
khởi lên do nhân vô minh và cả hai pháp này đều khởi lên
có nhân. Trong quá khứ và vị lại cũng vậy". Ðó gọi
là trí biết tương quan nhân quả của các pháp. Mọi mệnh
đề khác (trong 12 nhân duyên) cần được hiểu chi tiết
như trên,
21. Vô minh và hành làm
một nhóm; thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ một nhóm.
Nhóm thứ nhất là quá khứ, hai nhóm giữa là hiện tại;
sanh và già chết là vị lai. Khi vô mình và hành được nói
đến, thì ái thủ hữu cũng bao gồm trong đó, bởi thế năm
pháp này là cái vòng nghiệp trong quá khứ. Năm pháp từ thức
đến thọ là vòng nghiệp quả hay dị thục (Vipàka -
Kamma - result) trong hiện tại. Và vì năm pháp từ thức
đến thọ được mô tả dưới đề mục già chết, cho nên
năm pháp này cũng là nghiệp quả trong tương lai. Như vậy
chúng thành hai mươi. Ở đây có một dây nối giữa hành
và thức, một giữa thọ và ái, và một giữa hữu và sanh
(xem Ch. XVII, đ 288)
22. Ðức Thế Tôn biết,
thấy, hiểu và thâm nhập tất cả các khía cạnh của lý
duyên sinh này với bốn nhóm ba thời hai mươi khía cạnh và
ba dây nối.
Như vậy, khi đức Thế
Tôn, bằng cách biết đúng như thật những pháp này với
trí biết tương quan của các pháp, thì Ngài trở nên vô dục
đối với chúng. Khi tham dục nơi Ngài tàn tạ, khi Ngài được
giải thoát, khi ấy ngài phá huỷ, hoàn toàn phá huỷ, vứt
bỏ những cái căm của bánh xe sinh tử nói trên.
Vì những căm xe đã bị
phá huỷ, nên Ngài là một bậc đã hoàn tất công việc, gọi
là arahanta, A-la-hán.
Các căm xe sinh tử,
Bị phá bằng gươm tuệ
Do vậy đấng cứu thế
Ðược gọi A-la-hán
23. (4) Và Ngài xứng đáng
(arahati) với những đồ cúng dường gồm y phục,
v.v... Và với sự tôn trọng, vì chính Ngài là Ðấng đáng
dâng cúng nhất. Vì khi một đấng toàn thiện ra đời, thì
chư thiên và loài người không cung kính ai khác; Phạm thiên
sahampati cúng dường Ngài một chuỗi ngọc lớn như núi
Tu-di, và chư Thiên khác cũng cúng dường theo phương tiện của
họ, cũng như những người như vua Bimbisàra xứ Magadha
và vua xứ Kosala. Và sau khi đức Thế Tôn bát Niết
bàn, vua Asoka bỏ tài sản ra đến số chín mươi sáu
triệu để dựng tám vạn bốn ngàn ngôi tháp khắp xứ Ấn.
Bởi thế, với tất cả những ví dụ này, cần gì nói đến
những sự cúng dường của những người khác? - Vì xứng
đáng với vật cúng, nên Ngài được gọi là A-la-hán.
Ngài là đấng cứu
thế
Ðáng cung kính cúng dường
Cho nên bậc chiến thắng
Ðược gọi là A-la-hán
24. (5) Và Ngài lại
không hành động như những kẻ ngu ở đời đời tự khoe
thông minh nhưng lại làm ác, mà còn thầm sợ mang tiếng xấu.
Vì Ngài không có ác hành bí mật (rahàva) nên gọi là
A-la-hán.
Bậc trí nhân cao cả
Không ác hành bí mật
Nên xứng với danh xưng
Là bậc A-la-hán
25. Tóm lại, về mọi
phương diện,
Bậc thánh xa uế nhiễm
Chiến thắng giặc não phiền
Các căm xe phá huỷ
Xứng đáng được cúng dường
Không ác hành bí mật
Vì năm lý do này
Ngài có thể tuyên bố
Thành bậc A-la-hán
Chánh Ðẳng Giác
26. Ngài là Bậc Chánh
đẳng giác (Sammà sambhuda) vì Ngài đã biết (Buddha)
mọi sự vật một cách chân chánh (Sammà) và do tự
Ngài (Sàmam). Quả vậy, mọi pháp đều được Ngài tự
mình khám phá một cách chân chính, nghĩa là Ngài thắng tri
các pháp cần phải thắng trí, tức bốn chân lý; liễu tri
các pháp cần liễu tri, tức khổ đế, đoạn tận các pháp
cần đoạn tận, tức tập đế, nguyên nhân khổ, chứng đắc
các Pháp cần chứng đắc, tức diệt đế, tu tập các pháp
cần tu tập, tức đạo đế.
Cái gì cần được
thắng tri đã
Ðược thắng trí
Cái gì cần được tu tập đã
Ðược tu tập
Cái gì cần được từ bỏ đã được từ bỏ
Cho nên, này Bà-la-môn,
Ta là Bậc giác ngộ, (Sn. 558)
27. Ngoài ra, Ngài đã tự
mình tìm ra các pháp một cách chính xác theo từng bước nột
như sau: Con mắt là chân lý về Khổ, khát ái đi trước phát
sanh ra nó, là chân lý về tập khởi của khổ, sự không
sinh khởi cả hai pháp ấy là là chân lý về Diệt khổ; con
dường hay sự hiểu rõ Diệt là chân lý về đạo diệt khổ.
Ðối với thân khẩu ý cũng thế.
28. Và các pháp sau đâ
cũng gần được giải thích tương tự như trên.
Sáu ngoại xứ khởi
đầu
Bằng sắc do mắt nhận biết,
Sáu nhóm thức
Khởi đầu nhận thức
Sáu loại xúc
Khởi đầu là nhãn xúc,
Sáu loại thọ khởi đầu
Là thọ do nhãn xúc sanh,
Sáu loại tưởng về sắc,
Sáu loại tư (volition: ý hành)
Khởi đầu là tư duy về sắc
Sáu loại khát ái khởi đầu là
Khát ái đối với sắc pháp
Sáu loại tầm khởi đầu
Là tầm về sắc pháp
Sáu loại tứ khởi đầu
Là tứ về sắc pháp,
Năm uẩn khởi đầu là sắc uẩn,
Mười biến xứ (kasinas)
Mười niệm,
Ba mươi hai khía cạnh của
Thân thể khởi đầu là tóc
Mười hai xứ,
Mười tám giới,
Chín loại hữu
Khởi đầu là dục hữu,
Bồn thiền khởi đầu là sơ thiền,
Bốn vô lượng khởi đầu
Là tu tập từ tâm,
Bốn vô sắc,
Những chi phần của 12
nhân duyên ngược chiều từ già chết, và thuận chiều khởi
từ vô minh. (Ch. XX. 9)
29. Ðây là cách xây dựng
một mệnh đề duy nhất trong mười hai nhân duyên, để ví
dụ: Già chết là chân lý về khổ, sanh là chân lý về Tập,
giải thoát cả hai là chân lý về Diệt khổ, con đường
hay sự hiểu rõ khổ diệt, là chân lý về đạo diệt khổ.
Bằng cách ấy Ngài đã
tìm ra tuần, tự khám phá, triệt để khám phá vạn pháp một
cách chính xác do tự mình, từng bước một.
Minh Hạnh Túc
30. Ngài có đủ minh trí
và giới hạnh: Vijjàcaranasampanno ca sampanno. Ở đây, về
minh: có ba loại minh và tám loại minh. Ba loại là như được
nói trong kinh Bhayabhorava sutta (M. i, 22) và tám loại như
được nói trong Ambattha sutta (D. i, 100), gồm sáu
thắng trí với tuệ giác và thần thông của thân ý sanh.
31. Hạnh: Cần được
hiểu là mười lăm điều, nghĩa là: phòng hộ bằng giới,
gìn giữ các căn môn, biết vừa đủ trong ăn uống, chánh
niệm tỉnh giác, bảy thiện pháp (tín, tàm, quí, đa văn, tấn,
niệm, tuệ) và bốn thiền thuộc sắc giới. Nhờ mười
lăm pháp này mà một vị thánh đệ tử đi đến bất tử.
Do đó, gọi là (giới) hạnh, như kinh nói: "ở đây này
Mahànàma, một vị thánh đệ tử có giới" (M
i, 355) v.v... Toàn bộ của giới hạnh này cần được hiểu
như đã nói trong Trung Bộ kinh II.
32. Ở đây, minh trí của
đức Thế Tôn là sự viên mãn. Biến tri (Ps. i, 131),
còn giới hạnh của Ngài là sự viên mãn tâm Ðại bi (Ps.
i, 126). Nhờ biến tri, Ngài biết được cái gì là tốt
cái gì là có hại cho các hữu tình, nhờ đai bi Ngài báo
cho chúng biết để tránh điều hại, và khích lệ chúng
làm điều lành. Ðấy là cách Ngài đầy đủ minh và hạnh,
làm cho những đệ tử Ngài đi vào chánh đạo thay vì theo
tà đạo như những đệ tử hành thân hoại thể của những
ông thầy không có minh trí và giới hạnh đã làm.
Thiện Thệ
33. Ngài được gọi là
đấng thiện thệ (Sugatà) (i) vì cách đi tốt đẹp (soobbana-
gamana), (ii) vì đã đi đến một nơi tốt đẹp (sundaram
thànam gatatt), (iii) vì đã đi một cách đúng pháp (Sammăàgatattà),
và (iv) vì tuyên bố đúng (sammà gadattà).
(i) Một cách đi (gamana)
gọi là thệ (đi qua: gata), và cách đi của đấng Thế
Tôn là tốt đẹp, thanh tịnh, không lỗi lầm, Cách đi đó
là gì? là chánh đạo: vì nhờ cách đi đó mà Ngài đã
"đi" không vướng mắc, trong chiều hướng an ổn,
Như vậy, Ngài là Thiện thệ (sugatta) do cách đi tốt
lành.
(ii) Và ngài đã đến
một nơi tốt lành (sunda ra), nghĩa là đến Niết bàn
bất tử. Như thế, Ngài là đấng Thiện thệ vì đã đi một
nơi tốt lành.
34. (iii) Và Ngài đã
đi (gata) một cách đích đáng (samma), đi không
quay trở lại những cấu uế được từ bỏ ở mỗi hặng
đường. Vì điều này đã được nói: "Ngài không trở
lại, quay lại, trở lui về những cấu uế đã được từ
bỏ do Dự lưu đạo, nên Ngài là thiện thệ... Ngài không
trở lại, quay lại, trở lui về những cấu uế đã được
từ bỏ nhờ A-la-hán đạo, như vậy, Ngài là thiện thệ"
(Cựu sớ giải).
Hoặc một cách giải
thích khác: Ngài đã đi một cách đích đáng từ thuở phát
tâm lập nguyện dưới chân đức Phật Nhiên Ðăng (Dipankara)
cho đến khi giác ngộ, bằng cách hành động vì lợi lạc
và hạnh phúc cho toàn thế giới, qua sự viên mãn ba mươi
hai tướng hảo và qua sự đuổi theo con đường chánh không
có chuyển hướng về một cực đoan nào, trong hai cực đoan
là thường kiến và đoạn kiến, không theo hướng đam mê,
dục lạc cũng không theo hướng ép xác khổ hạnh. Như vậy,
Ngài là thiện thệ vì đã đi một cách đích đáng.
35. (iv) Và Ngài công bố
(Gadati) một cách chân chánh (sammà); Ngài đã chỉ
nói lên lời đáng nói tại nơi chỗ thích đáng. Như vậy,
ngài là thiện thệ vì tuyên bố chính đáng.
Ðây là một bản kinh
xác nhận điều này: "Bất cứ lời nào đức Như lai biết
là không thật, không đúng, đưa đến tai hại, làm người
khác buồn khổ không thích ý, Như Lai không nói lời ấy. Bất
cứ lời nào Như Lai biết là thật và đúng, nhưng đưa đến
tai hại, làm kẻ khác buồn không thích, lời ấy Như lai không
nói. Bất cứ lời nào Như Lai biết thật và đúng, đưa đến
lợi ích nhưng khó nghe và làm người khác không thích đón
nhận, lời như vậy Như lai biết thời để nói ra. Lời
nói nào Như Lai biết là không thật, không đúng, đưa đến
tai hại, nhưng dễ nghe và người khác ưa thích, lời ấy Như
Lai không nói. Và lời nào đức Như Lai biết là thật và đúng,
nhưng có hại, thì mặc dù vui tai và làm kẻ khác ưa thích,
lời ấy Như Lai không nói. Lời nào Như Lai biết là đúng,
thật, đưa đến lợi ích, dễ nghe, làm kẻ khác ưa thích,
lời ấy Như Lai biết thời để nói lên. (M. i, 395) vậy,
Ngài là Thiện thệ vì tuyên bố chính đáng.
Thế Gian Giải (Hiểu
rõ thế gian)
36. Ngài là đấng biết
rõ thế gian, vì Ngài đã biết cuộc đời trên mọi phương
diện. Vì đức Thế Tôn đã kinh nghiệm, biết và thâm nhập
thế gian về mọi mặt đặc tính riêng biệt của nó, sự
sinh khởi của nó, sự chấm dứt của nó, như được nói:
"Hành giả, có một chỗ tận cùng thế giới ở đây người
ta không sanh, không già, không chết, không tái sinh, có thể
được biết đến hay thấy hay đi đến bằng du lịch, điều
ấy ta không tuyên bố. Tuy nhiên ta cũng không nói rằng có sự
chấm dứt khổ mà không cần đi đến tận cùng thế giới.
Ðúng hơn trong cái thức của nó, mà ta công bố có thế giới,
sự sinh khởi của thế giới, sự chấm dứt của thế giới,
và con đường đưa đến sự chấm dứt.
Bộ hành không đạt
được
Tận cùng của thế giới
Không đạt thế giới tận,
Không phải không thoát khổ,
Do vậy, bậc hiền thiện,
Ðạt đến thế giới tận,
Phạm hạnh được viên thành
Với tâm tư định tĩnh
Biết được thế giới tận,
Không ước vọng đời này
Không ước vọng đời sau (S. i, 69)
37. Lại nữa, có ba thế
giới: thế giới các hành, thế giới của hữu tình và thế
giới của xứ sở.
Ở đây trong đoạn
"Một thế giới: mọi hữu tình tồn tại nhờ thức
ăn" (Ps. i, 122), đây có nghĩa là thế giới của
các hành. Trong đoạn: "Thế giới là trường cửu"
hay "Thế giới không trường cửu (M. i, 426) là thế
giới các hữu tình trong đoạn kinh:
"Như nhật nguyệt
lưu chuyển
Sáng chói khắp mười phương
Như vậy mười phương giới
Dưới uy lực của ngươi (M. i, 328)
Ðó là thế giới của
xứ sở. Ðức Thế Tôn cũng đã biết thế giới ấy về mọi
phương diện.
38. Cũng vậy, do những
lời: "Một thế giới, mọi loài hữu tình đều tồn tại
nhờ thức ăn. Hai thế giới: danh và sắc. Ba thế giới: ba
loại thọ. Bốn thế giới: bốn loại thức ăn. Năm thế giới:
năm uẩn kể như năm đối tượng chấp thủ. Sáu thế giới:
sáu nội xứ. Bảy thế giới: bảy thức. Tám thế giới:
tám cảnh giới thế gian (wordly states). Chín thế giới:
chín chỗ ở của hữu tình. Mười thế giới: mười xứ.
Mười hai thế giới: mười hai xứ. Mười tám thế giới: mười
tám giới". (Ps. i, 122) thế giới các hành này được
ngài biết trong mọi phương diện.
39. Ngài biết thói quen
của tất cả hữu tình, biết những khuynh hướng nội tâm
của chúng, biết tánh tình của chúng, biết sở thích của
chúng, biết rõ chúng có ít bụi trong con mắt hay nhiều bụi
trong con mắt, kẻ lợi căn, độn căn, thiện hạnh ác hạnh,
dễ dạy, khó dạy, có khả năng chứng đắc, và không có
khả năng thế giới những loài hữu tình này cũng được
Ngài biết đến về mọi phương diện.
40. Cũng như thế giới
các hữu tình, thế giới các xứ sở cũng vậy. Nó được
đo lường như sau: Một thế giới bề rộng có một triệu
hai trăm lẻ ba ngàn bốn trăm năm chục lý.
Chu vi của nó là
Ba triệu sáu trăm mười ngàn
Ba trăm năm chục lý.
41. Quả đất này
"Kẻ mang tất cả
tài sản"
có chiều dày hai trăm bốn chục ngàn lý
Và chỗ nương của đất:
Bốn trăm sáu mươi ngàn lý
Là bề dày hư không trong vòm trời
Như vậy là diện tích của thế giới.
42. Diện tích là như vậy.
Và trong đó có những vật sau đây:
Núi Sineru (Tu-di)
cao nhất trong các núi, vọt vào biển sâu tám vạn bốn
ngàn lý, và vươn cao lên cũng bằng như vậy.
Bảy vòng núi đồng tâm
bao quanh Sineru cách ấy. Mỗi ngọn núi có chiều sâu
và cao bằng nữa ngọn trước nó: Những dãy rộng lớn gọi
Yugandhara, isadhara, Karavìka,
sudassana, Nemindhara, Vinataka, Assakanna.
Những ngọn gió nhẹ từ
thiên giới quạt những đỉnh nhọn của chúng sáng ngời
châu ngọc, và ở đây, cư trú bốn vị vua của bốn phương
hướng, cùng quần tiên và phi nhân. Núi Hy Mã Lạp vươn cao
năm trăm lý, chu vi ba ngàn lý được trang hoàng bằng tám vạn
bốn ngàn đỉnh nhọn.
Cây jambu tên là Naga
cho mượn tên, do sự vĩ đại của nó gọi là đất của
đảo Jambu; thân cây chu vi mười lăm lý Cao năm mươi
lý, toả ra xung quanh những cành cũng lớn như vậy Như thế
đường kính và chiều cao đo được một trăm lý.
43. Dãy núi của hoàn cầu
lao xuống biển sâu tám vạn hai ngàn lý, vươn cao cũng bằng.
Viền quanh toàn thể một thế giới chủng.
Cây Jambu có chiều
cao lớn bằng cây Citrapàtaliya của loài A-tu-la, cây Simbali
của loài Garula, cây Kadamba ở Lục địa phía
tây của loài aparagoyàna, cây kappa ở lục địa
phía bắc của loài Uttarakurùs, cây kirìsa ở lục
địa phía đông của Pubbavidhavà cây Pàricchattka
ở cõi trời tam thập tam (tàvatimsa). Do vậy cổ đức
nói:
"Cây Pàtali,
Simbali và Jambu,
Cây Pàricchattaka của chư thiên,
Cây Kadamba, cây Kappa và cây Sirìsa là bảy".
44. Ðường kính của mặt
trăng là 49 lý và mặt trời là năm mươi lý. Cung điện tam
thập tam thiên rộng mười ngàn lý. Cũng vậy cung điện của
A tu la, địa ngục vô gián Avìici và đảo Jambu (Ấn
độ). Aparagoyàna rộng bảy ngàn lý. Cũng vậy là Pubbavideha,
Uttarakurù rộng tám ngàn lý. Và mỗi đại lục được
vây quanh bởi năm trăm hòn đảo nhỏ. Toàn thể những thứ
ấy làm thành một thế giới chủng duy nhất. Giữa thế giới
chủng này và những thế giới chủng tiếp cận có những
địa ngục ở trung gian các thế giới. Bởi thế, các thế
giới chủng là vô số, và đức Thế tôn đã kinh nghiệm,
đã biết và đã thâm nhập chúng bằng trí tuệ vô biên của
những đấng giác ngộ.
45. Bởi vậy, thế giới
về vị trí (xứ sở) cũng được ngài biết về mọi mặt.
Cho nên Ngài là đấng "Thế gian giải" Vì Ngài đã
thấy rõ thế giới trong mọi khía cạnh
Vô Thượng Sĩ Ðiều
Ngự Trượng Phu
46. Không có một người
nào cao cả hơn Ngài về những đức tính đặc biệt, không
có ai sánh bằng Ngài, do đó Ngài được gọi là đấng không
ai trên (Vô thượng sĩ). Ngài vượt toàn thế gian về giới,
định, tuệ, giải thoát và giải thoát tri kiến. Như đã
được nói: "Ta không thấy trong thế giới với chư thiên,
ma. Phạm vương, sa môn và Bà-la-môn, với các tiểu vương (Princes)
và loài người, không một người nào toàn vẹn hơn ta về
giới: (S i, 139) v.v... Cũng thế trong kinh Aggapasàda (A.
ii, 34; Iti. 87) và các kinh, và trong đoạn kệ khởi đầu
"Ta không có thầy, và người như ta không có trong toàn
thế giới". (M. i, 171)
47. Ngài dẫn đạo (Sàreti)
những con người đáng được dẫn đạo (Purisadamma),
nên Ngài là bậc dẫn đạo những người đáng dẫn đạo
(Purisadammasàrathi): Ngài làm cho thuần thục, uốn nắn
chúng. Những người, phi nhân và loài vật thuộc nam tánh (purisa)
chưa được điều phục (dametunyuttà) thì gọi là
"những kẻ đáng được điều phục" (purisadammà).
Vì những con thú giống đực, như Long vương Apalàla,
Cuilodara, Mahodara, Aggisikha, Dkùmasikha, Long Vương
Àravàia, con voi Dhanapàlaka, v.v... đều được Ðức
Thế tôn điều phục, xa lìa khỏi mọi độc (cấu uế) và
an trú trong các giới luật và tam quy. Cũng vậy, những người
đàn ông như Saccaka con trai Ni Kiền tử, Ambattha
đệ tử Bà-la-môn giáo, Pokkharasàti, Sopadanda, Nùtadanta,
v.v... Và những phi nhân nam như Alavaka, Sùciloma và
Kharaloma Ðế thích vua cõi trời, vân vân đều được
điều phục uốn nắn theo những phương tiện kỷ luật khác
nhau. "Này Kosi, ta điều phục những người đáng
được điều phục khi thì ôn hoà, khi thì cứng rắn, khi
thì vừa ôn hoà, vừa cứng rắn". (A. ii, 112).
48. Ðức Thế tôn lại
còn điều phục những người đã được điều phục, bằng
cách tuyên bố sơ thiền, v.v... Lần lượt cho những người
có giới đã được thanh tịnh, v.v... Và công bố con đường
tiến lên những đạo lộ cao cả hơn đến bậc Dự lưu,
v.v...
Hoặc những chữ "Vô
thượng sĩ điều ngự trượng phu" có thể xem là một
mệnh đề. Vì Ðức Thế tôn dẫn đạo những người đáng
điều phục cách nào để ngay trong một thời (giáo hoá) họ
có thể đi khắp tám hướng không ngăn ngại (nhờ tám giải
thoát). Do đó ngài được gọi là "Bậc đạo sư vô
thượng của những người đáng điều phục",
như đoạn kinh sau: "này các tỷ kheo, được hướng dẫn
bởi người luyện voi, con voi được luyện đi theo một hướng..."
(M. iii, 222)
Thiên Nhân Sư
49. Ngài dạy dỗ (anusàsati)
bằng phương tiện cái hiện giờ và ở đây, bằng đời
sau, và bằng mục đích tối hậu, tùy trường hợp thích đáng,
cho nên Ngài là bậc Thầy (Sattha).
Hơn nữa, theo Niddesa,
"Ðạo sư" đức Thế tôn là bậc dẫn đạo đoàn lữ
hành, vì Ngài đưa những người lữ hành về đến nhà (sattha:
caravan) Như một người dẫn đạo lữ hành đưa chúng
qua sa mạc đầy những kẻ cướp, không thức ăn, không nước
uống, khiến cho chúng vượt qua, vượt qua một cách thích
nghi, đưa chúng đến mảnh đất an ổn, cũng thế đức Thế
tôn làm bậc dẫn đạo đoàn lữ hành, người đưa qua sa mạc
sinh tử". (Nd1. 446)
50. Của chư thiên và
loài người: được nói lên để chỉ những kẻ tốt nhất,
những kẻ có khả năng, tiến hoá. Vì đức Thế tôn đạo
sư còn giáo hoá cả đến những súc sinh. Ngay loài súc sinh
nhờ được nghe diệu pháp của Thế tôn cũng có thể được
lợi lạc, được tái sinh vào một cảnh giới thuận tiện
cho sự tiến hoá, với sự thuận lợi này, vào kếp tái
sinh thứ hai hay thứ ba, chúng có thể dự phần vào đạo và
quả.
51. Thiên tử (Mandùka)
nắm được một tướng ở trong tiếng nói của Ðức Thế
tôn. Một kẻ chăn bò đang chống gậy đứng gần đấy, đè
chiếc gậy lên đầu con cóc nghiền nát nó. Nó chết, và
ngay tức thì tái sinh ở một cung điện vàng son thuộc cõi
trời ba mươi ba (tàvatimsa). Nó thấy mình ở đấy
như thể vừa tỉnh thức từ một giấc ngủ, giữa một đám
tiên nữ, và nó thốt lên "vậy ra ta đã được tái
sinh ở đây. Ta đã làm nghiệp gì?" Khi tìm hiểu lý do,
nó nhận ra rằng chỉ vì nó đã hiểu được một tướng
nơi tiếng nói của đức Thế tôn. Nó bèn đem cung điện cõi
trời của nó đi đến Thế tôn và đảnh lễ dưới chân
Ngài. Ðức Thế tôn đã biết chuyện, nhưng cứ hỏi:
Ai đảnh lễ dưới
chân ta đấy?
Mà chói sáng quang minh
Của sự thành công
Chiếu sáng khắp xung quanh
Với vẻ đẹp cực kỳ mỹ lệ?
Con cóc trả lời:
Ðời trước con là một
con cóc
Lấy nước ao tù làm nhà ở
Chiếc gậy mục tử chấm dứt mạng căn
Trong lúc con đang lắng nghe
Diệu pháp của Ngài.
Ðức Thế tôn bèn giảng
pháp cho nó. Tám vạn bốn ngàn chúng sinh được ngộ nhập
pháp. Khi vị thiên tử được nhập trong Dự lưu quả, vị
ấy mỉm cười biến mất.
Phật
52. Ngài là Phật, đấng
đã giác ngộ với trí thuộc về quả giải thoát vì mọi sự
có thể biết đã được Ngài biết (buddha).
Hoặc, Ngài khám phá (bujjhi)
bốn chân lý tự mình Ngài, và giác tỉnh cho những người
khác chân lý ấy, vì những lý do này và khác nữa, Ngài
được gọi là giác ngộ. Ðể giải thích ý nghĩa này, có
thể trích dẫn toàn đoạn văn trong Niddesa khởi đầu
như sau: "Ngài là đấng tìm ra (bujjhitor) những
chân lý, cho nên là Giác giả (Buddha). Ngài là đấng
đánh thức chúng sinh, nên ngài là giác giả (Nd1., 457)
hoặc có thể giải thích cũng đoạn ấy từ Patisambhida.
Thế Tôn
53 Thế tôn (Bhagava) là
một danh từ có nghĩa kính trọng tôn sùng gán cho Ngài, được
xem như cao cả nhất trong các chúng sanh, và nổi bật vì những
đức tính đặc biệt. Cổ đức có nói:
"Thế tôn là danh
từ tốt nhất
Thế tôn là danh từ hay nhất
Ðáng uý phục và tôn kính
Thế tôn do đó là tên của Ngài".
54. Hoặc giải thích:
Tên có bốn loại: ám chỉ giai đoạn của cuộc đời, mô tả
một điểm đặc biết hoặc được khởi lên một cách
tình cờ một sở đắc đặc biệt. Loại tên sau rốt này,
theo thế gian thì gọi là ngẫu hứng. Ở đây, tên chỉ một
giai đoạn là người danh từ như "bò tơ" (vaccha),
"trâu chưa thuần" (damua), "bò kéo
cày" (balivadha) v.v... Tên ám chỉ một đặc điểm
như những danh từ "người mang gậy" (dandin),
"người che dù" (chanttin), "người mang búi
tóc" (sikhin) "kẻ có tay" (karin- con
voi), v.v... Tên có ý nghĩa một sở đắc đặc biệt là những
danh từ như " người có ba minh" (tevijja)
"người có sáu thông" (chalabhinna), v.v... Còn
những tên như "sirivaddhaka" (Người tăng vẻ sáng
chói) "Dhanavadđhaka" (người tăng tài sản)
v.v... là những tên khởi lên một cách tình cờ,
chúng không có tương ứng với ý nghĩa của danh từ.
55. Tên gọi này, Thế
Tôn, là môt danh từ có ý nghĩa một sở đắc đặc biệt;
nó không được tạo bởi hoàng hậu Màya hay vua Suddhodhana
hay bởi tám mươi ngàn quyến thuộc, hay bởi những vị
trời đặc biệt như sakka, Santusita, và những vị
khác. Và bậc Tướng quân chánh pháp (sàriputta) nói như
sau "Thế Tôn" Ở đây không phải cái tên do mẹ đặt
ra. Ðây là một tên phát xuất từ sự giải thoát rốt ráo
của những đấng giác ngộ, những đấng Thế tôn, cùng với
sự đạt được chánh biến tri dưới cội bồ đề; cái
tên gọi Thế tôn "này là một danh xưng dựa trên sự
chứng đạt". (Ps. i, 174; Nd1. 143).
56. Ðể giải thích những
đức tính đặc biệt mà danh xưng này ám chỉ, đoạn kệ
sau đây được trích dẫn:
Ðấng đạo sư (garu)
có phước, lạc (bhagì: blessing);
Ngài là người thường lui tới (bhàjì),
Người sở hữu (bhàgì)
Những gì được phân tích (vibhattavà);
Ngài đã tạo ra sự từ bỏ (bhaggga),
Ngài là người may mắn (bhàgyavà)
Ngài đã phát triển toàn vẹn (subhàtitattane) trong
nhiều cách
Ngài đã đi đến tận cùng của các hữu (bhavantago);
nên Ngài được gọi là Thế tôn (bhagavà)
Ý nghĩa những danh từ
này cần được hiểu theo phương pháp giải thích trong Niddesa,
(Nd1., 142)
57. Nhưng còn một cách
khác: "Ngài là người may mắn (bhagyavà), có được
sự từ bỏ (bhaggavà), liên hệ đến hạnh phúc (yuttobhagohi),
một người sở hữu những gì đã được phân tích
(vibbattavà) "Người đã lui tới (bhattavà)
"Ngài đã lui được phân tích (vibbattavà) và đã
từ bỏ sự đi vào những cõi hữu, nên ngài là Thế
tôn".
58. Ở đây bằng cách
sử dụng đặc tính của ngôn ngữ khởi đầu là những ví
dụ "phát triển hình thức, thay đổi hình thức" hoặc
bằng cách sử dụng đặc tính "định tính" khởi
đầu bằng những ví dụ "có bụng màu lốm đốm"
v.v... (xem Pànini, Ganapàtha, 6, 3, 109), có thể rằng
Ngài cũng có thể được gọi là Thế tôn (Bhagava) khi
đã được gọi là May mắn (bhàgya) đạt đến toàn
thiện về Thí và Giới, v.v... là những điều kiện phát
sinh phúc lạc thế gian và xuất thế gian.
59. Tương tự như vậy,
Ngài có thể được gọi là bhagavà vì Ngài đã được
gọi là "có sự từ bỏ" (bhaggavà) do những
đe dọa (abhanji) cả trăm ngàn thứ phiền não, lo lắng
và ô nhiễm được phân loại thành tham, sân si, thất niệm,
vô tàm vô quý, phẫn hận, khinh bỉ và thống trị, ganh tị,
và tham lam, lừa dối và gian lận, cứng đầu và tự kiêu,
ngã mạn và cao ngạo, khoe khoang và lơ đễnh, khát ái, và
ngu si, ba bất thiện căn các loại tà hạnh, ô nhiễm, cấu
uế, ảo tưởng, tầm tư duy và những phân biệt, bốn điên
đảo, lậu hoặc, triền cái, bộc lưu, hệ phược, thói xấu,
khát ái, chấp thủ, năm tâm hoang vu, tâm ách phược, những
triền cái và những loại ưa thích, sáu căn và những nhóm
khát ái, mười bất thiện nghiệp, 62 tà kiến, 108 lối cư
xử thuộc về tham ái, nói tóm lại là năm thứ ma phiền não,
ma ngũ ấm, ma hành nghiệp, thiên ma và tử ma.
Từ bỏ (bhagga)
tham sân si
Ngài không còn lậu hoặc,
Ác pháp được tận trừ
"Thế tôn" xứng tên gọi.
60. Sự may mắn hạnh
phúc của Ngài (bhàgyavata) được chứng tỏ bằng sắc
thân đủ trăm công đức, và sự tận trừ các lỗi được
chứng tỏ bởi tính cách toàn vẹn của pháp thân Ngài. Hạnh
phúc của ngài chỉ sự tôn trọng của thế gian, sự dứt
trừ lậu hoặc nơi ngài chỉ sự tôn trọng của những bậc
giống như Ngài. Thân hạnh phúc của Ngài được tin cậy của
người thế tục, sự từ bỏ lỗi lầm đáng được tin cậy
của người xuất gia. Và khi cả hai hạng người này nương
tựa nơi Ngài, thì chúng được cứu vớt khỏi thân khổ
và tâm khổ, được cứu giúp bằng tài thí lẫn pháp thí,
chúng có thể tìm được cả hai thứ phúc lạc thế gian và
xuất thế gian.
61. Ngài cũng được gọi
là bhàgavà (Thế tôn) vì Ngài liên hệ đến
hạnh phúc (bhagohi yuttattà): trong đời, danh từ hạnh
phúc được dùng để chỉ sáu thứ là sự làm chủ, pháp,
danh tiếng, sáng chói, nguyện, tinh tấn. Ngài đã đạt được
sự làm chủ tối thượng trên tâm của Ngài. Ngài có
đầy đủ pháp thế gian là các thần thông "hiện
thân hình thật nhỏ" (animà: như vi trần), "làm
thân nhẹ bổng" (laghima: làm thân nhẹ đi trên hư
không) v.v... Cũng như pháp xuất thế, ngài lại có danh
tiếng hoàn toàn thanh tịnh được lan truyền khắp ba cõi.
Ngài có vẻ sáng chói của tứ chi, toàn vẹn trong mọi
vẻ trong mọi vẻ, có thể làm đẹp mắt những người ưa
nhìn thấy sắc thân của Ngài. Ngài có nguyện, nghĩa
là phát sinh những thứ cần dùng, bất cứ gì Ngài cần đến
và mong ước để tự lợi và lợi tha đều được phát
sinh ngay tại chỗ tức khắc cho Ngài dùng. Ngài có sự tinh
tấn, nghĩa là chánh tinh tấn, lý do làm cho toàn thể thế
gian tôn sùng Ngài.
62. Ngài còn được gọi
là bhagavà vì Ngài là đấng "sở hữu những
gì đã được phân tích" (vibhattàvà), như Ngài đã
phân tích và thuyết minh các pháp thành ba loại là thiện
ác, và vô ký v.v... Hoặc phân tích các pháp thiện, v.v...
Thành ra những pháp như uẩn, xứ, giới, đế (chân lý), căn,
duyên khởi v.v... Hoặc phân tích khổ đế thành những nghĩa
như bức bách, hữu vi, đốt cháy, thay đổi. Tập đế thành
những nghĩa tích luỹ, nguồn gốc, trói buộc, chướng ngại.
Diệt đế thành những nghĩa giải thoát, viễn ly, vô vi, bất
tử, và Ðạo đế thành những nghĩa lối ra, nguyên nhân thấy
rõ, và sự ưu thắng. Ngài đã phân tích, đã khai thị, đã
chỉ ra những ý nghĩa ấy.
63. Ngài có thể được
gọi là bhagavà (Thế Tôn) vì Ngài được gọi là
đấng "đã từ bỏ sự đi vào các loại hữu" (vantagamano
bhavesu), vì đối với ba loại hữu (bhava), sự đi
vào (gamana) hay nói cách khác, sự khát ái đã được
Ngài từ bỏ (vanta). Âm bha từ chữ bhava,
âm ga từ chữ gamana, và âm va
từ chữ gamana, và âm va từ chữ vanta với
chữ a dài ra, làm thành bhagavà.
64. Ngài có thể được
gọi là bhagavà (Thế Tôn) khi Ngài được gọi là
một người "đã lui tới (bhattavà)" do Ngài đã
lui tới (bhaji), đã thân cận, đã thường xuyên thực
hành những pháp thế gian và xuất thế gian, siêu nhân, như
ba trú là thiên trú, phạm trú và thánh trú; ba thứ viễn ly
là thân viễn ly, tâm viễn ly, và hữu viễn ly; ba giải
thoát là không vô tướng, vô nguyện, và những thứ khác nữa.
[Ba trú là "thiên trú" kasina thiền, "phạm
trú": tứ thiền v.v... "thánh trú"; đắc quả. Về
ba thứ viễn ly, xem Ch. IV, phần chú thích]
65. Khi thiền giả nhớ
lại những đức đặc biệt của Phật theo cách sau:
"Vì lý do này đức Thế tôn là bậc A-la-hán... Vì lý
do này Ngài là Thế tôn", thì ngay khi ấy hành giả
không bị ám ảnh bởi tham hay sân, hay si tâm vị ấy có
được sự ngay thẳng, nhờ cảm hứng từ đấng toàn thiện"
(A. iii, 285).
66. Bởi thế, khi hành
giả đã dẹp trừ những triền cái bằng cách ngăn ngừa những
ám ảnh của tham, v.v... Và tâm hành giả đối diện với đề
mục thiền quán một cách ngay thẳng, thì tầm và tứ sinh với
một khuynh hướng thiên về những đức tính đặc biệt của
đấng Giác Ngộ. Khi hành giả tiếp tục luyện tầm và tứ
trên đối tượng là những đức tính đặc biệt của đấng
Giác Ngộ, thì hỉ khởi lên nơi hành giả. Với tâm có hỉ,
với hỉ là nguyên nhân gần, sự rối loạn của thân và
tâm được an tĩnh nhờ khinh an, thân lạc và tâm lạc khởi
lên. Khi có lạc, tâm hành giả, với những đức tính đặc
biệt của Thế tôn làm đối tượng, trở nên định tĩnh và
như vậy cuối cùng những thiền chi khởi lên cùng một loạt.
Nhưng do tính cách sâu xa của những đức tính đặc biệt của
đấng Giác Ngộ, hoặc vì hành giả bận tâm tưởng niệm
những đức tính đặc biệt thuộc nhiều loại, cho nên chỉ
đạt được định cận hành, không đạt đến định an chỉ.
Và chính cận hành định ấy cùng được gọi là "niệm
Phật", vì nó khởi lên nhờ tưởng niệm những đức tính
đặc biệt của Thế tôn.
67. Khi một tỷ kheo
chú tâm đến việc tưởng niệm đấng Giác Ngộ như vậy,
vị ấy cung kính tôn trọng đức đại sư, đạt đến sự
viên mãn đức tin, chánh niệm, trí tuệ và công đức. Vị
ấy có nhiều hạnh phúc và an lạc, chinh phục được sự sợ
hãi khủng bố. Vị ấy cảm giác như mình đang sống trước
mặt đấng đạo sư. Thân xác vị ấy khi trú trong tưởng
niệm những đức tính đặc biệt của Phật, trở thành đấng
tôn trọng như một điện thờ Phật. Tâm vị ấy hướng về
chư Phật. Khi gặp một cơ hội phạm giới, hành giả cảm
thấy tàm quý, như thế đang đứng trước mặt đấng đạo
sư. Dù cho hành giả không thâm nhập được gì cao siêu,
thì ít nhất cũng tiến đến một cảnh giới an lạc.
Người thực sự có trí.
Thì thường xuyên tưởng niệm
Các đức của Thế tôn
Ðấng an lạc vĩ đại
Trên đây là đoạn nói
về tưởng niệm Thế tôn, với giải thích chi tiết.
Niệm Pháp
68. Một người muốn
tu tập đề mục niệm pháp, hãy đi vào độc cư và tưởng
niệm những đức tính đặc biệt của Pháp (Luật và kinh tạng
cùng chín pháp xuất thế) như sau: "Pháp" được đức
Thế tôn khéo giảng, tự chứng ngay hiện tại, vượt ngoài
thời gian, đến để mà thấy, có hiệu năng hướng thượng,
được người có trí chứng biết". (M. i, 37; A. iii,
285)
69 Khéo thuyết giảng:
mệnh đề này bao gồm pháp của kinh điển cũng như pháp
khác, những mệnh đề còn lại ám chỉ riêng pháp xuất thế.
Pháp thuộc kinh điển được khéo thuyết giảng, vì tốt đẹp
ở chặn đầu, chặn giữa và chặn cuối, và nó tuyên bố
đời sống phạm hạnh hoàn toàn viên mãn trong sạch, với
đầy đủ ý nghĩa và chi tiết". (M i, 179) Ngay cả
một bài kệ, một đoạn kinh trong giáo lý của đức Thế tôn
cũng tốt đẹp ở chặn giữa với những gì nó trình bày,
và tốt đẹp ở chặn cuối với kết luận. Một quyển
kinh tốt đẹp ở chặng đầu với dẫn nhập, cho biết nơi
chốn và lý do (duyên khởi) thuyết kinh, tốt đẹp ở chặn
giữa vì thích hợp với những người đáng giáo hoá, vì ý
nghĩa không mơ hồ, được lập luận có nhân và dụ, và tốt
đẹp ở chặn cuối với kết luận làm khởi tín tâm nơi
người nghe.
70. Cũng vậy toàn bộ
giáo lý tốt đẹp ở chặn dầu với giới là sự an lạc bản
thân, chặn giữa với định, Tuệ, đạo, quả, và tốt đẹp
ở chặn cuối với niết bàn. Hoặc tốt đẹp ở chặn đầu
vì giới và định. Tốt đẹp ở chặn giữa vì Tuệ và đạo.
Tốt đẹp ở chặn cuối vì quả và Niết bàn. Hoặc, giáo
lý tốt đẹp ở chặn đầu vì là sự khám phá tốt đẹp
của Ðức Phật. Tốt đẹp ở chặn giữa vì tính chất
khéo điều hoà của pháp. Tốt đẹp ở chặn cuối vì đó
là đạo lộ tốt mà tăng già đã đi vào.
71. Do nghe pháp mà những
triền cái được trừ khử, đó là tốt đẹp ở chặn đầu.
Do thực hành pháp mà có lạc khinh an và tuệ là tốt đẹp
ở chặn giữa. Kết quả Pháp ấy đem lại là đạo và quả,
đưa đến sự bất động gọi là tốt đẹp ở chặn cuối.
72. "Ðời sống phạm
hạnh" nghĩa là đời sống phạm hạnh theo giáo lý và
đời sống phạm hạnh thuộc đạo lộ mà Ðức Thế tôn
thuyết giảng, đời sống phạm hạnh ấy là "có ý nghĩa"
vì có thể được người trí giảo nghiệm, "có chi tiết"
vì gợi niềm tin nơi người thường. Nó có ý nghĩa vì có
mục đích sâu xa. Nó có chi tiết vì danh dự rõ ràng. Nó
"hoàn toàn viên mãn" vì không có điều gì có thể
thêm. Nó "trong sạch" vô cấu vì không có điều gì
có thể bớt. Lại nữa, pháp có nghĩa vì nó đem lại quả
chứng nhờ thực hành đạo lộ, và có chi tiết vì đem lại
sự đa văn nhờ nắm vững kinh điển. Pháp là hoàn toàn
viên mãn vì liên tục đến năm pháp uẩn là Giới uẩn, Ðịnh
uẩn, Tuệ uẩn, giải thoát uẩn, Giải thoát tri kiến uẩn.
"trong sạch" vì không có khuyết điểm, vì nó tồn
tại cho mục đích vượt qua bộc lưu luân hồi sinh tử (xem
M. i, 134) và vì nó không liên hệ đến những chuyện
thế tục.
73 Lại nữa, khéo giảng
vì được tuyên bố một cách thích đáng không ngược. Ngoại
đạo thì ngược ở chỗ, cái được xem chướng ngại không
phải chướng ngại thực, cái được xem là lối thoátkhông
phải là lối thoát thực, do đó pháp của ngoại đạo là vụng
giảng. Những Pháp Thế tôn giảng thì không ngược như vậy:
những Pháp Ngài gọi là chướng ngại thực sự là chướng
ngại, những Pháp Ngài gọi là giải thoát thực sự là giải
thoát.
Như vậy, trước hết,
Pháp của kinh điển là pháp "khéo giảng".
74. Pháp xuất thế gian
là "khéo thuyết giảng" vì đạo lộ phù hợp với
niết bàn, và niết bàn phù hợp với đạo lộ, "con
đường đưa đến Niết bàn đã được Thế tôn tuyên bố
một cách thích đáng cho các đệ tử, niết bàn và đạo lộ
phù hợp nhau. Cũng như nước của sông Hằng gặp và tiếp
nối với nước sông Yamunà cũng vậy, con đường dẫn
đến niết bàn đã được đức Thế tôn công bố một
cách thích đáng cho các đệ tử, niết bàn và đạo lộ gặp
gỡ" (D. ii, 225)
75. Và Thánh đạo, con
đường Trung đạo không thiên cực đoan nào, là được
"khéo thuyết giảng". Các quả sa môn cũng được
" khéo thuyết giảng" khi được công bố là những
cấu uế đã thanh tịnh. Niết bàn, cũng được khéo giảng
khi được công bố bản chất là thường, bất tử, nơi trú
ẩn, chỗ nương tựa v.v... Bởi vậy, pháp xuất thế cũng
được "khéo thuyết giảng".
76. Thiết thực hiện
tại, trước hết thánh đạo là "thiết thực hiện
tại" vì có thể thấy được bởi một con người cao
quý khi đã xa lìa tham dục v.v... Nơi bản thân: "Này
Bà-la-môn, khi một người bị nhuốm bởi tham, bị tràn ngập,
tâm bị ám ảnh bởi tham, thì nó suy nghĩ hại mình, hại người,
hại cả hai, và cảm thọ đau khổ về tâm. Khi tham đã được
trừ diệt, nó không suy nghĩ hại mình, hại người, hại cả
hai, và không cảm thọ đau khổ về tâm. Ðây, này
Bà-la-môn, là pháp thiết thực hiện tại (A. i, 156)
77. Lại nữa, pháp xuất
thế có chín loại cũng là thiết thực hiện tại vì khi một
người đã đạt đến đấy, thì pháp ấy tự người này
thấy được người tri kiến thẩm sát, không cần nương tựa
người khác.
78 Hoặc, kiến (ditthi)
thích hợp (pasattha quá khứ của ngữ căn: sams) gọi
là sanditthi pháp chinh phục người ta nhờ tính cách
có thể thấy được kết quả ngay trong hiện tại, nên gọi
là thiết thực hiện tại. Thánh đạo chinh phục được những
phiền não nhờ thấy đúng, thánh quả và niết bàn cũng
chinh phục phiền não nhờ chánh kiến làm nhân.
79. Hoặc, cũng có thể
giải thích rằng, vì pháp xuất thế (luật) làm ngưng cái
vòng khủng khiếp nghiệp v.v... Ngay khi nó vừa được trông
thấy nhờ tuệ thể nhập, nên pháp là thiết thực hiện tại
vì đáng được thấy.
80. Không thuộc thời
gian: Pháp ấy không có chậm trễ trong việc đem lại kết
quả, nên gọi là không có thời gian (akàla). Nghĩa là,
thay vì triển hạn một thời gian dài lâu, năm, bảy ngày, mới
cho kết quả thì pháp, đem lại kết quả ngay tức thì.
81. Hoặc, cái gì cần
một thời gian để cho kết quả là pháp thế gian về thiện
(nghiệp). Nhưng pháp này thì không cần thời gian vì kết quả
của nó đến ngay, nên gọi là không thuộc thời gian. Ðiều
này được nói về đạo lộ hay con đường.
82. Ðến để mà thấy:
pháp này đáng mời gọi người ta thẩm sát (ehipassa
-vidhi) như sau: "hãy đến đây mà thấy pháp
này" (ehi passaimamdhammam), cho nên gọi là "đến
để mà thấy" (Ehipassika). Tại sao Pháp đáng được
mời gọi đến mà thấy? Vì đã được tìm thấy và vì
thanh tịnh. Nếu một người bảo có tiền hay vàng trong một
nắm tay không (tức là nói láo) thì nó không thể bảo
"đến đây mà xem". Mặt khác, phân tiểu có thể thấy,
nhưng ta không thể làm người khác hoan hỉ bằng cách khoe
"Ðến mà xem cái này", trái lại, phải lấy cỏ lá
mà che cho khuất con mắt vì bất tịnh. Nhưng, pháp xuất thế
với chín thành phần thực sự đã được tìm thấy và thuần
tịnh như trăng rằm trong bầu trời không mấy, như ngọc
mani trên tấm vải sạch. Bởi thế, Pháp đáng mời gọi ta
"đến mà thấy"
83. Pháp này với bốn
đạo bốn quả là đáng dụ dẫn, nói cách khác, đáng khơi
dậy trong tâm người ta bằng cách tu tập, dù cho y phục hay
đầu của ta đang bốc cháy (xem A iv, 520). Do đó pháp
này gọi là "Dẫn tới trước" hay hướng thượng
Opanayika. Ðiều này áp dụng cho tám pháp xuất
thế vô vi thì đáng trở thành đối tượng của tâm, nên cũng
là "dẫn tới trước", nghĩa là đáng được xem
như chỗ trú ẩn của ta bằng cách chứng nhập.
84. Hoặc cái dẫn dụ
(upaneti) người thánh thiện đến niết bàn chính là
thánh đạo. Lại nữa, cái có thể dưa đến giác ngộ là
Pháp gồm quả và niết bàn.
85. Ðược người trí
chứng biết: Pháp ấy có thể được chứng nghiệm bởi
tất cả hạng người trí khởi từ hạng "lợi tuệ"
(Xem A. ii, 135) mỗi người tự chứng lấy như sau:
"Vì không thể xảy ra cái việc một vị giáo thọ sư
tu đạo mà người đồng trú với vị ấy lại từ bỏ được
cấu uế, hay người đồng trú được an lạc nhờ vị giáo
thọ sư đắc quả, hoặc chứng niết bàn nhờ vị giáo thọ
sư đã chứng. Bởi thế, Pháp này không thể được thấy
như người ta thấy vật trang sức trên đầu người khác,
mà chỉ được thấy trong tự tâm mình, nghĩa là chỉ có người
có trí kinh nghiệm, không phải lãnh vực của kẻ ngu.
86. Lại nữa, Pháp này
khéo thuyết giảng vì nó thiết thực hiện tại, vì không bị
triển hạn. Nó không bị triển hạn vì mời gọi sự thẩm
sát thì có tính cách hướng tới trước.
87. Khi thiền giả suy
nghiệm những đức tính đặc biệt của Pháp như vậy,
"thì ngay lúc ấy, tâm vị ấy không bị ám ảnh bởi
tham dục, sân nhuế, ngu si, tâm vị ấy ngay lúc đó được
ngay thẳng nhờ cảm hứng từ pháp" (A. iii, 285)
Bởi vậy, khi hành giả
đã đạt được những triền cái theo cách đã nói (đ. 66),
thì những thiền chi khởi lên trong một tâm sát na. Nhưng do
tính cách sâu xa của những đức tính đặc biệt của pháp,
hoặc vì hành giả bận tâm tưởng niệm nhiều đức tính
đặc biệt thuộc nhiều loại, cho nên thiền vị ấy đạt
được chỉ là cận hành định, không đạt đến định an
chỉ.
88. Khi một tỷ kheo
chuyên tâm tưởng niệm pháp, vị ấy nghĩ: "Trong quá khứ,
ta chưa từng gặp một bậc thầy nào dạy một pháp hướng
thượng như thế, có tài năng như thế, ta cũng không thấy
một bậc thầy nào như đức Thế tôn. Vì thấy những đức
đặc biệt của pháp như vậy, vị ấy tôn trọng cung kính
đấng đạo sư, tôn trọng pháp và đạt đến viên mãn về
tín v.v... Vị ấy được nhiều hạnh phúc và hân hoan. Vị
ấy nhiếp phục được sợ hãi khủng bố, có khả năng nhẫn
khổ, cảm thấy như thể đang sống với pháp hiện tiền.
Và thân của hành giả, khi an trú trong sự niệm pháp, trở
thành vật đáng tôn trọng như một điện thờ. Tâm vị ấy
hướng đến sự thành tựu Pháp vô tỷ. Gặp phải cơ hội
phạm giới, hành giả có ý thức tàm quí mãnh liệt khi tưởng
đến pháp. Và nếu hành giả không thâm nhập được cái
gì cao siêu hơn, thì ít nhất cũng tiến đến một cõi an lạc.
Người thực sự có
trí.
Thì thường xuyên tu tập
Sự tưởng niệm về Pháp
Tối thắng nhiều tiềm năng
Niệm
Tăng
89. Một người tu tập
niệm tăng, nên đi vào độc cư để tưởng niệm những đức
tính đặc biệt của đoàn thể thánh chúng như sau: "Chúng
đệ tử của Thế tôn đã đi vào thiện đạo, trực đạo,
chân đạo, chánh đạo, nghĩa là bốn đôi tám vị. Chúng đệ
tử này của Thế tôn đáng được cúng duờng, cung kính, chắp
tay chào, là phước điền vô thượng của thế gian". (A.
iii, 286)
90. Ði vào thiện đạo
(supatipanna) có nghĩa là hoàn toàn nhập đạo, và đó
là đạo lộ chân chính (sammà-patipadà), con đường không
thể đảo lộn, con đường phù hợp với chân lý, con đường
không có đối lập, con đường được điều hoà bởi
pháp. Chúng đệ tử này nghe (sunanti) một cách chăm chú
lời dạy của đấng Thế tôn, cho nên gọi chúng là Thanh văn
(sàvaka: người nghe) Chúng đệ tử là hội
chúng những thanh văn này, cùng chung giới và (chánh) kiến.
Ðạo lộ ấy là trực đạo, không bị cong, không có
móc, không khuất khúc, gọi là thánh đạo, chân đạo, chánh
đạo, bởi vì nó phù hợp (với chân lý)
91. Những người đứng
trên đạo lộ ấy có thể xem là đã thể nhập thiện đạo,
vì có chân đạo. Những người an trú trong quả vị có thể
xem là đã thể nhập thiện đạo, vì nhờ chân đạo mà họ
đã chứng những gì phải chứng.
92. Lại nữa, hội
chúng ấy đã đi vào trực đạo là con đường trung
đạo, tránh hai cực đoan, con đường từ bỏ những lỗi của
thân cong và lời cong. Hội chúng ấy đi vào chân đạo
vì Niết bàn được gọi là "chân thật", và vì lấy
Niết bàn làm mục tiêu. Hội chúng đã đi vào chánh đạo
là con đường của những người đáng
được tôn trọng.
93. Bốn đôi: người
có đạo thứ nhất và quả thứ nhất là một đôi, theo
cách ấy có bốn đôi. Tám vị kể từng người thì
đứng ở quả vị thứ nhất là một người, như vậy có
tám vị.
94. Ðáng cúng dường:
Những gì đáng được mang (ànotvà) và cho (hunitabha)
là một tặng vật (àhuna: vật tế lễ), có nghĩa là
những vật được mang từ xa đến và tặng cho những người
có giới hạnh. Ðấy là một danh từ chỉ tứ sự cúng dường.
Chúng tăng đáng được những tặng vật vì làm cho tặng phẩm
có kết quả lớn, nên gọi là đáng cúng dường (àhuneyya).
95. Cũng như ngọn lửa
của Bà-la-môn thờ lửa được gọi là đáng dâng lễ cũng,
vì những người này tin tưởng rằng sự cúng tế cho ngọn
lửa ấy mang lại kết quả lớn. Chúng tăng cũng vậy, đáng
được cúng dường bởi vì những gì cúng dường cho chúng
tăng được kết quả lớn.
Dù trải một trăm
năm
Thờ lửa tại rừng sâu
Chẳng bằng trong giây lát
Cúng duờng bậc chân tu (Dh. 107)
96. Xứng đáng sự mời
thỉnh (pahuneyya): pàhuna là danh từ chỉ
tặng phẩm dành cho khách phương xa đến. Nhưng không có đối
tượng nào xứng đáng nhận sự thỉnh mời hơn là tăng chúng,
vì Tăng là những vị được gặp trong thời gian giữa hai vị
Phật, và Tăng có những đức tính hoàn toàn đáng mến mộ.
97 Cúng dường (dakkhina):
tặng phẩm vì lòng tin ở đời sau, gọi là đồ cúng dường.
Chúng tăng đáng cúng dường vì làm thanh tịnh những thứ
cúng thí bằng cách đem lại quả báo lớn.
Chúng tăng đáng cho
toàn thể thế gian chào kính: (anjali- kamma) bằng cách
chấp tay lên đầu cho nên gọi là đáng tôn trọng kính
chào (anjalikaranìya).
98. Là ruộng phước
vô thượng của thế gian: một nơi không có gì sánh bằng
có thế gian, để gieo trồng phước đức. Vì các loại
công đức thế gian đưa đến an lạc và hạnh phúc, nếu y
cứ vào thánh chúng để tăng trưởng nên chúng tăng là
"ruộng phước vô thượng của thế gian".
99. Khi hành giả tưởng
niệm những đức đặc biệt của Tăng như thế, thì tâm
hành giả không bị tham, sân, si ám ảnh, có được sự chất
trực, vì cảm hứng từ chúng tăng (A. iii, 286) Sau khi
hành giả nhiếp phục những triền cái như đã nói (đ. 66)
những thiền chi khởi lên trong một tâm sát na. Nhưng vì
tính chất sâu xa của những đức đặc biệt của Tăng, hay
vì tâm hành giả bận tưởng đến những đức đặc biệt
thuộc nhiều loại, nên thiên đạt được chỉ là cận
hành định, mà không phải là định an chỉ.
100. Khi một tỷ kheo
chuyên tâm tu tập sự niệm tăng này, thì vị ấy có thái
độ cung kính, tôn trọng đối với chúng tăng. Vị ấy được
sự viên mãn về tín v.v... Vị ấy có nhiều hạnh phúc an lạc.
Vị ấy nhiếp phục được sợ hãi và khủng bố. Vị ấy
có khả năng nhẫn khổ. Vị ấy cảm thấy như mình đang sống
với sự hiện diện của chúng tăng. Và thân thể của vị
ấy, khi an trú trong sự niệm tăng, trở thành đáng tôn trọng
như một ngôi nhà làm lễ bố tát, ở đó chư tăng tụ hội.
Tâm vị ấy hướng đến sự thành đạt những đức tính
đặc biệt của tăng. Khi hành giả gặp phải cơ hội phạm
giới, vị ấy liền có ý thức tàm quý mãnh liệt như đang
ở trước mặt chúng tăng. Và nếu hành giả không lên được
địa vị nào cao hơn, thì ít nhất cũng hướng đến một cảnh
giới hạnh phúc.
Người thực sự có
trí
Thì công niệm thường xuyên
Là tưởng niệm Tăng bảo
Có tiềm năng vĩ đại
Niệm Giới
101. Người muốn tu pháp
niệm giới nên đi vào độc cư và tưởng niệm đến những
loại giới khác nhau của chính mình, trong những đức tính
đặc biệt của chúng như không bị rách v.v... Như sau:
"Quả vậy, các loại giới khác nhau của ta đều không
bị rách, vá, bị lủng, bị ố, bị lốm đốm, giải thoát,
được người trí khen ngợi, không liên hệ, đưa đến định"
(A. iii, 286). Cư sĩ niệm giới tại gia, tỷ kheo niệm
giới xuất gia.
102. Dù giới tại gia
hay xuất gia, nếu không bị phá huỷ ở chặn đầu hay chặn
cuối, không bị rách như miếng giẻ rách ở hai đầu, thì
giới ấy gọi là không bị rách. Nếu không một học
giới nào bị phá ở chặn giữa thì gọi là giới không
bị lủng, như miếng vải không bị đâm thủng ở giữa.
Khi học giới không bị vi phạm hai ba lần liên tiếp, gọi
là giới không bị vá như một con bò có một miếng
da khác màu ở lưng hay bụng. Khi giới không bị phá cùng khắp,
cách nhau từng thời khoản, thì gọi là giới không bị lốm
đốm như con bò có những đốm trên toàn thân.
103. Hoặc, nói chung, giới
không bị rách, bị lủng, bị vá, bị lốm đốm, là khi giới
ấy không bị tổn hoại do bảy hệ luỵ thuộc về dục
tính (Ch. I, đoạn 44) và do sân, hận, cùng những ác pháp
khác. (xem đoạn 59)
104. Chính những giới
ấy là giải thoát vì chúng giải toả khỏi sự nô lệ
cho dục ái. Chúng được người trí tán thán vì được
những bậc trí như đáng giác ngộ khen ngợi. Chúng không
liên hệ vì không liên hệ (aparàtthattà) với dục
và tà kiến, hoặc vì không thể có sự hiểu lầm (paràmattum)
rằng "Có khuyết điểm này trong giới của chư vị"
Chúng đưa đến định vì hỗ trợ cho định cận hành
và định an chỉ, hoặc cho định thuộc đạo và định thuộc
quả.
105. Khi hành giả tưởng
đến những giới của mình trong những đức tính đặc biệt
của chúng, là không bị rách, v.v... Thì ngay khi ấy, tâm vị
ấy không bị tham, sân, si ám ảnh, có được tính chất trực,
vì được cảm hứng từ giới: (A. iii, 286). Bởi vậy
khi hành giả đã nhiếp phục được những triền cái theo
cách đã mô tả (66), thì những thiền chi khởi lên trong một
tâm sát na. Nhưng do tính cách sâu xa của những đức đặc
biệt của giới, hoặc vì tâm hành giả bận tưởng đến
nhiều đức tính đặc biệt, thiền đạt đuợc chỉ là cận
hành định, không đạt đến định an chỉ.
106 . Khi chuyên tâm vào
việc niệm giới, thì hành giả có sự tôn trọng đối với
học pháp. Vị ấy sống hoà hợp với những bạn đồng phạm
hạnh. Vị ấy chuyên cần chào đón. Vị ấy không sợ tự
mình trách cứ mình v.v... Vị ấy thấy sự sợ hãi trong những
lỗi nhỏ. Vị ấy đạt đến viên mãn về tín, v.v... . Vị
ấy có nhiều hạnh phúc an lạc. Và dù không đạt đến quả
vị gì cao hơm ít nhất vị ấy cũng hướng đến một thiện
thú.
Người thật sự có
trí
Sẽ thường xuyên niệm giới
Vì việc này tốt đẹp
Với tiềm năng vĩ đại
Niệm Thí
107. Muốn tu tập niệm
thí nên chuyên bố thí một cách tự nhiên, thường cho và
san sẻ. Khởi đầu, nên có quyết định: "Từ nay trở
đi, lúc nào có người hiện diện để nhận, thì ta sẽ
không ăn dù chỉ một miếng, nếu không bố thí một cái
gì trước đó". Và ngay hôm ấy hành giả nên bố thí một
vật gì bằng cách san sẻ tùy phương tiện và khả năng, với
những người có những đức tính đặc biệt. Khi đã nắm
được tướng trong việc này, hành giả nên đi vào độc
cư và tưởng niệm đến sự bố thí của mình trong những
đức tính đặc biệt của nó là không có lòng tham v.v... Như
sau: "Thật sự là lợi lạc cho ta, thật là lợi ích lớn
cho ta, rằng trong cuộc đời bị ám ảnh bởi ô nhiễm của
lòng tham (biển lận) ta an trú với tâm không bị ô nhiễm bởi
tham. Ta bố thí một cách rộng rãi bàn tay rộng mở, thích
thú trong sự từ bỏ, mong được kẻ khác yêu cầu và vui mừng
được cho được san sẻ" (A. iii, 287)
108. Ở đây, thật
là lợi lạc cho ta: Ta nhất định được những lợi lạc
của một người bố thí mà đức Thế tôn đã khen ngợi như
sau: "Người cho mạng sống (bằng cách bố thí đồ ăn)
thì sẽ được mạng sống hoặc cõi trời hoặc cõi người"
(A. iii, 42) và "Một người thường bố thí thì
được nhiều người lui tới và mến mộ" (A. iii, 40),
và "một người bố thí thì luôn luôn được yêu mến,
theo định luật của bậc trí" (A. iii, 41), v.v...
109. Thật là lợi
ích lớn cho ta, lợi ích lớn ở chỗ ta đã được giáo
pháp, được thân người, lại được an trú với tâm không
ô nhiễm vì xan tham.... Vui thích bố thí và san xẻ.
110. "Trong cuộc
đời bị ám ảnh bởi ô nhiễm của lòng tham" nghĩa
là giữa những chúng sanh có tham tràn ngập. Ðời là chúng
sanh, có nghĩa đã được sinh ra. Tham là một trong những hắc
pháp làm hỏng bản tính trong suốt tự nhiên của tâm (xem A.
i, 10). Tham có đặc tính là không thể chịu nổi sự san
sẻ hạnh phúc cho người khác.
111. Ta an trú với
tâm không bị ô nhiễm bởi tham: tâm không có tham và những
ô nhiễm khác như sân, si v.v... Trong đoạn kinh: "Ta sống
đời tại gia với tâm giải thoát" (A. iii, 267; A. v,
331) v.v... Câu này được nói cho người thuộc dòng họ Sàkya
tên Mahànàmà, một người đắc dự lưu quả, khi vị
này hỏi về một chỗ trú cho tâm. Trong trường hợp này,
ý nghĩa là "Ta sống vượt qua tham". (sân, si, v.v...)
112. Bố thí một
cách rộng rãi: rộng rãi trong sự bố thí. Với bàn tay
rộng mở: với những bàn tay thanh tịnh, luôn luôn rửa sạch
để cho tặng quà một cách cẩn trọng bằng chính tay mình.
"Ta thích thú trong sự từ bỏ" là thích thú trong việc
chuyên tu hạnh xả ly (vessagga). Mong được người khác
yêu cầu: (yàcayoga) quen với sự được xin (yàcana-yogga).
Nếu đọc yàjayoga thì có nghĩa là
chuyên tâm vào (yutta) sự dâng cúng (vàja).
"Vui mừng được cho, được san sẻ", có nghĩa là vị
ấy suy nghĩ như sau: "Ta đem cho và san sẻ những gì ta
dùng, và ta thích cả hai điều ấy.
113. Khi hành giả tưởng
đến sự bố thí với những đức tính đặc biệt là khỏi
có những cấu uế của tham v.v... Thì" ngay khi ấy, tâm
hành giả không bị tham, sân si ám ảnh, được sự chất trực
do cảm hứng từ hạnh bố thí". (A. iii, 287)
Bởi thế, khi hành giả
đã nhiếp phục những triền cái theo cách đã nói (đ. 66),
thì những thiền chi khởi lên trong một sát na. Nhưng do
"sự sâu xa của những đức đặc biệt của bố thí,
hoặc do hành giả bận tưởng niệm những đức đặc biệt
nên thiền đạt đến không phải là định an chỉ mà chỉ
là định cận hành.
114. Khi một tỷ kheo
chuyên tâm tưởng niệm về bố thí, vị ấy đâm ra ưa bố
thí, thích sự vô tham, hành xử phù hợp với tâm từ, vô
uý. Vị ấy có nhiều hạnh phúc an lạc. Và dù không tiến
lên quả vị cao, ít nhất hành giả cũng hướng đến một
cảnh giới an lạc.
Người thực sự có
trí
Thì thường xuyên tưởng niệm
Công đức và bố thí
Ðầy tiềm năng mãnh liệt.
Niệm Thiên
115. Người muốn tu tập
niệm thiên cần phải có những đức tính đặc biệt về tín,
v.v... Với chư thiên làm chứng như sau: "Có chư thiên
thuộc cõi Tứ thiên vương thiên (devà càtumaha- rajikà),
chư thiên thuộc cõi tam thập tam (devà-tàavatimsà), Dạ
ma thiên, Ðâu suất thiên (tusità hài lòng), Hoá lạc
thiên (thích biến hoá nimmànarati). Tha hoá tự tại
thiên (paramita vasavatti), Phạm chúng thiên (Brahamakayikà)
có những chư thiên cao hơn thế nữa. Và chư thiên chúng
này có đức tin rằng, sau khi mạng chung ở cõi này, họ sẽ
tái sinh ở cõi kia, và đức tin ấy cũng có nơi ta. Và chư
thiên chúng ấy có giới... đa văn... Bố thí.. Trí tuệ, cho
nên khi mạng chung ở cõi này thì tái sinh ở cõi kia, và
trí tuệ ấy cũng có nơi ta. (A. iii, 287)
116. Tuy nhiên, trong kinh
nói: "Này Mahanàma, khi nào một thánh đệ tử niệm
tín, niệm giới, niệm văn, niệm thí, niệm tuệ của chính
mình và của chư thiên, thì khi ấy tâm vị ấy không bị
tham, sân, si ám ảnh... (A. iii, 287). Mục đích là để
chứng mimh rằng những đức đặc biệt về giới, v.v...
Nơi chính mình cũng là giới, v.v... Nơi chư thiên, lấy chư
thiên làm chứng, như Luận có nói: "Vị ấy tưởng niệm
những đức tính đặc biệt của mình, lấy chư thiên làm
chứng".
117. Khi hành giả niệm
tín, thí giới, văn, Tuệ của chư thiên, rồi niệm những
đức ấy nơi chính mình thì "tâm hành giả không bị dục
tham, sân, si ám ảnh được chánh trực, vì được cảm hứng
từ chư thiên" (A. iii, 288). Bởi vậy, khi hành giả
đã dẹp được những triền cái với cách đã nói (đoạn
66), những thiền chi khởi lên trong một tâm sát-na. Nhưng do
tính cách sâu xa của những đức tính v.v... Hoặc vì tâm
hành giả bận tưởng niệm nhiều đức đặc biệt, nên chỉ
đạt cận hành định, không đắc định an chỉ.
118. Khi một tỷ kheo
chuyên tâm tu tập niệm thiền, vị ấy được chư thiên thương
tưởng, có niềm tin sâu xa hơn có nhiều hạnh phúc an lạc.
Và dù không đắc quả gì cao, ít nhất vị ấy cũng hướng
đến một cảnh giới tốt đẹp.
Người thực sự có
trí
Thì việc làm thường xuyên
Là tưởng niệm chư thiên
Nhiều quyền năng an lac.
Tổng Quát
119. Ðể giải thích
chi tiết về những tưởng niệm này, sau câu "Khi ấy
tâm hành giả được sự chất trực, vì cảm hứng từ đấng
Toàn giác", được nói thêm rằng: "Này Màhànàma,
khi tâm của một thánh đệ tử chất trực thì ý nghĩa đem
lại cảm hứng cho vị ấy, và sự áp dụng pháp làm cho vị
ấy hân hoan. Do hân hoan sanh, hỷ sanh nơi vị ấy". (A.
iii, 285).
Câu ý nghĩa đem lại
cảm hứng cho vị ấy là sự hài lòng (hỷ túc) do ý nghĩa
sau đây được gợi lên: "Ðức Thế tôn là như vầy vì
người là bậc A-la-hán" (đoạn 2). Pháp đem lại cảm
hứng cho vị ấy là nói đến hỷ túc do kinh điển đem
lại. Sự thực hành pháp làm cho vị ấy hân hoan là nói đến
cả hai thứ hỷ túc. (xem MA. I, 175)
120. Và ở trường hợp
niệm thiên "có cảm hứng từ chư thiên", nghĩa
là tâm khởi lên trong giai đoạn đầu, cảm hứng từ chư
thiên hoặc tâm khởi lên trong giai đoạn sau cảm hứng từ
những đức tính đặc biệt giống như đức chư thiên,
đưa đến cảnh giới chư thiên (xem đ. 117)
121. Những tưởng niệm
này chỉ thành công ở những thánh đệ tử... Vì những đức
tính đặc biệt của đấng Thế tôn, của Pháp, của Tăng,
chỉ rõ đối với những vị thánh đệ tử vì họ có giới
không bị rách lủng, vá lốm đốm, có thí không ô nhiễm bởi
xan tham, và có những đức tính tương tự với đức tính
chư thiên.
122. Trong kinh Mahànàma
(A. iii, 285), những tưởng niệm này được Thế tôn
trình bày chi tiết chỉ cho một vị Dự lưu một chỗ trú
khi vị này hỏi về một chỗ trú.
123. Cũng thế, trong
kinh Godha chúng được giảng giải để dạy một Thánh
đệ tử nên tịnh tâm mình nhờ phương tiện các tùy niệm,
và do đó đạt đến những thanh tịnh cao hơn trong ý nghĩa
tối hậu như sau: Ở đây này các tỷ kheo, một Thánh đệ
tử niệm về đức Thế tôn như sau: "Ðức Thế tôn là
như vậy vì Ngài đã thành mãn... Tâm vị ấy có sự chất
trực khi tưởng niệm như vậy. Vị ấy đã từ bỏ, giải
thoát, nổi lên khỏi tham dục, tức năm dục. Có những hữu
tình đạt được thanh tịnh nhờ lấy niệm này làm chỗ
trú" (A. iii, 321)
124. Và trong kinh Sambàdhokàsado,
tôn giả Mahà- kaccàna giảng dạy những pháp tưởng
niệm được giảng là chứng đạt sự rộng mở làm cho
tâm được thanh tịnh, và điều này, nói một cách tuyệt
đối- chỉ hiện hữu nơi một Thánh đệ tử. "Chư hiền,
thật kỳ diệu thay, thật hy hữu thay, Thế tôn, bậc trí giả,
bậc kiến giả, bậc A-la-hán, chánh đẳng giác đã chứng
ngộ và đạt được sự mở rộng khỏi bị trói buộc, nhờ
vậy các loài hữu tình được thanh tịnh, vượt khỏi sầu
bi, chấm dứt khổ ưu, đạt đến chánh lý, chứng ngộ niết
bàn, đó là sáu tùy niệm xứ. Này chư hiền lấy cái này
làm đối tượng, ở đây một số loài hữu tình được
thanh tịnh (A. ii, 314-5).
125. Cũng vậy, trong
kinh Uposatha, sáu tùy niệm cũng vậy, trong kinh Uposatha
sáu tùy niệm được giảng giải để chỉ rõ sự vĩ đại
của giới Uposatha kể như một đề mục thiền khiến
tâm thanh tịnh, dành cho một Thánh đệ tử tuân giữ giới Upesatha
(tám trái giới): "Này Visàkhà, thế nào là Upesatha
của bậc thánh? Ðó là sự tuần tự làm cho thanh tịnh tâm
còn cấu uế vì những khuyết điểm ở đây, này Visàkhà,
một Thánh đệ tử niệm Phật." (A. i, 206)
126 Và trong sách mười
một Pháp khi một thánh đệ tử hỏi: "Bạch Thế tôn,
làm thế nào để an trú khi chúng con trú với nhiều cách
khác nau?" (A. v, 328) những pháp này được giảng
cho vị ấy để chỉ cách an trú như sau: "Này Mahànàma,
người có tín thì thành công, không phải người không có
tín. Người có tinh tấn... Người có niệm được an trú..
Người có định... Người có Tuệ, này Mahànàma, thành
công không phải người không tuệ. Sau khi đã tự mình an
trú trong trong nắm ấy, này Mahànàma ngươi nên niệm
đức Thế tôn. Ðức Thế tôn là như vậy vì Ngài là bậc
đã hoàn mãn (arahata) (A. v, 329-32)
127. Tuy nhiên, người
thường cũng có thể niệm sau này nếu có những đức tính
đặc biệt như giới thanh tịnh, v.v... Vì đù chỉ do nghe
nói, tâm hành giả cũng được an tịnh nhờ vậy những triền
cái lắng xuống. Trong niềm hoan hỉ tối thượng, hành giả
phát triển tuệ mà còn đắc quả A-la-hán như Trưởng lão Phussadeva
trú tại Kajakandhakàra
128 Một lần Trưởng lão
trông thấy hình ảnh Thế tôn do Màra biến hoá. Ngài
nghĩ: "Lành thay hình ảnh này, mặc dù còn tham, sân, si
huống nữa là sự tốt đẹp của đức Thế tôn khi Ngài
hoàn toàn không có tham, sân, si" và trưởng lão đạt
được hỉ với Thế tôn là đối tượng, và nhờ tăng trí
tuê, Ngài đắc quả A-la-hán.
Chương bảy gọi là
"Sáu tùy niệm" trong luận về tu tập Định, trong
Thanh tịnh đạo được soạn ra vì mục đích làm hoan hỉ
những người lành.
---o0o---
Mục lục
| 01 | 02
| 03 | 04
| 05 | 06
| 07 | 08
| 09 | 10
11 |
12
| 13 | 14
| 15 | 16
| 17 | 18
| 19 | 20
| 21 | 22
| 23
---o0o---
|
Thư
Mục Tác Giả |
---o0o---
Source: BuddhaSasana (www.budsas.org)
---o0o---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật ngày: 01-09-2002