Ðịnh
Bất Tịnh Quán
-ooOoo-
Ðịnh
Nghĩa Tổng Quát
1. Mười thứ bất tịnh
nơi thây chết không còn thần thức, đã được kể ra sau
những biến xứ, đó là: tướng phình trương, tướng xanh bầm,
tướng máu mủ, tướng bị nứt ra, bị gặm khói, bị rã rời,
bị phân tán, bị chảy máu, bị trùng ăn và tướng bộ
xương. (Ch. III, 105).
Tướng phình trương:
Thây bị trướng (uddhumàta) vì dần dần nở ra, phồng
lên sau khi chết, như một cái ống bệ bị gió thổ vào.
Thây bị trướng trông ghê tởm, đấy là một từ để chỉ
thây chết trong trạng thái ấy.
2. Tướng bầm xanh:
(vinìla) là có từng chỗ bị biến đổi màu sắc
trên thân thể. Cái gì xanh bầm thì xấu xí trông ghê tởm,
nên gọi là tướng xanh bầm (vinìlaka). Ðấy là danh từ
chỉ chỉ thây chết có những chỗ lốm đốm đỏ do thịt
bị loì ra và những chỗ lốm đốm trắng do mủ tích tụ lại,
nhưng phần lớn thì màu xanh đen, như thể được đắp bằng
một tấm vải màu xanh đen ở những chỗ có màu ấy.
3. Thây chảy mủ:
Ở những nơi bị nứt ra trên thân, mủ chảy ra gọi là
"cái ra mủ" (vipubbaka) Hoặc cái gì chảy mủ
(vipubba) là xấu (kucchita) vì ghê tởm, nên gọi
là tướng chảy mủ. Ðây là danh từ chỉ thây chết trong
trạng thái ấy.
4. Tướng nứt ra:
bị mở ra bằng cách cắt làm hai gọi là nứt (vicchidda).
Cái gì bị nứt gọi là tướng nứt ra (vicchiddata). Hoặc
cái gì nứt nẻ là xấu, vì ghê tởm, nên gọi là tướng nứt
nẻ, đây là một danh từ chỉ thây chết bị nứt ra ở chặn
giữa.
5. Tướng bị gặm
khói: bị chó, chồn v.v... ăn ở chỗ này chỗ kia bằng
nhiều cách, gọi là bị gặm khói (vikkhàyita). Hoặc,
cái gì bị gặm là xấu vì ghê tởm, nên gọi là tướng gặm
khói. Ðây là một danh từ chỉ thây chết trong trạng thái
ấy.
6. Tướng rã rời:
cái gì bị tung toé khắp nơi gọi là rã rời (vikkittam).
Cái gì rã rời gọi là tướng rã rời (vikkhittaka) Hoặc
cái gì là rã rời là xấu, vì ghê tởm, nên gọi là tướng
rã rời. Ðây là danh từ chỉ một thây chết bị tan rã ở
chỗ này chỗ kia theo kiểu " chỗ này một bàn tay, chỗ
kia một bàn chân, chỗ nọ cái đầu" (xem M i, 58)
7. Tướng phân tán
rã rời: thây bị chẻ ra, bị rã rời theo cách đã nói,
nên gọi là tướng phân tán rã rời. Ðây là danh từ chỉ
thây chết bị rã rời theo cách đã nói sau khi bị bổ ra với
một con dao làm thức ăn cho chim quạ.
8. Tướng máu chảy:
thây rỉ máu ra, vãi máu ra khắp nơi, gọi là tướng chảy
máu (lohitaka). Ðây là danh từ chỉ thây chết đầy những
vết máu rỉ ra.
9. Tướng trùng ăn:
Những con dòi gọi là trùng (puluva) thây lúc nhúc những
dòi gọi là tướng trùng ăn. Ðây là danh từ chỉ 1 thây chết
đầy những dòi.
10. Tướng bộ
xương: "atthika" là danh từ chỉ một cái xương
hoặc cả bộ xương.
11. Những tên kể trên
cũng dùng làm cho cả hai trường hợp: tướng khởi lên
do sự phình trương v.v... Làm nền tảng và thiền đắc được
do những tướng ấy.
Tướng
Phình Trương
12. Ở đây, khi một
thiền giả muốn tu tập thiền gọi là thiền về tướng phình
trương, bằng cách khởi lên tướng ấy nơi một thây chết
bị trướng, thì cần phải đến gần một bậc thầy theo cách
đã mô tả ở phần kasina đât, và học đề mục thiền
từ nơi vị ấy. Khi giảng đề tài thiền quán cho học
trò, vị thầy phải giải thích tất cả mọi sự, nghĩa là
những hướng để đi với mục đích đạt được tướng bất
tịnh nói rõ tính chất những tướng chung quanh, 11 cách để
nắm lấy tướng, quán sát con đường đi và đến, và kết
thúc bằng cách chỉ dẫn về sự đắc định. Khi hành giả
đã học kỹ, thì nên đi đến một trú xứ thuộc loại đã
mô tả mà sống ở đấy trong khi tìm tướng phình trương
khởi lên.
13. Trong lúc đó, nếu
nghe mọi người bảo ở cổng làng nào đó, trên con đường
nào đó, ở bìa rừng nào đó, hoặc ở dưới tảng đá hay
gốc cây nào đó hay trên bãi tha ma nào đó, có một tử thi
phình trương đang nằm, thì hành giả không được đi đến
đó ngay, như người nhảy xuống sông tại chỗ không có bến.
Vì tướng bất tịnh ấy bị đoanh vây bởi
14. Dã thú và phi nhân,
và hành giả có thể gặp nguy hiểm cho tánh mạng tại đấy.
Hoặc có thể rằng con đường đi đến chỗ ấy có qua một
cổng làng hay một hồ tắm hay một đồng ruộng đang được
dẫn nước, ở đây hành giả có thể gặp một sắc pháp
thuộc người khác phái đập vào mắt. Hoặc có thể thây
chết ấy là của một người khác phái, vì một thi thể phụ
nữ thì không thích hợp cho một hành giả phái nam, và ngược
lại. Nếu là thây mới chết, nó còn có thể trông đẹp nữa
là khác, do đó có thể nguy hiểm cho đời sống phạm hạnh.
Nhưng nếu hành giả tự xét rằng: "Ðiều này không
khó đối với ta" thì cứ việc đi đến đây.
15. Và khi đi, hành giả
phải nói với vị thượng toạ của tăng đoàn, hoặc với
một tỳ kheo có tiếng tăm.
16. Tại sao? Vì nếu tại
nghĩa địa, hành giả bỗng phát run lên cả tứ chi, hoặc cổ
họng nôn oẹ lên khi hành giả chạm xúc với những đối
tượng khó chịu như những hình tướng và âm thanh của phi
nhân, sư tử, cọp, v.v... Hoặc một cái gì khác xúc não
hành giả, thì người mà hành giả đã chào sẽ coi sóc dùm
y bát cho hành giả ở chùa, hành giả cho những tỳ kheo trẻ
hay người tập sự đến nơi hành giả.
17 Ngoài ra, một nghĩa
địa là nơi kẻ cướp có thể tụ họp vì cho rằng đólà
nơi an toàn cho chúng. Khi người ta đuổi bắt kẻ trộm, chúng
có thể để rơi những đồ vật gần vị tỳ kheo rồi chạy
trốn. Người ta có thể tóm lấy tỳ kheo, nghĩ rằng đã bắt
được kẻ trộm với tang vật, và làm cho vị ấy khốn đốn.
Khi ấy vị thượng toạ ở chùa sẽ giải thích cho mọi người
biêt, bảo rằng "Ðừng quấy rầy vị ấy, ông ta đã bảo
cho tôi biết trước khi đi đến chỗ ấy để làm công việc
đặc biệt này" Và vị trưởng lão sẽ cứu nguy cho tỷ
kheo. Ðây là lợi ích của sự ra đi có báo cho một người
nào biết.
18. Bởi thế, hành giả
nên thông báo cho một vị Tỷ kheo thuộc loại đã nói
trên, rồi ra đi mong mỏi trông thấy tướng ấy, tâm hân
hoan như một vị tướng sĩ dòng Sát đế lợi (Khattiya)
trên đường đi đến nơi làm lễ tấn phong, như người đi
dâng lễ ở một đài tế lễ, hay như một người nghèo
trên đường đến chỗ khai quật kho tàng giấu kín.
19. Và hành giả nên
đi đến đó với cách mà các Luận đã khuyến cáo như sau:
"Một người đang học tướng thi thể phính trướng đi
một mình không bầu bạn, với chánh niệm đã an trú không
gián đoạn, với các căn môn xoay vào trong, tâm không hướng
ngoại, quán sát con đường đi và về. Tại chỗ có tướng
thấy phình trướng được đặt, hành giả chú ý mọi tảng
đá hay ổ kiến hay cây, bụi cây, dây leo... ở đấy với
đặc điểm của chúng và để ý đến từng vật trong
tương quan với đối tượng quán bất tịnh kia. Khi đã làm
xong điều này, hành giả nhận định tính chất của tướng
tử thi đang phình trướng bằng sự kiện nó đã đạt đến
tính chất đặc biệt ấy (xem đ. 14). Ðoạn hành giả thấy
rằng tướng được nắm lấy một cách thích đáng, được
ghi nhớ thích đáng, được định nghĩa thích đáng bằng
màu sắc của nó, bằng phương hướng của nó, bằng giới
hạn của nó, bằng những chỗ lồi của nó, bằng những chỗ
lõm của nó và tất cả xung quanh.
20. Sau khi đã nhận định
đúng mức tướng ấy, ghi nhớ đúng, định nghĩa đúng,
hành giả đi một mình không bầu bạn, với chánh niệm đã
an trú không gián đoạn, các căn xoay vào trong, tâm không hướng
ngoại, xem xét con đường đi và đến, khi đi hành giả quyết
định rằng bước đi của mình đang hướng về tướng ấy,
khi ngồi, hành giả soạn một chỗ ngồi hướng về tướng
ấy.
21. Mục đích, lợi
ích của sự định rõ tính chất những vật xung quanh là
gì? Có mục đích là khỏi bị lừa dối (ảo tưởng). Nắm
lấy tướng theo mười một cách kia có mục đích gì? có lợi
gì? Nắm lấy tướng theo mười một cách có mục đích là
buộc tâm lại một chỗ, có lợi ích là buộc tâm lại một
chỗ. Xem xét con đường đi và đến có mục đích gì? có lợi
ích gì? Có mục đích là theo dõi tâm, có lợi ích là theo
dõi tâm.
22. Khi hành giả đã an
trú niềm kính trọng đối với đối tượng do thấy lợi
ích của nó và do xem nó như một kho tàng và yêu mến nó,
hành giả giữ tâm trên đối tượng ấy: "Chắc chắn bằng
cách này ta sẽ khỏi già chết". Hoàn toàn ly dục, ly bất
thiện pháp hành giả chứng và trú sơ thiền... Do viễn ly
sanh. Hành giả đã đắc sơ thiền thuộc sắc giới. Chỗ trú
của hành giả là sanh phạm trú, và đó là trường hợp điển
hình của công đức tu tập thiền.
23. Bởi thế nếu hành
giả đến nghĩa địa để trắc nghiệm tình trạng điều
phục tâm của mình, thì nên đánh chuông triệu tập tăng chúng
lại trước khi đi. Nếu đi cốt để tu tập đề mục quán
tưởng, thì nên đi một mình không bạn không từ bỏ đề
mục căn bản của mình và luôn duy trì nó trong tâm mạng
theo một cái gậy để tránh chó dữ v.v... Bảo đảm chánh
niệm trong gián đoạn bằng cách khéo an trú nó, với tâm
không hướng ngoại, vì đã chắc chắn rằng các căn với
ý căn là thứ 6, đều hướng vào trong.
24. Khi ra khỏi tu viện,
hành giả nên chú ý cái cổng; "Ta đã đi ra hướng ấy,
do cổng ấy". Sau đó hành giả nên định rõ con đường
mình đi: "Con đường này đi về hướng đông... Tây...
Bắc... Nam..." hoặc "Con đường đi về một hướng
trung gian" và "ở chỗ này, con đường đi về tay trái,
chỗ này nó đã rẽ tay phải" và "Chỗ này có một
tảng đá, chỗ này một tổ kiến, chỗ này một cây lớn,
chỗ này một bụi cây, chỗ này một cây leo". Hành giả
nên đi đến nơi có tướng bất tịnh, trong khi đi định rõ
con đường mình đi bằng cách ấy.
25. Và hành giả không
nên đ?n gần nơi ấy theo chiều gió thổi, vì làm như vậy,
mùi thối của tử thi tạt vào mũi, hành giả có thể bị
đảo lộn óc não, hay thổ đồ ăn ra, hoặc hối hậ vì đã
đến, nghĩ rằng: "Ôi, thật là một nơi để tử thi ghê
gớm, ta đã gặp phải" Bởi thế thay vì đền gần nơi
ấy theo chiều gió, hành giả nên đi ngược chiều gió. Nếu
hành giả không thể đi bằng một con lộ ở dưới chiều
gió. Vì có chướng ngại vật - thì nên bịt lỗ mũi lại với
chéo y mà đi. Ðấy là những phận sự trong lúc đi.
26. Khi hành giả đã đến
nơi bằng cách ấy, không nên nhìn ngay vào tướng bất tịnh,
mà nên định rõ phương hướng. Vì nếu đúng ở một hướng
nào đó, thì đối tượng hiện ra không rõ ràng cho hành giả,
và tâm hành giả không được dễ sử dụng. Bởi thế, hành
giả nên đúng chỗ nào đối tượng hiện ra rõ nhất, tâm
sẵn sàng nhất. Và hành giả cũng không được đứng ở chỗ
ngược gió hay chỗ theo chiều gió của tử thi. Vì nếu đứng
chỗ ngược gió thì bị mùi thối của tử thi quấy rối
tâm hành giả, còn nếu đứng chỗ xuôi gió thì có phi nhân
ở đấy, hành giả có thể bị chơi xấu vì phi nhân tức
giận. Bởi thế, nên xoay chuyển một chút và đừng đứng
hoàn toàn theo chiều gió.
27. Cũng không được
đứng quá xa hay quá gần, hay đứng quá gần phía đầu hay
phía chân. Ðứng quá xa thì đối tượng không thể được
trông rõ. Ðứng quá gần thì hành giả có thể đâm sợ
hãi. Nếu đứng ngay phía đầu hoặc phía chân, thì tướng
bất tịnh không hiện rõ cho hành giả một cách đồng đều
toàn diện. Bởi thế, hành giả nên đứng đối diện với
khoảng giữa tử thi ở một nơi thuận tiện để nhìn.
28. Rồi hành giả nên
nhận định những đặc tính của các tướng xung quanh theo
cách đã nói, như "Tại chỗ tướng tử thi phình trương
được đặt, vị ấy chú ý có tảng đá.. Hay dây leo với
tướng của nó".
29. Sau đây là những
chỉ dẫn để định tính chất của chúng. Nếu có một tảng
đá nằm trong tầm mắt cạnh tướng bất tịnh, hành giả
nên nhận rõ nó như thế này: "Tảng đá này cao hay thấp,
nhỏ hay lớn, màu nâu hay đen hay trắng, dài hay tròn".
Sau đó hành giả nên quan sát những vị trí tương quan như
sau: "Tại chỗ này đây là tảng đá, đây là tướng bất
tịnh, đây là tướng bất tịnh, đây la tảng đá".
30. Nếu có một tổ kiến,
hành giả nên nhận rõ nó như sau: "Cái này cao hay thấp,
nhỏ hay lớn, nâu hay đen hay trắng, dài hay tròn". Sau đó
hành giả hãy quan sát những vị trí tương quan như sau:
"Tại chỗ này, đây là tổ kiến, đây là tướng bất
tịnh".
31. Nếu có một cái
cây, hành giả nên định nó như sau: "Ðây là một cây
bằng hay cây kacchaka hay cây táo, cao hay thấp, nhỏ hay lớn,
đen hay trắng". Sau đó nên quan sát những vị trí tương
quan như: "Tại chỗ này, đây là cây, đây là tướng bất
tịnh".
32. Nếu có một bụi
cây, hành giả nên định rõ nó... ( như trên)
33. Nếu có một cây
leo, hành giả nên định rõ nó như sau: "Ðây là một
cây bí rợ hay một cây bầu hay một cây leo màu nâu hay màu
đen hay một cây leo hôi thối". Sau đó nên quan sát những
vị trí tương quan như sau: "Tại chỗ này, đây là một
cây leo, đây là tướng bất tịnh; đây là tướng bất tịnh,
đây là cây leo".
34. Lại còn với tướng
đặc biệt của nó và trong tương quan với đối tượng quán
(đ.19): điều này đã được bao gồm trong nh?ng gì được nói
ở trên, bởi hành giả "định tính nó do tướng đặc
biệt của nó", khi vị ấy định rõ như vậy nhiều lần,
và "định rõ nó trong tương quan với đối tượng"
là khi hành giả định rõ bảng cách phối hợp từng đôi một
như "đây là tảng đá, đây là tướng bất tịnh; đây
là tướng bất tịnh, đây là tảng đá".
35. Sau khi đã làm như
vậy, hành giả lại phải để ý cái sự kiện rằng tướng
ấy có một bản chất đặc biệt, có trạng thái riêng của
nó là bị phình trương, một tướng không chung cùng với bất
cứ gì khác, vì đã được nói "vị ấy định rõ nó bằng
sự kiện rằng nó đã đạt đến tính chất đặc biệt
kia". Có nghĩa rằng tướng bất tịnh nên được định
rõ tùy theo tính chất cá biệt của nó theo bất chất riêng
của nó, đó là phình ra, cái trương ra". (vanita)
Sau khi định rõ nó như
vậy, hành giả nên nắm lấy tướng theo 6 cách dưới đây,
nghĩa là (1) theo màu sắc của nó, (2) theo đặc điểm của
nó, (3) theo hình dáng, (4) phương hướng, (5) định xứ, (6)
giới hạn của nó. Bằng cách nào?
36. (1) Hành giả nên định
rõ tướng theo màu sắc như: "Ðây là tử thi của một
người có da đen, da trắng hay da vàng"
37. (2) Thay vì đinh rõ
tướng do đặc điểm đàn ba hay đàn ông, hành giả nên định
rõ theo đặc điểm quá nó như: "Ðây là thi thể của một
người trẻ, một người trung niên, một người già"
38. (3) Theo hình dáng
hành giả định rõ hình dáng của tướng phình trương như:
"Ðây là hình dáng cái đầu, đây là hình dáng cái cổ,
đây là hình dáng cái bụng, đây là hình dáng lỗ rốn, đây
là hình dáng cái háng, đây là hình dáng bắp vế, đây là
hình dáng trái chân, đây là hình dáng bàn chân".
39. (4) Hành giả nên định
rõ phương hướng của tướng bất tịnh như sau:
""Có hai hướng trong tử thi này, đó là hướng dưới
từ lỗ rốn trở xuống, và hướng trên từ lỗ rốn trở
lên". Hoặc định phương hướng rằng: "Ta đang đứng
hướng này, tướng bất tịnh ở hướng kia".
40. (5) Hành giả nên định
rõ tướng bất tịnh bằng định xứ của nó như sau:
"Bàn tay có chỗ này, bàn chân chỗ này, cái đầu chỗ
này, bụng chỗ này" hoặc "Ta đứng chỗ nầy tướng
bất tịnh ở chỗ kia".
41. (6) Hành giả nên định
giới hạn của tướng bất tịnh như sau: "Thì thế nầy
được giới hạn ở dưới bởi những gót chân, ở trên bởi
những đầu sợi tóc, tất cả xung quanh bởi làn da; cái khoảng
không gian mà tử thi nầy chiếm cứ như vậy có thể chất
đầy 32 thân người. Hoặc, hành giả có thể định giới hạn
như sau: "Ðây là ranh giới bàn chân, đây là rang giới
cái đầu, đây là ranh giới phần giữa thân thể", hoặc
hành giả có thể định rõ giới hạn từng phần của tử
thi mà vị ấy đã quan sát, như: "Chỉ chừng ấy phần
của thi thể phình trướng là như vậy".
42. Tuy nhiên, môt thi thể
phụ nữ không thích hợp cho một nam nhân quán sát, và ngược
lại, vì đối tượng không hiện rõ nơi thi thể một người
khác phái, mà chỉ trở thành một cái dịp cho sự khích động
sai lạc của tâm Luận giải về Trung Bộ nói: "Ngay cả
khi thi thể đang tàn tạ, một phụ nữ cũng xâm nhập tâm
người đàn ông và ở mãi tại đấy". Cho nên, tướng
bất tịnh chỉ nên được quán theo 6 cách trên mà thôi, và
ở nơi một thi thể của người cùng phải.
43. Nhưng khi một người
đã thực tập đề mục này dưới thời những đấng giác
ngộ đời trước, đã tu khổ hạnh, đã đập tan tứ đại,
phân biệt các hành, đã định rõ danh sắc, diệt trừ ngã
tưởng, đã làm xong phân sự sa môn, đã sống đời phạm hạnh
đã tu những gì cần tu, khi người ấy có sẳn hột giống
từ bỏ các hành, có tri kiến thuần thục và ít cấu uế
phiền não, thì tợ tướng xuất hiện cho người ấy ngay tại
chỗ trong khi vị ấy đang nhìn. Nếu tợ tướng không xuất
hiện cách đó, thì sẽ xuất hiện khi vị ấy quán tướng
theo 6 cách:
44. Nhưng nếu tợ tướng
cũng không xuất hiện cho hành giả cả khi quán theo 6 cách,
thì nên quán tướng trở lại theo 5 cách khác nữa: (7) Những
khớp xương, (8) những chỗ mở ra, (9) những chỗ lồi, (10)
những chỗ lõm và (11) tất cả phía xung quanh.
45. Ở đây, (7) những
chỗ nối chính là 180 chỗ nối. Nhưng làm sao định rõ được
180 chỗ nối trong một tử thi phình trướng? Do đó hành giả
có thể định rõ chúng qua 14 khớp xương chính là 3 khớp
ở cánh tay phải, 3 ở cánh tay trái, 3 ở ống chân phải, 3
ở ống chân trái, một ở khớp xương cổ, một khớp
xương ở thắt lưng.
46. (8) Những chỗ mở
ra: Một chỗ "mở" là chỗ hổng giữa cánh tay và
hông, chỗ hông giữa các ống chân, chỗ hông của bụng, chỗ
hông của lỗ tai. Hành giả nên định rõ các chỗ hổng như
vậy. Hoặc là định rõ bằng cách nhìn trạng thái mở mắt
nhắm mắt, mở miệng hay ngậm miệng của tử thi.
47. (9) Chỗ lỏm: Hành
giả nên định rõ bất cứ chỗ lõm nào trên thân thể như
những lỗ con mắt, bên trong miệng, hay dưới cổ. Hoặc định
rõ chỗ lõm như sau: "Ta đang đứng tại một nơi lõm
vào, thi thể đang ở một nơi lồi".
48. (10) Chỗ lồi: Hành
giả nên định rõ chỗ nào chỗ lên trên thi thể như đầu
gối, ngực hay trán. Hoặc: "Ta đang đứng ở một chỗ
lồi, tử thi đang ở chỗ lõm".
49. (11) Xung quanh: Toàn
thể thi thể phải được định rõ ở xung quanh. Sau khi làm
việc trên toàn tử thi bằng tri kiến, hành giả nên trú
tâm như sau: "Tướng phinh trương, tướng phình trương"
vào bất cứ chỗ nào của tử thi hiện rõ cho hành giả. Nếu
nó chưa hiện rõ, và nếu có một cường độ mãnh liệt của
tướng phình trương nơi bụng, thì hành giả nên trú tâm như
sau: "Tướng phình trương, tướng phình trương" nơi
bụng.
50. Bây giờ, về cầu:
"Vị ấy nên chú tâm làm cho tướng (bất tịnh) được
nắm lấy một cách thích đáng" v.v... được giải thích
như sau. Hành giả nên nắm lấy tướng một cách toàn triệt
nơi tử thi theo cách đã tả. Vị ấy nên chú tâm đến tướng
ấy với niệm được an trú. Hành giả nên lưu ý rằng tướng
được ghi nhớ một cách thích đáng, định rõ một cách
thích đáng, bằng cách lập đi lập lại công việc nhiều lần.
Ðứng một nơi không quá xa không quá gần tử thi hành giả
nên mở mắt nhìn một trăm lần, một ngàn lần, (nghĩ)
"Bất tịnh là tướng phình trương", và nhắm mắt
lại tưởng đến tướng ấy.
51. Khi hành giả làm thế
nhiều lần, sơ tướng được vị ấy nắm lấy một cách
thích đáng. Khi nào được gọi là thích đáng? Tức là khi
nào tướng ấy hiện ra trước mắt dù hành giả mở mắt
nhìn hay nhắm mắt quán, như vậy gọi là học tướng đã
được nắm lấy một cách thích đáng.
52. Khi hành giả đã nắm
lấy sơ tướng như vậy, đã đinh rõ như vậy, khi ấy nếu
hành giả không thể kết thúc sự tu tập ngay tại chỗ,
thì có thể trở về tại trú xứ của mình, một mình, theo
cách như đã đến, không bầu bạn, duy trì để mục quán tưởng
trong tâm với chánh niệm khéo an trú, với tâm không hướng
ngoại do vì các căn đã được xoay vào trong.
53. Khi hành giả rời
khỏi nghĩa địa, nên định rõ con đường về như sau:
"Con đường, ta trở về đi về hướng đông, hướng tây...
Bắc,... Nam" hoặc"Nó đi về hướng trung gian",
hoặc "Tại chỗ này nó rẽ tay trái, tại chỗ nầy nó
rẽ tay phải" và "Tại chỗ này có một tảng đá,
chỗ này một tổ kiến, tại chỗ này một cái cây, chỗ
này có một bụi cây, chỗ này có một cây leo".
54. Khi đã đinh rõ con
đường trở về, và khi về tại trú xứ, đi kinh hành qua lại,
hành giả nên để ý làm cho hành qua lại, hành giả nên để
ý làm cho bước kinh hành cũng hướng về nới ấy, nghĩa là
hành giả nên đi kinh hành trên một thửa đất đối diện
với hướng có tướng bất tịnh kia. Và khi ngồi, hành giả
cũng phải soạn một chỗ ngồi hướng về nó.
55. Nhưng nếu có một
chướng ngại vật ở hướng ấy, như một vũng lấy, một
cây lớn hay một hàng giậu hay ao đầm nếu hành giả không
thể đi kinh hành qua lại trên một mãnh đất đối diện
hướng ấy, nếu không soạn được một chỗ ngồi như vậy
vì không có chỗ để ngồi, thì hành giả có thể kinh hành
hay ngồi tại chỗ nào cũng được miễn là tâm hành giả
phải để về hướng ấy.
56. Bây giờ, đến lượt
câu hỏi: "Mục đích, lợi ích của sự định rõ tính
chất những tướng xung quanh là gì?" Và câu trả lời
đã được nêu: Có mục đích là khỏi bị lừa dối có ý
nghĩa như sau. Nếu người nào đi phi thời đến chỗ có tướng
thây phình trương, và mở mắt để nắm lấy tướng bằng
cách định tính những tướng xung quanh, thì vừa khi hành giả
mới nhìn một cái, tử thi có vẻ như đang đứng lên, hăm
doạ, và đuổi theo mình, và khi thấy đối tượng kỳ dị
và đáng sợ ấy, tâm hành giả run lên, giống như người bị
điên cuồng, bị cơn hãi hùng kinh khiếp tóm lấy, và tóc
trên đầu vị ấy dựng ngược lên. Vì trong số 38 đề mục
quán được trình bày trong kinh điển, không có đối tượng
nào đáng sợ hãi như đối tượng này. Có một vài người
đã mất thiền trong khi quán đề mục này. Tại sao? Vì nó
quá kinh khiếp.
57. Bởi thế, hành giả
cần phải vững vàng. Khéo an trú chánh niệm, hành giả nên
trừ sợ hãi bằng cách này: "Không bao giờ có thây chết
đứng dậy đuổi theo ai cả. Nếu cái cục đá hay cây leo
ở cạnh tử thi kia mà đến đây được, thì có lẽ tử
thi cũng đến được đấy, song chính vì tảng đá hay cây
leo kia không đến được, do vậy tử thi cũng không đến
được. Sở dĩ ta thấy ra như vậy là do tưởng mà thành,
do tưởng tạo tác nên. Hôm nay thiền của bạn đã xuất hiện
với bạn. Ðừng sợ, này Tỳ kheo". Hành giả nên cười
cho nó qua đi, và hướng tâm đến tướng ấy. Với cách ấy
hành giả sẽ đạt đến sự phân biệt. Ðây là ý nghĩa câu:
"Ðịnh rõ tướng xung quanh có mục đích là khỏi bị lừa
dối".
58. Thành công trong việc
nắm lấy tướng theo 11 cách có nghĩa là buộc chặt đề mục
thiền quán. Vì chính cái sự mở mắt và nhìn làm điều kiện
cho sự sanh khởi sơ tướng, và trong khi hành giả luyện tập
tâm mình như vậy, tợ tướng khởi lên, và khi luyện tập
tâm đối với tợ tướng, hành giả đắc định an chỉ.
Khi đã vững chắc với an chỉ, hành giả tu tập, tuệ giác
và đắc A-la-hán quả. Do đó nói: nắm lấy tướng theo 11 cách
có mục đích là buộc tâm một chỗ.
59. Sự quan sát con đường
đi về có mục đích là theo dõi tâm: Xem xét con đường đi
và về để theo dấu đề mục thiền định.
60. Vì nếu Tỷ kheo
đang đi trên đường với đề mục thiền quán của ông,
mà gặp người giữa đường hỏi: "Bạch đại đức, hôm
nay ngày gì?" hoặc hỏi về Pháp hoặc chào, thì tỷ
kheo không nên cứ việc im lặng tiếp tục đi, vì nghỉ:
"Ta đang bận một đề tài thiền quán", mà phải trả
lời về Pháp, hay nói "Tôi không biết", nếu không
biết thật, và phải trả lời một sự chào hỏi lễ phép.
Khi hành giả làm việc này, thì tướng mới khởi lên được
bỗng lặn mất. Nhưng dù tướng có biến mất hành giả cũng
vẫn phải trả lời ngày tháng, khi được hỏi về ngày
tháng, nếu không biết, thì phải trả lời "Tôi không
biết" (về pháp), nếu biết, thì phải giải thích một
cách cặn kẽ, và khi được chào phải đáp lại. Cũng vậy,
khi gặp khách tỷ kheo thì phải tiếp đãi, và tất cả được
phận sự khác trong các Kiền độ cần phải được thi hành,
nghĩa là phận sự đối với chánh điện, đối với khoảnh
đất dưới cây bồ đề, đối với ngôi nhà làm lễ bố
tát, đối với nhà ăn và nhà tắm, với giáo thọ sư, y chỉ
sư, khách khứa, những Tỷ kheo sắp đi v.v...
61. Và cái tướng mới
đạt được cũng bị tan mất khi hành giả làm các công việc
này. Khi hành giả muốn đi lại một lần nữa nghĩ rằng:
"Ta sẽ quán tướng bất tịnh", thì bỗng thấy
mình không thể đi đến nghĩa địa nữa, vì chỗ ấy đã bị
xâm chiếm bởi phi nhân hay dã thú, hoặc thây chết đã biến
mất. Vì một thi thể phình trướng chỉ kéo dài khoảng một
hai ngày rồi biến thành một cái thây bầm xanh. Trong tất cả
những đề mục quán, không có cái nào khó gặp như đề mục
này.
62. Bởi thế, khi tướng
đã biến mất cách ấy, thì Tỳ kheo hãy ngồi tại chỗ nghỉ
đêm, hay chỗ nghỉ ngày của mình, và trước tiên quán sát
con đường đi và đến, cho tới chỗ hành giả thực sự ngồi
kiết già, tưởng như sau "Ta đã đi ra khỏi chùa, theo một
con đường đưa đến hướng như vậy, ta đã quay trái tai một
nơi như vậy, quay phải tại chỗ như vậy, tại một nơi trên
đường đi có một tảng đá, một nơi có tổ kiến, một
cây lớn, một bụi cây, một cây leo... Sau khi đi theo con
đường như vậy, ta đã thấy tướng bất tịnh tại một
nơi như vậy, ta đứng đấy mặt hướng về hướng như vậy,
quan sát các tướng xung quanh như vậy, ta nắm tướng bất tịnh
bằng cách nầy; ta rời nghĩa địa ở hướng như vậy, làm
những việc như vậy, và bây giờ, ta đang ngồi tại chỗ này".
63. Trong khi hành giả
ôn lại như trên, tướng trở nên ró rệt và hiện ra như
thể được đặt trước mắt hành giả, đề mục quán tưởng
trở lại như trước. Bởi thế mà nói: "Sự ôn lại
con đường đã đi và đến có mục đích là để theo dấu
tâm".
64. Bây giờ về câu:
"Khi hành giả đã an trú niềm kính trọng đối với nó
bằng cách thấy những lợi lạc của nó, xem nó như kho tàng,
yêu mến nó, thì hành giả buộc tâm mình trên đối tượng
ấy". Ở đây, sau khi đã đắc thiền bằng cách luyện
tập tâm quán tướng bất tịnh nơi thi thể phình trướng,
hành giả hãy tăng trưởng tuệ giác với thiền làm nhân gần,
và hãy thấy những lợi ích như sau: "Chắc chắn bằng
cách này ta sẽ thoát khỏi già chết".
65. Cũng như một người
nghèo được một kho tàng ngọc báu sẽ giữ gìn yêu mến
nó, cảm thấy kính trọng đối với như một người biết
được giá trị của nó, nghĩ rằng: "Ta đã được một
cái gì rất khó được". Cũng thế, vị Tỳ kheo này
hãy giữ gìn tướng bất tịnh kia, yêu mến nó và kính trọng
nó như một kẻ biết được giá trị của nó, nghĩ rằng:
"Ta đã được đề giá trị của nó, nghĩ rằng "Ta
đã được đề mục quán này" một cái gì thực sự
khó được, như kho báu rất đáng giá đối với một người
nghèo. Bởi vì một người mà để mục quán là tứ đại,
thì phân biệt bốn đại chủng ở ngay trong mình, một người
quán hơi thở thì phân biệt hơi gió nơi lỗ mũi mình, và một
người quán Kasina (biến xứ) thì làm một Kasina và
khai triển nó tùy thích. Những đề mục quán này đều dễ
dàng có được. Nhưng cái đề mục thây phình trướng thì
chỉ kéo dài một hoặc hai ngày, sau đó nó biến thành một
cái thấy bầm xanh. Không có đề mục nào khó gặp hơn đề
mục này. Tại chỗ nghỉ ban đêm và chỗ nghỉ ban ngày
hành giả nên buộc tâm vào đấy như sau: "Tướng bất
tịnh của thây phình trướng" Và hành giả nên quán tưởng
tướng ấy, đem nó vào tâm và đánh mạnh vào nó với tầm
nhiều lần.
66. Khi hành giả làm như
vậy, tợ tướng khởi lên. Ðây là sự khác nhau giữa hai tướng.
Học tướng (tức là thủ tướng theo "Thắng pháp tập
yếu") thì xuất hiện như một cảnh tượng kỳ dị
hãi hùng kinh khiếp, còn tợ tướng thì giống như một người
có tay chân to lớn nằm dài sau khi ăn no.
67. Cùng lúc với tợ tướng
xuất hiện, tham dục nơi hành giả tan biến nhờ không còn
chú ý đến đối tượng bên ngoài. Và do đó từ bỏ sự
chấp thuận đối với dục, sân nhuế cũng được diệt trừ,
như mủ cũng đi theo máu. Cũng vậy, hôn trầm thuỵ miên cũng
được trừ khử tinh tần, trạo cử được từ bỏ nhờ tu
tập những đối tượng an tịnh không gây hối hận, và
hoài nghi đối với bậc Ðạo sư chỉ dạy con đường, hoài
nghi về con đường, và kết quả của con đường, cũng được
từ bỏ nhờ thực chứng kinh nghiệm về thánh quả. Như vậy,
cả năm triền cái được từ bỏ. Và có sự hiện diện của
tầm với đặc tính hướng tâm đến đối tượng, tứ nhấn
mạnh trên đối tượng, hỉ do đạt được thắng giải,
khinh an phát sinh nơi một người có tâm hoan hỉ, lạc với
khinh an kể như tướng của nó, và sự nhất tâm có lạc
là tướng của nó, vì định phát sanh nơi một người mà
tâm được an lạc. Như vậy, những thiền chi phát sanh.
68. Như thế cận hành
định, một đặc điểm của sơ thiền cùng lúc cũng sinh khỏi
nơi hành giả. Tất cả những gì sau đó cho đến khi đắc
định an chỉ trong sơ thiền và an trú trong đó, cần được
hiểu như đã trình bày dưới đề mục biến xứ đất.
69. Về tướng thi thể
bầm xanh và những tướng khác: tất cả trình bày ở đoạn
19, bắt đầu "Người nào đang học tướng bất tịnh về
thi thể phình trướng hãy đi một mình không bầu bạn, với
chánh niệm an trú không gián đoạn v.v... đều áp dụng cho
những tướng bất tịnh khác, chỉ cần thay đổi danh từ
"phình trướng" bằng danh từ thích hợp như:
"người học tướng bất tịnh về thi thể xanh bầm..""người
học tướng bất tịnh về thi thể nung mủ..." Nhưng sự
khác biệt như sau:
70. (Tướng bầm xanh)
Tướng bầm xanh cần được tâm niệm như sau: "Tướng
bầm xanh của thây chết thật ghê tởm, ghê tởm là tướng
bầm xanh". Ở đây, sơ tướng xuất hiện có màu loang lỗ,
nhưng tợ tướng xuất hiện có màu sắc nào nổi bậc nhất.
71. (Tướng có mủ) Tướng
nung mủ cần được tâm niệm như sau: "Tướng nưng mủ
ghê tởm, tướng nưng mủ ghê tởm". Ở đây, sơ tướng
xuất hiện trông như đang rỉ mủ chảy còn tợ tướng thì
có vẻ bất động và an tĩnh.
72. (Tướng thây bị chặt
đôi). Thây bị chặt đôi được thấy trên bãi chiến địa
hay trên một khu rừng của kẻ cướp hay trên một nghĩa địa
ở đó những kẻ cướp bị vua ra lệnh chém, hoặc trong một
khu rừng ở đây có người bị sư tử và cọp xé xác. Bởi
thế, khi hành giả đi đến chỗ ấy, nếu thi thể hiện rõ
ngay khi vừa chú ý mặc dù nó đang nằm ở nhiều chỗ, thì
tốt. Nếu không, hành giả không được lấy tay sờ vào thấy
chết, vì làm thế hành giả sẽ đâm ra quen thuộc với cảnh
ấy ( như một người thường thiêu đốt tử thi). Vị ấy
nên bảo một chú tiểu hay người tập sự tu khổ hạnh,
hay người nào khác, nhặt thi thể ráp lại ở một nơi. Nếu
không thể tìm ra người nào làm việc ấy, hành giả nên
dùng cây gây để ráp lại những phần thi thể, làm sao cho
chúng chỉ cách xa nhau một ngón tay. Sau khi ráp thây lại như
thế, hành giả hãy tâm niệm như sau: "Tướng thây đứt
lìa thật ghê gớm, ghê tởm thấy đứt lìa". Ở đây sơ
tướng xuất hiện như thế bị chặt ở chặn giữa, còn tợ
tướng thì trông như vẫn nguyên lành.
73. (Tướng thấy bị gặm
khói) Cần được tâm niệm: "Tướng thi thể bị gặm
khói thật là ghê tởm, ghê tởm là tướng thây bị gặm
khói". Sơ tướng xuất hiện như thể bị gặm chỗ nầy
chỗ kia, còn tợ tướng thì trông nguyên vẹn.
74. (Tướng thi thể rã
rời) Sau khi đã ráp thi thể lại gần như đã nói trên, tướng
rã nên được tâm niệm như sau: "Tướng bất tịnh của
thây rã rời, thây rã rời thật bất tịnh". Ở đây, sơ
tướng có những khe hở nổi bật còn tợ tướng thì có vẻ
toàn vẹn.
75. (Tướng bị cưa xẻ
và phân tán) Tướng bị cưa xẻ và phân tán được tìm thấy
tại những nơi đã nói ở phần tướng thây bị chặt đôi.
Bởi thế sau khi đến đấy ráp lại như đã nói trên, hành
giả hãy tâm niệm như sau: "Tướng phân tán cưa xẻ thật
ghê tởm, ghê tởm là thi thể bị cưa xẻ phân tán".
Ở đây sơ tướng hiện rõ những chỗ hở của vết thương,
nhưng tợ tướng thì nguyên vẹn.
76. (Thây chảy máu) Tướng
chảy máu được tìm thấy nơi những vết thương mà nạn
nhân bị trên chiến trường v.v... Hay từ những chỗ tay chân
đã bị cưa đứt. Khi thấy như thế hành giả hãy tâm niệm
"Tướng chảy máu ghê tởm, ghê tởm là thân chảy
máu". Ở đây, học tướng xuất hiện như thế đang di
động, giống như một cai cờ đỏ bị gió lay, còn tợ tướng
thì tĩnh.
77. (Tướng trùng ăn)
Sau hai hoặc ba ngày, từ chín lỗ bài tiết của thi thể
tuôn ra một loại dòi bọ, và khối dòi nằm ở đó như một
đống lúa hay cơm, lớn bằng cả cái thân thể dù đó là
thân thể của một con chó, con chồn hay người ta, hay bò,
trâu, voi, ngựa, trăn, hay bất cứ con gì, tướng ấy cần
được quán như sau: "ghê tởm là tướng trùng ăn, ghê
tởm là tướng trùng ăn". Vì tướng đã khởi lên cho
trưởng lão Cùlapiadapàtika- Tissa do thây của một
con voi chết tại Kàladìghavàpi. Ở đây học tướng
xuất hiện có vẻ đang di động, nhưng tợ tướng thì an tĩnh,
như một trái banh bằng cơm trắng.
78. (Tướng bộ xương)
Tướng bộ xương được mô tả theo nhiều khía cạnh như:
"Như khi vị ấy nhìn một thi thể bị quăng bỏ tại một
nghĩa địa một bộ xương còn thịt và máu, có gân dính liền"
(D. ii, 296). Hành giả hãy đi đến nơi có bộ xương
theo cách đã nói và để ý những tảng đã v.v... Với các
tướng quán. Hành giả nên nhận định tính cách của nó bằng
sự kiện nó đã đạt đến cái bản chất đặc biệt ấy
như thế này: "Ðây là một bộ xương" và nắm lấy
tướng theo 11 cách, do màu sắc v.v... Nhưng nếu hành giả
nhìn vào nó, mà chỉ nắm lấy nó do màu sắc như trắng chẳng
hạn thì nó không hiện ra cho hành giả với tính chất cá
biệt của nó là đáng ghê tởm, mà chỉ như một đổi thay
của biến xứ màu trắng (Kasina trắng). Do đó, hành
giả chỉ nên nhìn nó kể như một bộ xương trong khía cạnh
đáng ghê tởm "Ðăc điểm" chỉ bàn tay v.v...
79. Ở đây hành giả
nên định rõ bộ xương do đặc điểm của nó như tay, chân,
đầu, ngực, cánh tay, eo háng, đùi. Hành giả nên định rõ
do hình dáng như dài, ngắn, vuông, tròn, nhỏ, lớn. Do phương
hướng và định xứ đã nói ở trên (đ. 39-40). Sau khi đã
định rõ nó theo giới hạn của nó, ranh giới mỗi đốt
xương, hành giả đặc định nhờ nắm lấy tướng nào
hành giả thấy xuất hiện rõ ràng nhất. Nhưng tướng cũng
có thể nhận định do các chỗ lãm chỗ lồi ở mỗi đốt
xương. Và nó cũng được nhận định do vị trí của nó như:
"Ta đang đứng ở một chỗ lõm, bộ xương nằm ở chỗ
lồi. hoặc ta đang đứng ỏ chỗ lồi, bộ xương ở chỗ lòm".
Bộ xương còn nên được định rõ bằng các chỗ nối của
nó (Khớp xương) khi hai xương nối lại với nhau. Nó còn
nên định rõ do những chỗ mở của nó tức khe hở ngăn cách
những đốt xương. Nó cần được định rõ tứ phía xung
quanh bằng cách hướng sự nhận biếtg về nó một cách
toàn diện như sau: "Tại chỗ này có bộ xương này".
Nếu tướng không xuất hiện trường hợp này, cũng như
trước, sự quán tướng phải theo 11 cách.
80. Ðề mục quán này
có thể thành tựu dù quán toàn thể một bộ xương hay quán
chỉ một đốt xương. Bởi thế, sau khi đã học được tướng
trong bất cứ ai xương nào theo 11 cách hành giả nên tâm niệm
như sau: "Ghê tởm là một bộ xương, ghê tởm là một
bộ xương". Ở đây học tướng và tợ tướng giống
nhau, người ta bảo. Ðiều này đúng cho một cái xương duy
nhất. Nhưng khi học tướng hiện rõ nơi toàn thể một bộ
xương, thì đúng ra là, học tướng có những khe hở còn tợ
tướng thì nguyên vẹn. Và học tướng ngay cả nơi một đốt
xương duy nhất cũng sẽ có vẻ ghê rợn, nhưng tợ tướng
thì phát sinh hỉ lạc vì nó đem lại định cận hành.
81. Những gì được nói
trong các luận giải về vấn đề này cho phép chúng ta suy
ra như vậy. Vì trong luận, sau khi nói: "Không có tợ tướng
trong phạm trú và 10 bất tịnh; vì trong trường hợp các phạm
trù, thì tướng là sự phá vỡ những ranh giới, và trong trường
hợp 10 bất tịnh tướng xuất hiện ngay khi sự ghê tởm
được trông thấy, không một suy tư gì khởi lên về
nó". Luận lại nói tiếp: "Ở đây tướng có hai loại:
học tướng và tợ tướng học tướng xuất hiện có vẻ gớm
ghiếc, hãi hùng v.v... Bởi thế những gì chúng ta nói đã
được quán xét kỹ lưỡng. Và chỉ có điều này là đúng
ở đây. Ngoài ra tướng một đống xương hiện ra cho trưởng
lão Nahà Tissa" khi nhìn hàm răng của một phụ nữ
cười cũng chứng minh được điều này (Xem Ch. I, 55)
Tổng quát
82.
Ðấng cao cả ngàn mắt
Ca ngời người mười lực
Lấy mười thứ bất tịnh
Làm nhân cho định thiền
Ðã mô tả bất tịnh
Và cách quán mỗi tướng
Làm sao khai triển chúng,
Còn vài điểm đặc biệt
Ðáng được nghiên cứu thêm.
83. Một người đã đắc
thiền trong bất cứ pháp bất tịnh nào trên đây thì thoát
khỏi tham dục, vị ấy giống như một bậc A-la-hán không
còn tham dục vì tham đã được hoàn toàn chế ngự. Tuy
nhiên, cần hiểu rõ rằng mối pháp bất tịnh là một tính
chất mà tử thi tuần tự đạt đến và thích hợp cho một
khía cạnh đặc biệt của tham dục.
84. Khi một thây chết
đạt đến tình trạng ghê tởm, thì hoặc là nó đã đến
tự tính phình trương hay bất cứ trạng thái nào: bầm xanh
v.v... bởi thể, tướng cần được nắm lấy là "Ghê tởm
là thây phình trương", "Ghê tởm là bầm xanh",
tùy theo trạng thái mà thấy chết được tìm thấy. Ðây
là cách phân loại bất tịnh theo 10 giai đoạn của thây chết.
85. Và xét riêng từng
hướng, thì thấy phình trương thích hợp cho một người
tham hình dáng, vì nó làm hiện rõ sự xấu xí của hình
dáng tử thi. Thấy bầm xanh thích hợp cho vị nào ham màu
da, vì nó hiện rõ sự xấu xí dị hình của màu da. Thây
có mủ thích hợp cho một người tham mùi thơm toát ra từ
thân thể ướp hương, v.v... Vì vết thương này làm hiện
rõ múi thối tha liên hệ đến thân thể. Thây bị chặt
thích hợp cho một người tham sự chắc chắn của thân thể,
vì nó làm hiện rõ những lỗ hổng trong thân. Thân bị gặm
khói thích hợp cho một người tham sự tích tụ của thịt
ở những thân phần như bộ ngực, vì nó làm hiện rã rời
thích hợp cho một người tham dáng kiều diễm của tay
chân, vì nó làm hiện rõ tay chân bị rã rời như thế nào.
Thây phân tán thích hợp cho một người tham toàn bộ một
thân hình đẹp, vì nó làm hiện rõ sự phân tán và đổi
khác của toàn bộ thân thể. Thây chảy máu thích hợp cho
người ham cái vẻ yếu điệu do đồ trang sức, vì nó làm
hiện rõ vẻ ghê tởm của thây chết cả mình đầy máu.
Thây bị trùng ăn thích hợp cho một người tham sở hữu thân
thể, vì nó làm hiện rõ thân này là chỗ ở của nhiều
gia đình sâu bọ. Một bộ xương thích hợp với người
tham răng đẹp, vì nó làm hiện rõ tính cách ghê tởm của
những cái xương trong cơ thể. Ðây là cách phân loại bất
tịnh có 10 thứ tùy theo tánh tham.
86. Nhưng về mười thứ
bất tịnh, thì ví như nhờ một bánh lái mà một con thuyền
đứng yên được trên sông đầy sóng giữa dòng chảy xiết.
Thuyền không thể đứng vững nếu không có bánh lái, ở đây
cũng thế, do sự bám víu yếu ớt vào đối tượng, tâm thức
khi tập trung chỉ an trú được nhờ có tầm, bởi thế ở
đây chỉ có sơ thiền, không có nhị thiền và những thiền
khác.
87. Và mặc khác dù đối
tượng này đáng ghê tởm, nó vẫn khơi dậy niềm hân hoan
và hỉ lạc nơi hành giả do thấy được những lợi lạc của
nó như sau: "Chắc chắn bằng cách này ta sẽ thoát khỏi
già chết" và do từ bỏ được sự bức bách của những
triền cái nơi hành giả; cũng như một đống rác khơi dậy
niềm hân hoan nơi người phu hốt rác vì thấy những lợi
ích của nó, nghĩ rằng: "Bây giờ ta sẽ được một số
tiền lương lớn", và như tác dụng của thuốc xổ đối
với một người đau bụng.
88. Bất tịnh này mặc
dù có 10 loại, đều có cùng một đặc tính. Bởi vì mặc
dù nó thuộc 10 thứ, tính chất của nó chỉ có, đó là trạng
thái không sạch, hôi hám, đáng ghê tởm, lợm người. Và bất
tịnh xuất hiện với tính chất này không những nơi một cái
thây chết mà cả nơi một cái xác còn sống, như dưới mắt
trưởng lão Mahà Tissa ở Cetiyapabbata (Ch. I, 55) và sa
di thị giả của Trưởng lão Sangharakkhita trong khi chú
ngắm nhìn vị vua cõi trên một thớt voi. Vì một cái xác sống
cũng bất tịnh hệt như một cái xác chết, chỉ có một
điều khác là tính bất tịnh không rõ rệt nơi một cái
xác sống vì may được che dấu dưới những lớp trang sức.
89. Ðây là bản chất
của thân xác: nó là sự tích tụ của hơn 300 cái xương
được nối lại với nhau bởi 180 khớp dính liền nhau nhờ
900 cái gân, trét, đầy khắp với 900 miếng thịt, được bọc
bằng lớp da trong ẩm ướt, bao ngoài với lớp da ngoài có
những lỗ rải rác đó đây, luôn luôn tiết ra, rỉ ra như
một cái bình mỡ dầu trong đó cả một tập thể vì trùng
cư trú, đó là cái nhà bịnh tật, nền tảng của những trạng
thái đau khổ luôn luôn tiết ra từ 9 lỗ như một cái ung
nhọt kinh niên; từ hai con mắt thì ghèn chảy, từ hai lỗ
tai là thối tai, từ hai lỗ mũi là mũi nước, từ miệng là
thức ăn, mật, đàm, máu, từ hai chỗ bài tiết bên dưới
là phân và tiểu, và từ 99 ngàn lỗ chân lông tiết ra một
thứ nước xúp bằng mồ hôi vô vị, với ruồi nhặng bu
quanh. Cái thân xác này, nếu không được săn sóc bằng xỉa
răng, súc miệng, gội đầu, tắm rửa, mặc lót bên trong,
khoác y phục bên ngoài, thì xét về tính chất đáng tởm, một
ông vua, cũng không khác gì người hốt rác.
90. Nhưng nhờ đánh răng
súc miệng và tất cả những việc tương tự, nhờ che dấu
những bộ phận riêng tư dưới nhiều lớp vải, nhờ thoa
ướp nó bằng những thứ hương hoa, rắc lên nó nhứng thứ
hoa thơm mà nó được biến thành một trạng thái làm cho
nó có thể được xem là "tôi" và "của
tôi". Cứ thế đàn ông mà không nhận thức cái thực
chất dơ bẩn của cơ thể được che đậy bằng trang sức
mong manh. Trong ý nghĩa tối hậu, thật không có một chỗ
nào trên thân xác dù nhỏ như hạt bụi, đáng kể mà tham
đắm.
91. Và khi có một mẫu
nhỏ nào từ thân xác ấy rớt ra như tóc, lông, móng, răng,
đàm, mũi nước, phân hay nước tiểu, thì người ta sẽ không
dám động tới, mà còn cảm thấy hổ thẹn, nhục nhã, ghê
tởm. Nhưng khi những thứ ấy còn ở lại trong thân xác,
thì mặc dù vẫn đáng ham muốn trường cữu, khả ái tự
ngã.. Bởi vì bị trùm kín trong màn tối vô minh, bị nhuốm
tham ái đối với tự ngã. Chúng giống như một con chồn già
trông thấy một cái hoa đỏ đang còn trên cây rừng, mà
thèm, vì nghĩ: "Ðây là miếng thịt, đây là một miếng
thịt".
92.
Xưa có con chồn già
Thấy cây rừng trổ hoa
Vội vàng chạy đến, nghĩ:
Ðây thịt, cây sinh ra!
Chồn ta nhai hoa rụng
Chả thấy nước nôi gì,
Tưởng thịt trên cây khác
Thịt rụng có ngon chi
Bậc trí không nghĩ rằng
Chỉ phần rơi bất tịnh
Mà còn quán bất tịnh
Phần còn ở trong thân.
Kẻ ngu không như vậy
Xem thân là tốt lành
Bị ác ma tóm bẩy
Không thoát khỏi khổ hình
Người trí khi thấy rõ
Thân nầy thật thối tha
Thì xác sống xác chết
Ðều không chỗ đáng ưa.
93. Vì điều này đã
được nói như sau:
Thân xác thối tha nầy
Như phân như nhà xí
Khó ưa với người trí
Nhưng kẻ ngu say mê
Như vết thương chín lỗ
Bọc trong lớp áo da
Rỉ bất tịnh mọi chỗ
Uế khí, mùi bay xa
Nếu những gì bên trong
Bỗng tuôn hết ra ngoài
Người ta sẽ cầm roi
Ðuổi xua như chó, quạ.
94. Bởi vậy, một tỳ
kheo có khả năng nên nắm lấy tướng bất cứ chỗ nào cạnh
bất tịnh hiển lộ, dù trong một cái thân xác còn sống
hay nơi xác chết và vị ấy nên làm cho đề mục thiền định
của mình đạt đến định.
Chương VI này, mệnh
danh "Bất tịnh kể như đề mục quán" trong luận về
tu tập Định, trong Thanh tịnh đạo, được soạn ra vì mục
đích làm cho những người lành hoan hỉ.
---o0o---
Mục lục
| 01 | 02
| 03 | 04
| 05 | 06
| 07 | 08
| 09 | 10
11 |
12
| 13 | 14
| 15 | 16
| 17 | 18
| 19 | 20
| 21 | 22
| 23
---o0o---
|
Thư
Mục Tác Giả |
---o0o---
Source: BuddhaSasana (www.budsas.org)
---o0o---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật ngày: 01-09-2002