---o0o---
Chương
I
Giảng
Nghĩa Về Giới
I. Dẫn Nhập
1.
Người trú giới có
trí
Tu tập tâm và tuệ
Nhiệt tâm và thận trọng
Tỷ kheo ấy thoát triền. (S., i, 13)
Do duyên gì bài kệ trên
đây được nói? Khi đức Thế tôn ở Xá vệ, một vị
trời đi đến hoặc, vị ấy đã đặt câu hỏi này:
Nội triền và ngoại
triền
Chúng sinh bị triền phược
Con hỏi Gotama
Ai thoát khỏi triền này? (S. i, 13)
2. Ðây là ý nghĩa tóm
tắt. Triền là lưới tham. Vì đó là một trói buộc
theo nghĩa đan mắc vào nhau, như những cành cây chằng chịt
như mạng lưới trong các khu rừng tre v.v.... Tham cứ tiếp
tục khởi qua lại giữa những đối tượng của tâm, từ
sắc pháp đến tâm pháp và trái lại. Tham được gọi là nội
triền và ngoại triền vì nó khởi lên dưới hình
thức khát ái đối với vật dụng của mình và đối với
vật dụng của người, đối với tự ngã của mình và tự
ngã của một người khác, đối với nội xứ và ngoại
xứ. Vì tham khơiû theo cách ấy, nên chúng sinh bị triền
phược. Như những cây tre bị vướng mắc bởi bụi tre,
thế gian này cũng vậy, nói cách khác, tất cả chúng sinh này
đều bị vướng mắc vì mạng lưới chằng chịt của dục
vọng. Con hỏi Gotama: Và bởi vì thế gian bị trói
buộc như thế, cho nên con muốn hỏi điều này. Vị trời xưng
hô với đức Thế tôn bằng tộc tánh của Ngài là Gotama.
Ai thoát khỏi triền này: Ai có thể giải toả, tháo
gỡ trói buộc này, cái mớ bòng bong làm cho chúng sinh trong
tam giới đều bị quấn quít như thế? Ðiều vị trời ấy
hỏi là, ai có khả năng tháo gỡ triền phược?
3. Khi được hỏi như
vậy, đức Thế tôn, đấng Vô ngại giải, Trời của các
vị trời, vượt hơn Ðế thích, Phạm thiên, đấng Thành
tựu bốn vô uý, đấng Mười lực, đấng Chánh biến tri,
đã nói bài kệ này để trả lời:
Người trú giới có
trí
Tu tập tâm và tuệ
Nhiệt tâm và thận trọng
Tỷ kheo ấy thoát triền
4.
Bây giờ tôi sẽ,
đưa ra ý nghĩa chân thực
chia làm giới, vân vân...
của câu kệ do bậc Ðại thánh nói.
Trong giáo pháp đấng
Chiến thắng
Có những người tâm đạo đã từ bỏ
Gia đình, sống không nhà
-những người mặc dù
khát khao sự thanh tịnh
nhưng vẫn chưa có được cái chánh kiến về con đường
thắng, bảo đảm,
gồm Giới, Ðịnh và Tuệ.
Con đường khó tìm,
dẫn đến thanh tịnh
Cho những người chưa được an, dù đã cố gắng,
Tôi sẽ giảng Ðạo lộ an ổn
Về Thanh tịnh
Y cứ lời dạy của những vị cư trú
Trong ngôi Ðại tinh xá
Những người ưa thích thanh tịnh
Hãy chú tâm nghe trình bày.
5. Ở đây, thanh
tịnh nên hiểu là Niết bàn. Niết bàn không tất cả
cấu uế, nên hoàn toàn thanh tịnh. Thanh tịnh đạo là
con đường dẫn đến sự thanh tịnh ấy, cách đến gọi là
con đường. Tôi sẽ giải thích con đường đưa đến sự
thanh tịnh ấy.
6. Trong vài trường
hợp, con đường dẫn đến thanh tịnh được dạy là do
tuệ quán (về vô thường, khổ, vô ngã), như khi nói:
Tất cả hành vô thường
Với tuệ quán thấy vậy
Ðau khổ được nhàm chán
Chính con đường thanh tịnh. (Dh. 227)
Trong vài trường hợp,
được giảng do thiền định và trí tuệ, như khi nói:
Người có thiền có
tuệ
Nhất định gần Niết bàn (Dh.372)
Khi thì được giảng là
do nghiệp, như khi nói:
Nghiệp, minh và chánh
pháp
Giới - tối thượng sanh mạng
Chính nhờ các pháp trên
Khiến chúng sinh thanh tịnh
Không phải do giai cấp
Không phải do tài sản (M. iii, 262)
Khi thì được giảng là
do Giới v.v... Như khi nói:
Vị luôn luôn trì
giới
Trí tuệ khéo định tĩnh
Chí siêng năng dõng mãnh
Vượt bậc lưu khó vượt
Và có trường hợp,
thanh tịnh đạo được giảng là do bốn niệm xứ v.v... như
khi nói: "Nầy các tỷ kheo, con đường này là con đường
duy nhất để thanh tịnh các hữu tình.... để chứng Niết
bàn, đó là bốn Niệm xứ". (D. ii, 290). Cũng tương
tự với bốn chánh cần v.v... Nhưng để trả lời câu hỏi
này, thì con đường thanh tịnh được giảng là giới, định
và tuệ.
7. Ðây là bình chú
vắn tắt về bài kệ. Trú giới là đứng vững trên
đ?t giới. Chỉ có người thực sự thành tựu trọn vẹn
giới, mới được gọi là "trú giới". Cho nên câu
này có nghĩa: trú giới do thành tựu viên mãn giới. Người
là một hữu tình. Có trí có tuệ do nghiệp sinh, nhờ
một kiết sanh có ba nhân (là vô tham, vô sân và vô si). Tu
tập tâm và tuệ: tu tập cả định và tuệ. Tâm ở đây
chỉ định, còn tuệ là quán. Nhiệt tâm (àtàpin):
có nghị lực. Nghị lực được gọi là tinh cần hay nhiệt
tâm (àtàpa) với ý nghĩa đốt cháy những phiền não.
Vì có nghị lực, nên vị ấy nhiệt tâm tinh cần.
Thận trọng:
Là có tuệ giác, chỉ tuệ phòng hộ. Trong câu trả lời,
tuệ được nhắc đến ba lần: lần đầu (có trí) là tuệ
bẩm sinh, lần thứ hai là tuệ với nghĩa "quán", còn
lần này chỉ tuệ "phòng hộ" hướng dẫn mọi công
việc.
Tỷ kheo
(bhikkhu) là kẻ thấy sự khủng khiếp (bhayam
ikkhati) trong vòng luân hồi sinh tử. Thoát triền:
như người đứng trên đất, dùng con dao bén có thể phát
quang một bụi tre chằng chịt, cũng thế, vị tỷ kheo có
được sáu yếu tố này là giới, định tuệ, gòm ba thứ nói
trên, và sự nhiệt tâm tinh cần - đứng trên đất giới, dùng
tay tuệ (phòng hộ) nỗ lực bằng tinh cần, cầm dao tuệ
(bẩm sinh) được mài sắc trên đá thiền định -có thể
tháo gỡ, cắt đứt, phá huỷ tất cả các dây nhợ tham
dục. Chính ở giai đoạn này, thuộc Ðạo lộ, vị ấy
mới được gọi là đã "thoát triền": Ở sát na
chứng quả, vị ấy đã tháo gỡ xong sự trói buộc và
xứng đáng sự cúng dường tối thượng của thế gian và
chư thiên, nên Thế tôn nói:
Người trú giới có
trí
Tu tập tâm và tuệ
Nhiệt tâm và thận trọng
Tỷ kheo ấy thoát triền.
Ở đây, không có gì
vị ấy phải làm về trí tuệ bẩm sinh nhờ đó mà vị
ấy được gọi là người "có trí", bởi vì trí
tuệ này đã an trú thuần nhờ ảnh hưởng của nghiệp đời
trước. Song nhiệt tâm và thận trọng có nghĩa
rằng, bằng nghị lực kiên trì như đã nói, và bằng hành
vi đầy giác tỉnh với tuệ quán, vị ấy cần phải- khi đã
an trú trong giới- tu tập, phát triển Chỉ và Quán được mô
tả bằng từ ngữ Tâm và Tuệ. Ðây là cách đức Thế tôn
chỉ rõ đạo lộ đưa đến thanh tịnh dưới những đề
mục Giới, Ðịnh và Tuệ.
9. Từ trước đến đây,
những điều được nêu lên là Ba môn học, giáo lý tốt đẹp
trong ba phương diện, điều kiện cần thiết để chứng ba
minh v.v.. Sự tránh hai cực đoan và tu tập trung đạo, cách
vượt khỏi những đoạ xứ, đoạn trừ ô nhiễm dưới ba
khía cạnh, sự đề phòng vi phạm, sự thanh lọc ba thứ
nhiễm ô, và lý do đạt đến những quả Dự lưu v.v... Nêu
lên như thế nào?
10. Ở đây, sự tu
tập tăng thượng giới được nêu bằng Giới; tu tăng
thượng tâm bằng Ðịnh; và tu tăng thượng trí tuệ
bằng Tuệ
Sự tốt đẹp của giáo
lý ở chặn đầu được nêu bằng Giới, do đoạn
kinh: "Và gì là khởi điểm của các thiện pháp? Chính
là giới hoàn toàn thanh tịnh". (S. V, 143) và do Pháp
cú 183 "Không làm mọi điều ác". Giới là
khởi đầu của giáo lý. Và giới tốt đẹp, vì nó đem
lại những đức đặc biệt là bất hối, v.v... Sự tốt đẹp
của giáo lý ở chặn giữa được nêu bằng Ðịnh.
Do Pháp cú 183 "Không làm mọi điều ác", định là
chặn giữa của giáo lý: "Thành tựu các hạnh lành".
(Không làm mọi điều
ác
Thành tựu các hạnh lành
Tâm ý giữ trong sạch
Chính lời chư Phật dạy)
Và Ðịnh tốt đẹp,
vì đem lại các đức đặc biệt như thần thông v.v... Sự
tốt đẹp của giáo lý ở chặn cuối được nêu bằng Tuệ.
Do câu "Tâm ý giữ trong sạch. Chính lời chư Phật
dạy". (Dh.183) và vì tuệ là cao điểm của nền
giáo lý, nên Tuệ là chặn cuối. Tuệ tốt đẹp vì
đem lại đức bình thản đối với những điều khả ý và
bất khả ý. Như kinh dạy:
Như núi đá kiên cố
Không bị gió lay động
Huỷ báng hoặc tán dương
Không lay động bậc trí. (Dh.81)
11. Cũng thế, điều
kiện cần thiết để chứng ba minh được nêu bằng Giới.
Vì nhờ sự hỗ trợ của Giới viên mãn mà người ta đắc
ba minh. Ðiều kiện cần thiết để đắc sáu thông được
nêu bằng Ðịnh, vì chính nhờ sự hỗ trợ của định viên
mãn mà đạt đến sáu thông. Ðiều kiện cần thiết để
đắc bốn vô ngại giải được nêu bằng Tuệ, vì chính
nhờ sự hỗ trợ của tuệ viên mãn mà được bốn vô
ngại giải. (Chú thích: Ba minh: túc mạng minh, nhớ
được các đời trước; thiên nhãn minh: biết sự
chết và tái sinh của các hữu tình; lậu tận minh, đoạn
trừ tất cả lậu hoặc. (M. i, 22-3). Bốn vô ngại
giải là nghĩa vô ngại, pháp vô ngại, từ vô ngại, biện
tài vô ngại (A. ii, 160).
Sự tránh xa cực đoan
mê đắm dục lạc được nêu bằng Giới cực đoan ép xác
khổ hạnh được nêu bằng Ðịnh, và sự tu tập trung đạo
được nêu bằng Tuệ.
12. Cũng vậy, Giới
được nêu làm phương tiện để vượt khỏi các đạo
xứ, Ðịnh để vượt khỏi các dục, và tuệ để vượt
tất cả hữu. Lại nữa, sự từ bỏ những ô nhiễm do thay
thế những pháp ngược lại là Giới, do nhiếp phục là Ðịnh,
do đoạn tận là Tuệ.
13. Ðề phòng vi phạm
những điều ô nhiễm là nhờ Giới, đề phòng các ám ảnh
của ô nhiễm là nhờ Ðịnh, đề phòng các tùy miên (khuynh
hướng nội tại đưa đến ô nhiễm) là nhờ Tuệ.
Sự thanh lọc những ô
nhiễm do tà hạnh là nhờ Giới; thanh lọc những ô nhiễm
do dục tham là nhờ Ðịnh; và thanh lọc những ô nhiễm do tà
kiến là nhờ Tuệ.
14. Lý do đắc quả
Dự lưu và Nhất lai là Giới, quả Bất hoàn là Ðịnh và
quả A-la-hán là Tuệ. Vì bậc Dự lưu được gọi là người
"thành tựu viên mãn các phẩm loại của giới",
bậc nhất lai cũng vậy, bậc bất hoàn được gọi là
"viên mãn định" và A-la-hán là bậc "tuệ viên
mãn".
15. Ðến đây, chín nhóm
"ba pháp" đã được nêu lên về các đức đặc
biệt của giới định tuệ, đó là ba môn học, giáo lý
tốt đẹp ở ba phương diện, điều kiện cần để chứng
ba minh, sự tránh hai cực đoan và tu tập trung đạo, cách vượt
khỏi đoạ xứ, khỏi dục và khỏi hữu, sự từ bỏ ô
nhiễm ở ba bực, sự đề phòng vi phạm, sự thanh lọc ba
thứ nhiễm ô và lý do đắc các quả.
II. Giới
16. Mặc dù thanh tịnh
đạo được nêu như trên, với ba đề mục Giới, Ðịnh và
Tuệ, mỗi thứ có những đức đặc biệt khác nhau, song
sự chỉ dẫn ấy cũng còn quá vắn tắt, không đủ giúp ích
mọi người, nên có loạt vấn đề sau nói về Giới trước:
(i) Giới là gì?
(ii) Giới có nghĩa là gì?
(iii) Gì là đặc tính, nhiệm vụ, tướng trạng và nhân
gần của giới
(iv) Gì là lợi ích của giới?
(v) Có mấy loại giới?
(vi) Cái gì làm giới ô nhiễm?
(vii) Cái gì làm giới thanh tịnh?
17. Ðây là giải đáp.
(i) Giới là gì? Ðó
là các pháp khởi từ tử tâm sở (cetanà) hiện hữu
nơi một người từ bỏ sát sinh, v.v... Hay nơi một người
thực hành viên mãn các học giới (vatta). Patisambhidà
nói: "Giới là gì? có giới là tư tâm sở (cetanà),
có giới là các tâm sở, thọ, tưởng, và hành (gọi chung là
cetasika), có giới là sự chế ngự, có giới là không
vi phạm". (Ps. i, 44).
Ở đây, Giới theo
nghĩa tư tâm sở, là ý chí (tác ý) có mặt nơi người
từ bỏ sát sinh, v.v... Hay nơi người thực hành viên mãn các
giới. Giới theo nghĩa thọ, tưởng, hành là sự kiêng
giữ nơi người từ bỏ sát sinh, v.v... Lại nữa, Giới tư
tâm sở là bảy tác ý đi kèm bảy trong mười nghiệp nơi
một người từ bỏ sát sinh, v.v.. Giới thọ, tưởng, hành
tâm sở là ba pháp còn lại gồm vô tham, vô sân và chánh
kiến, như kinh nói: "Từ bỏ tham, vị ấy an trú với tâm
vô tham". (D. i, 71)
18. Giới theo nghĩa
chế ngự là sự chế ngự theo năm cách: Chế ngự với sự
chế ngự của giới bổn Pàtimokkha chế ngự bằng
tỉnh giác, chế ngự bằng tri kiến, chế ngự bằng kham
nhẫn và chế ngự bằng tinh tiến. Chế ngự bằng Giới
bổn là: "Vị ấy được trang bị đầy đủ với
sự chế ngự của Giới bổn Pàtimokkha". (Vbh.
246); chế ngự bằng chánh niệm tỉnh giác là:
"vị ấy hộ trì nhãn căn, sống với sự ch? ngự nhãn
căn". (D. i, 70) Chế ngự bằng tri kiến là
như đức Thế tôn dạy:
Những dòng thác
chảy trên đời
Này Ajita, được ngăn chận là nhờ chánh niệm.
Ta tuyên bố sự chế ngự những bộc lưu
Do tuệ, chúng bị chận đứng. (Sn. 1035)
Cách sử dụng bốn
vật dụng cũng được bao gồm trong sự chế ngự này. Nhưng
chế ngự bằng kham nhẫn thì như kinh dạy: "Vị
ấy là người kham nhẫn lạnh, nóng". (M. i, 10) Và
chế ngự bằng tinh tiến là "Vị ấy không chấp
nhận một ý tưởng thuộc tham dục khi nó khởi lên".
(M. i, 11) ở đây, thanh tịnh sinh mạng được bao gồm.
Vậy sự chế ngự gồm năm phần ấy và sự kiêng giữ nơi
những thiện nam, thiện nữ biết sợ điều ác mỗi khi
gặp cơ hội vi phạm, đều gọi là Giới theo nghĩa chế
ngự. Giới theo nghĩa không phạm là sự không vượt
qua, bằng thân hoặc lời, các giới điều đã thọ.
19. (ii) Giới Có Nghĩa
là Gì? Giới Sìla được gọi như thế là vì nói
có nghĩa kết hợp (Sìlana). Kết hợp có hai nghĩa:
một là phối hợp (samàdhàna) chỉ sự không
bất nhất trong ba nghiệp thân, lời và ý nhờ đức hạnh;
hai là nâng lên (upadhàrana) nghĩa là nền tảng (àdhàra)
vì giới là nền tảng cho những thiện pháp. Những người
hiểu ngữ nguyên chỉ chấp nhận hai nghĩa này, song cũng có
những người luận về ý nghĩa của giới là cái đầu (siras)
là mát mẻ (sìtala).
20. (iii) Gì Là Ðặc Tính,
Nhiệm Vụ, Tướng Trạng Và Nhân Cần Của Giới?
Ðặc tính của giới
là phối hợp
Dù phân tích nhiều cách
Cũng như "thấy được" là đặc tính của Sắc.
Dù phân tích nhiều cách.
Như đặc tính "có
thể trông thấy" là đặc tính của sắc xứ, dù phân tích
thành những loại xanh, vàng, v.v... Vì dù có phân ra như
vậy, sắc pháp cũng không vượt ngoài tính "thấy được".
Cũng thế, sự kết hợp -gồm hai nghĩa "phối hợp"
và "nền tảng" ở trên là đặc tính của giới, dù
chia nhiều loại như tư tâm sở, v.v.. Vì dù có chia ra
những loại như vậy, giới cũng không ra ngoài hai đặc tính
là phối hợp và nền tảng (các thiện pháp).
21.
Trong khi đặc tính
của giới là như vậy,
Nhiệm vụ của nó gồm hai nghĩa:
Hành động để chấm dứt tà hạnh
Và sự thành tựu kể như đúc
Không lỗi nơi người có giới.
Bởi thế, khi gọi là
giới, cần hiểu rằng nó có nhiệm vụ chận đứng tà
hạnh là nhiệm vụ (hay bản chất, rasa) của nó theo
nghĩa hành động, và bản chất không lỗi kể như nhiệm
vụ nó trong nghĩa thành tựu. Vì ở đây chính hành động (kicca)
hoặc sự thành tựu (sampatti) được gọi là nhiệm
vụ.
22.
Theo lời những người
trí,
Giới thể hiện ở sự thanh tịnh
Và nhân gần của giới
Chính là tàm và quý.
Giới này được thể
hiện bằng các thứ "Thanh tịnh của thân, ngữ và ý".
(A. i, 271). Giới được hiện rõ, được nhận chân
qua sự thanh tịnh. Nhung tàm và quý là cái nhân gần của
giới, vì khi tàm quý có mặt, thì giới phát sinh và tồn
tại: còn khi tàm quý vắng mặt, thì giới không phát sinh cũng
không tồn tại.
Vắng mặt, thì giới
không phát sinh cũng không tồn tại.
23. (iv) Những Gì Là
Lợi Ích Của Giới?
Ðó là có được
nhiều đức đặc biệt mà đầu hết là bất hối, vì kinh
dạy: "Này Anada giới là thiện; nó có mục đích
là bất hối, có lợi ích là bất hối". (A. v, 1).
Và ở một đoạn khác: "Này gia chủ, có năm lợi ích
cho người đức hạnh khi viên mãn giới, đó là: người có
giới đức thừa hưởng gia sản lớn nhờ tinh cần, được
tiếng tốt đồn xa, không sợ hãi rụt rè khi đến giữa
hội chúng sát đế lỵ hay bà la môn hay gia chủ hay sa môn,
khi chết tâm không tán loạn, mệnh chung được sanh vào
thiện thú, cõi trời. Ðó là năm l?i ích". (D. ii, 86)
Lại còn nhiều lợi ích của giới, đầu tiên là được thương
mến, và cuối cùng là đoạn trừ (phiền não) lậu hoặc như
đoạn kinh nói: "Nếu một Tỷ kheo có ước nguyện, mong
rằng tôi được các vị đồng phạm hạnh yêu mến, kính
trọng, thì vị ấy hãy thành tựu viên mãn các học
giới". (M. i, 33)
24. Lại nữa,
Ai dám đặt một biên
tế
Cho những lợi ích do giới đem lại
Khi mà không giới, thì thiện nam tử
Không chân đứng trong giáo lý này?
Không phải sông Hằng, Yamunà,
Sông Sarabhù, Sarassatì
Hay dòng Aciravati,
Hay sông Mahì thánh thiện
Có thể rửa sạch nhiễm ô
Của các loài có hơi thở ở đời
Mà chỉ có nước giới mới có thể
Rửa sạch những cấu uế nơi chúng sinh
Không phải cơn gió đem mưa
Hay hương chiên đàn vàng
Hay chuỗi anh lạc, bảo châu
Hay ánh trăng sáng dịu
Có thể làm lắng những cơn sốt của người thế gian
Mà chính giới khéo hộ trì
Cao quý và mát mẻ tuyệt diệu,
Mới dập tắt được ngọn lửa.
Có làn hương nào sánh bằng
Làn hương giới
Khi hương này dễ dàng bay ngược
Cũng như xuôi gió?
Có bực thang nào bằng thang giới
Có thể bắc lên đến cõi trời?
Có cửa ngõ nào bằng cửa giới
Mở đến thành Niết bàn như vậy?
Vua chúa trang sức châu báu
Cũng không sáng chói bằng sự chói sáng của người trì
giới
Trang sức bằng giới luật.
Giới làm tiêu tan nỗi sợ hãi
Của sự tự khiển trách và những lối tương tự
Giới luôn đem lại cho người trì giới
Niềm hoan hỷ
Do danh tốt của giới
Chừng ấy cũng đủ biết
Quả báo của giới là thế nào
Và thế nào, gốc rễ của mọi đức tính ấy
Làm cho các lầm lỗi không còn sức mạnh.
25. (v) Có Bao Nhiêu
Loại Giới?
1. Trước hết, tất
cả giới thuộc một loại do đặc tính "kết
hợp" của nó.
2. Giới thuộc hai loại là hành và tránh (tác, chỉ)
3. Hai loại là giới thuộc chánh hạnh, và giới khởi đầu
đời sống phạm hạnh.
4. Hai loại, là kiêng và không.
5. Hai loại, là lệ thuộc và không.
6. Hai loại, tạm thời và trọn đời.
7. Hai loại, hữu hạn và vô hạn.
8. Hai loại, thế gian và xuất thế.
9. Ba loại, là hạ, trung, thượng.
10. Ba loại, là giới vị kỷ, vị tha và vị pháp.
11. Có dính mắc (chấp thủ), không dính mắc, và an tịnh.
12. Thanh tịnh, bất tịnh, khả nghi.
13. Giới hữu học, vô học và giới của người không
phải hữu học hay vô học.
14. Giới bốn loại, là giới thối giảm, giới tù đọng,
giới tăng tiến và giới thâm nhập.
15. Bốn loại, là giới tỷ kheo, Tỷ kheo ni, giới của người
chưa thọ cụ và giới tại gia.
16. Bốn loại, là giới tự nhiên, giới theo cổ tục,
giới tất yếu, và giới do nhân về trước.
17. Bốn loại, là giới thuộc Giới bổn Pàtimokkha,
giới phòng hộ các căn, giới thanh tịnh sinh mạng và
giới liên hệ bốn vật dụng.
18. Giới năm loại, là thanh tịnh hữu hạn, vô hạn, thanh
tịnh đã viên mãn, thanh tịnh không dính mắc, thanh tịnh
đã tịnh chỉ.
19. Năm loại, là từ bỏ kiêng tác ý (tư tâm sở), chế
ngự, và không phạm.
26.
1). Giới một loại,
về ý nghĩa đã được trình bày.
2). Giới hai loại: hành
và tránh: sự thành tựu viên mãn một học giới do đức
Thế tôn dạy: "Ðiều này nên làm", thì gọi là hành
(tác trì). Không làm những gì Ngài cấm chỉ rằng "Ðiều
này không nên làm", gọi là tránh (chỉ trì). Ở đây ý
nghĩa danh từ "hành" (caranti) là đi trong
phạm vi của giới, đi như những bậc viên mãn giới đã đi;
và phòng hộ, tránh né gọi là tránh. Sự giữ giới
hay hành được thực hiện nhờ đức tin và tinh tấn,
còn tránh nhờ đức tin và chánh niệm.
27. 3). Chánh hạnh
là cách cư xử tốt đẹp nhất, chính nó được gọi là Giới
thuộc chánh hạnh, hoặc những gì được tuyên thuyết
để cư xử đẹp cũng gọi là giới thuộc chánh hạnh. Ðây
là danh từ chỉ cho những giới ngoài tám giới (ba thuộc thân
là không sát, đạo, dâm; bốn thuộc ngữ là không nói
dối, nói ác, nói thô và nói vô ích, thứ tám là chánh
mạng). Tám giới này là khởi đầu của đời phạm hạnh
bao hàm đạo lộ nên được gọi là Giới khởi đầu
phạm hạnh, vì cần phải được thanh tịnh trước, như
Trung Bộ iii nói: "Thân nghiệp, ngữ nghiệp và
hoạt mạng của vị ấy phải được thanh tịnh trước đấy
(Pubbe va khopan'assa kàyakammam àjìvo suparisuddho hoti. -- M.
iii, 289).
Hoặc hai loại chỉ
những tiểu giới kể như chánh hạnh và giới còn lại là
giới khởi đầu đời phạm hạnh.
Hoặc những gì gồm
trong giới luật tỷ kheo và tỷ kheo ni trong giới bổn Patimokkha
là giới khởi đầu đời sống phạm hạnh, còn giới
luật bao gồm trong những kiền độ (khandhakas)
của Luật tạng (vinaya) gọi là giới thuộc chánh
hạnh. Nhờ thành tựu chánh hạnh mà những giới khởi đầu
đời phạm hạnh được viên mãn, nên kinh dạy: "vị
tỷ kheo không viên mãn chánh hạnh mà có thể thành tựu
giới khở đầu đời phạm hạnh, điều ấy không thể
xảy ra". (A. iii, 14-15).
28. 4). Kiêng là
kiêng sát sinh, v.v.. Không kiêng là các tư tâm sở,
v.v...
29. 5). Có lệ thuộc
và không lệ thuộc. Lệ thuộc có hai thứ: Lệ thuộc
vì tham và lệ thuộc do tà kiến. Lệ thuộc do tham là
khi một người mong ước: "Nhờ giới hạnh này, tôi
sẽ thành một vị trời lớn hoặc nhỏ". (M. i, 102).
Lệ thuộc tà kiến là khi một người có tà kiến:
"Sự thanh tịnh là do cử hành các tế lễ". (Vbh.
374). Nhưng giới xuất thế, và giới thế gian làm điều
kiện tiên quyết cho giới xuất thế, gọi là giới không
lệ thuộc.
30. 6). Giới tạm
thời là được thọ có hạn định thời gian. Giới
trọn đời là thọ trì đến khi mạng chung.
31. 7) Hữu hạn là
giới bị hạn cuộc vào danh lợi, quyến thuộc, chân tay
hoặc mạng sống. Ngược lại gọi là giới vô hạn. Patisambhida
nói: "Thế nào là giới bị hạn cuộc vào lợi? Ðó
là khi một người nguyên nhân lợi mà vi phạm một học
giới đã thọ". Những giới hạn kia cũng vậy. Giới không
bị hạn cuộc hay vô hạn là khi "một người, không
vì lợi mà khởi tâm vi phạm, huống hồ thực sự vi phạm,
một học giới đã thọ". (Ps. I, 44). Tương tự,
với các giới hạn khác.
32. 8). Giới thế
gian là giới hữu lậu và xuất thế là giới vô
lậu. Giới thế gian đem lại một hậu hữu (thân cảnh
trong tương lai) tốt đẹp, và là điều kiện tiên quyết để
thoát ly sinh tử, như Luật nói: "Giới là để chế
ngự, chế ngự là để khỏi hối, bất hối là để được
khinh an, khinh an để dược lạc, lạc để được định, định
để được chánh tri kiến, chánh tri kiến là để được vô
dục, vô dục để được ly tham, ly tham để được giải
thoát, giải thoát là để có giải thoát tri kiến, giải thoát
tri kiến là để đi đến vô thủ trước Niết bàn. Sự nói
chuyện có mục đích ấy, nâng đỡ có mục đích ấy, khuyên
bảo có mục đích ấy, nâng đỡ có mục đích ấy, lóng
tai có mục đích ấy, tức là sự giải thoát nhờ không
chấp thủ". (Vin. v, 164). Giới xuất thế đem lại
sự thoát khỏi hữu, và là bình diện của trí quán sát.
33. 9). Giới ba loại:
đầu tiên là giới bực hạ, trung, thượng. Giới bực hạ
là giới phát sinh do ít tinh cần, ít dục, ít nhất tâm và
ít trạch pháp (tức bốn như ý túc). Giới bực trung là
giới phát sinh nhờ tinh tấn, v.v... Vừa vừa. Giới bực thượng
là giới phát sinh nhờ bốn pháp đó được thực hành cao
độ. Giới thọ vì ham danh là giới bực hạ, vì ham quả báo
công đức là bực trung, vì tôn quý giới là bực thượng.
Lại nữa, giới bị nhiễm ô vì khen mình chê người, v.v...
Như "ta có giới hạnh, còn những tỷ kheo khác tà
hạnh, theo ác giới". (M. i, 193) là bực hạ, giới
thế gian mà không ô nhiễm là bực trung, giới xuất thế là
bực thượng. Hoặc, giới có động lực là tham ái, với
mục đích tái sinh là bực hạ, giới thực hành vì mục đích
giải thoát riêng mình là trung, các hạnh ba la mật thực hành
vì giải thoát chúng sinh là bực thượng.
34. 10). Giới thực hành
vì bản thân, vì muốn bỏ những gì không thích hợp với
tự ngã, gọi là giới vị kỷ. Giới thực hành vì
quan tâm đến thế gian, vì muốn người đời khỏi chỉ trích,
là giới, Giới thực hành vì quan tâm đến thế gian, vì
muốn người đời khỏi chỉ trích, là giới, Giới thực hành
vì tôn trọng Pháp và Luật, gọi là vị pháp.
35. 11). Giới "lệ
thuộc" ở số 5 trên, gọi là có dính mắc vì dính
mắc (thủ trước) do tham và tà kiến.
Giới được thực hành
bởi phàm phu hữu đức là điều kiện tiên quyết cho đạo
lộ, và giới tương ứng với đạo lộ, ở các vị hữu
học, thì gọi là giới không dính mắc. Giới tương
ứng với quả của hữu học và vô học gọi là giới được
an tịnh.
36. 12). Giới được viên
mãn do một người không phạm giới tội, hoặc phạm mà đã
sám hối, gọi là giới không thanh tịnh. Giới nơi
một người còn nghi không biết việc này có phải là một
giới tội hay không, hoặc không biết đã vi phạm giới nào,
hoặc không biết mình có phạm không, gọi là khả nghi.
Giới không thanh tịnh nên làm cho thanh tịnh. Giới còn nghi
thì nên tránh làm những gì mình còn nghi vấn, và nên tìm cách
giải quyết nghi.
37. 13). Giới tương ưng
với bốn đạo và ba quả đầu, là giới của Hữu học.
Giới tương ưng với quả A-la-hán là giới của bậc Vô
học. Những loại còn lại là giới không thuộc hữu
học và vô học.
38. Trong thế gian, sìla
(giới) cũng dùng để chỉ bản tính, thói của người,
nên Patisambhidà nói: "Ba loại giới (thói)
là thiện, bất thiện và bất định". (Ps. I, 44).
Giới bất thiện không được kể ở đây, vì nó không dính
dấp đến ý nghĩa đã bàn về giới.
39. 14). Giới bốn
loại đầu tiên:
Kẻ học ác tri thức
Không gần bậc giới đức
Ngu si không thấy được
Lỗi phạm giới ở đấy
Tâm thường tà tư duy
Các căn không phòng hộ
Giới nơi người như vậy
Dự phần vào thối giảm.
Người có tâm tự mãn
Với giới đã thành tựu
Không bao giờ nghĩ đến
Tập đề tài thiền định
Chỉ an phận trong giới
Không nỗ lực tiến lên
Giới như vậy gọi là
Dự phần vào tù đọng.
Người có giới, nỗ lực
Với định làm phương tiện
Ðể đạt đến mục tiêu,
Giới của tỷ kheo này
Gọi là định cộng giới
(giới tăng tiến: Visesa)
Người thấy giới chưa đủ
Mà hướng đến ly dục
Giới do ước vọng ấy
Gọi là đạo cộng giới
(giới thâm nhập: nibbedha)
40. 15). Có những giới
dành cho tỷ kheo không liên hệ đến những giới công bố
cho tỷ kheo ni, gọi là giới tỷ kheo. Giới riêng cho
tỷ khoe ni gọi là giới tỷ kheo ni. Mười giới của
sa di và sa di ni là giới của người chưa thọ cụ túc.
Ngũ giới hay thập giới, khi có thể giữ trọn đời và tám
giới thọ vào ngày Uposatha (bố tát) dành
cho nam nữ tại gia, gọi là giới tại gia.
41. 16). Sự không phạm
của những người uttarakuru gọi là tự nhiên giới.
Mỗi bộ lạc, tông phái, địa phương, có luật riêng, gọi
là giới theo tục lệ. Giới của mẹ bồ tát khi bồ
tát nhập thai "không có tư tưởng dục nhiễm".
Gọi là giới tất yếu. Giới của những người thanh
tịnh như Ma ha Ca diếp và của tiền thân Phật khi hành bồ
tát hạnh gọi là giới do nhân đời trước.
42. 17). Giới bốn
loại, thứ tự
(a) Giới như đức
Thế tôn mô tả: " Vị tỷ kheo sống chế ngự với sự
chế ngự của giới bổn, đầy đủ hành xứ và chánh
hạnh, thấy sợ hãi trong những lỗi nhỏ, nên vị ấy lãnh
thọ các học giới". (Vbh. 244), đây là Giới
thuộc sự chế ngự của giới bổn.
(b) Giới được mô
tả như sau: " Khi mắt thấy sắc, vị ấy không nắm
giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng, những nguyên
nhân gì do đó mà nhãn căn không đư?c chế ngự, khiến cho
tham ái, ưu bi, các bất thiện pháp khởi lên, vị ấy chế
ngự nguyên nhân ấy, hộ trì nhãn căn, thực hành sự hộ
trì nhãn căn. Khi tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm
vị, thân chạm xúc, ý nhận thức các pháp, vị ấy không
nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng... Thực
hành sự hộ trì ý căn". (M. i, 180): đây là giới
phòng hộ các căn môn.
(c) Sự từ bỏ những
tà mạng, không vi phạm sáu học giới liên hệ đến cách
sinh sống, cái tà mạng lôi kéo theo những ác pháp như
"lừa đảo, ba hoa, hiện tướng chê bai, lấy lợi cầu
lợi" (M. iii, 75): đây là giới thanh tịnh mạng
sống.
(d) Sự sử dụng bốn
vật dụng, được thanh tịnh nhờ giác sát, như khi nói:
"Chân chánh giác sát, vị ấy thọ dụng y phục chỉ để
che thân khỏi rét". (M. i, 10): đây là giới liên
hệ đến bốn vật dụng.
43. Sau đây là tóm
tắt bình chú: (đoạn 42a) Chế ngự với sự chế ngự
của giới bổn tức Pàtimokkha, vì nó giải thoát (mokkheti)
người hộ trì (pàti) nó, vì nó làm cho vị ấy thoát
khỏi (mocayati) các khổ của đoạ xứ. Chế ngự
là không phạm về thân, lời. Sống là xử sự trong
bốn uy nghi.
44. Ðầy đủ hành
xứ và chánh hạnh v.v... ý nghĩ như kinh nói: "có tà
hạnh và chánh hạnh". Gì là tà hạnh? Ðó là vi phạm
về thân lời, cả thân lẫn lời, những việc làm mà Giới
cấm chỉ. Như một người sinh nhai bằng cách đem cho tre, lá,
hoa, quả, bột tắm, tăm xỉa răng, hoặc bằng cách nịnh hót,
ve vuốt, hoặc bằng cách làm các việc vặt, hay bất cứ tà
mạng nào bị Thế tôn quở trách. Chánh hạnh là gì? Là không
vi phạm về thân và lời, về cả thân, lời. Là tất cả
sự chế ngự bằng giới. Là không sinh nhai bằng những cách
như trên.
45. Hành xứ: có
hành xứ thích đáng và không thích đáng và không thích đáng.
Gì là hành xứ không thích đáng? Như khi một người có
những dâm nữ làm chỗ lui tới, có đàn bà goá, gái già, bán
nam bán nứ, tỷ kheo ni, hay tửu quán làm chỗ lui tới;
hoặc vị ấy sống có liên hệ với vua hay cận thần,
ngoại đạo, đồ đệ ngoại đạo, có liên hệ không thích
đáng với cư sĩ; hoặc làm quen, giao thiệp, tôn trọng
những gia đình không tín tâm, phỉ báng thô lỗ, những người
muốn hại, muốn sự xấu xa, phiền não, không muốn sự
chấm dứt hệ luỵ cho những tỷ kheo, tỷ kheo ni, nam nữ cư
sĩ. Ðấy là những hành xứ không thích đáng. Gì là hành
xứ thích đáng? Như một vị không có những dâm nữ làm
chỗ lui tới... Quán rượu làm chỗ lui tới,... Không liên
hệ không thích đáng với cư sĩ; vị ấy làm quen, lui tới,
tôn trọng những gia đình có tín tâm, những người làm
nguồn an ủi nơi nào có bóng hoàng y, có gió mát của bậc
trí, những người mong mỏi điều tốt lành, hỉ lạc, mong
chấm dứt hệ luỵ cho tỷ kheo, tỷ kheo ni, nam nữ cư sĩ.
đấy là hành xứ chân chánh. Như thế, vị ấy được gọi
là "đầy đủ hành xứ và chánh hạnh". (Vbh.
244-7).
46. Lại nữa chánh
hạnh và hành xứ ở đây cần được hiểu như sau. Tà
hạnh có hai là tà hạnh về thân và lời. Gì là tà hạnh
về thân? Ðó là "Xử sự thiếu cung kính trước tăng,
đứng ngồi, chen lấn với các vị thượng toạ, ngồi chỗ
cao, ngồi bịt đầu, đứng mà nói chuyện, vung tay khi nói,
đi giày dép trong khi các thượng toạ đi chân trần, đi
chỗ cao trong khi các thượng toạ đi chỗ thấp, đi trên
đường chính trong khi các thượng toạ đi chỗ không có
đường.... Ðứng ngồi thúc vào các vị thượng toạ, tranh
chỗ với các tỷ kheo mới... Vào buồng tắm.... Chưa hỏi các
thượng toạ mà đã để củi trên lò, khoá cửa... Tại
chỗ tắm, vừa đi vừa vẫy nước nhằm các thượng toạ,
đi vào chỗ tắm trước mặt các thượng toạ, tắm vẩy nước
vào các thượng toạ, tắm trước mặt các vị. Khi đi ra thì
chen lấn các thượng toạ, đi ra trước mặt họ, vào nhà cũng
chen lấn đi trước, đẩy họ ra mà chen tới.... Tại những
nhà gia chủ có phòng riêng kín đáo, dành cho đàn bà con gái,
thì vị ấy đường đột đi vào, vuốt đầu trẻ con".
(Nd1, 228-9). Ðấy gọi là tà hạnh về thân.
47. Ở đây, gì là tà
hạnh về lời? "Ðó là khi một người sử sự vô lễ
trước chúng Tăng. Không xin phép những vị Thượng toạ mà
nói về Pháp, trả lời các câu hỏi, tụng giới, đứng nói
vung tay. Vào nhà người gặp phụ nữ hay thiếu nữ thì ba
hoa kiểu như: "Ê chị X, có gì ăn đấy? Có cháo không?
Chúng tôi sẽ uống cái gì? Những gì là đồ ăn loại
cứng? Những gì là đồ ăn loại mềm? Chị sẽ cho ăn cái
gì?" (Nd1, 230). Ðấy là tà hạnh về lời.
48. Chánh hạnh cần
hiểu là ngược lại với những điều trên. Hơn nữa, vị
tỷ kheo có lễ độ, biết kính nhường, có tàm quý, mặc
hạ y, thượng y một cách thích đáng, tác phong vị ấy làm
khởi dậy niềm tin dù khi vị ấy đi tới đi lui, nhìn trước
hay nhìn hai bên, co hay duỗi, mắt vị ấy thường ngó
xuống, vị ấy có uy nghi, phòng hộ các căn môn, tiết độ
trong sự ăn uống, chánh niệm tỉnh giác, đầy đủ sự
tự giác, ít muốn, biết đủ, tinh cần, cẩn thận gìn
giữ chánh hạnh, hết lòng cung kính những vị giáo thọ sư.
Ðấy là chánh hạnh.
49. Hành xứ (thích
đáng) gồm ba sự hỗ trợ làm hành xứ, sự phòng
hộ làm hành xứ, và sự buộc chặt làm hành xứ.
Sự hỗ trợ làm hành xứ là, một người bạn tốt nói
mười loại chuyện: "Nói về ít muốn, biết đủ, ẩn
dật, độc cư, tinh tấn, giới, định, tuệ, giải thoát và
giải thoát tri kiến". (M. i, 145), người bạn từ
đó ta được nghe những điều chưa nghe, sửa sai những điều
đã học, tẩy được những nghi vấn, làm chánh lại sự
thấy biết, được đức tin, hoặc nhờ học với người
ấy mà ta tăng trưởng về tín, giới, văn, bố thí và trí
tuệ. Ðây là sự hỗ trợ làm hành xứ.
50. Sự phòng hộ làm hành
xứ là, "một tỷ kheo khi đi vào một ngôi nhà, một con
đường, thì đi với mắt nhìn trước khoảng một tầm,
chế ngự nhãn căn, không nhìn voi, ngựa, xe, người bộ hành,
đàn bà, đàn ông; không ngó lên, ngó xuống, ngó chỗ này
chỗ kia". (NdI, 474).
51. Sự buộc chặt
làm hành xứ là bốn niệm xứ mà tâm được buộc vào, vì
thế đức Thế tôn dạy: "Này các tỷ kheo, gì là hành
xứ của một tỷ kheo, quê hương vị ấy? Chính là bốn
niệm xứ quán" (S. v, 148).
Ðược trang bị như
vậy, được cung cấp đầy đủ như vậy, bằng chánh niệm
và (chánh) hành xứ này, nên vị ấy được gọi là "đầy
đủ hành xứ và chánh hạnh".
52 Thấy sự nguy
hiểm trong những lỗi nhỏ (đoạn 42): "Lỗi
nhỏ" là như sự vô tình vi phạm một học giới nhỏ
nằm trong Giới bổn, hoặc có một ý nghĩ bất thiện khởi
lên. Vị ấy chân chánh lãnh thọ và học tập các học
giới: Có bao nhiêu học giới, vị ấy đều học tập lãnh
thọ một cách chân chánh (samàdàya). Câu "một người
chế ngự với sự chế ngự của Giới bổn"., giới
thuộc về sự chế ngự của Giới bổn được nêu bằng người,
còn "đầy đủ chánh hạnh và hành xứ" chỉ phương
pháp thực hành nơi vị đã viên mãn giới.
53. (b) Bây giờ, hay nói
về giới thuộc sự chế ngự các căn môn, được nêu lên
kế tiếp. Khi mắt thấy sắc: khi thấy một vật
bằng nhãn thức có khả năng thấy, nhưng nương vào con
mắt dụng cụ nên lấy tên "mắt". Cổ đức (Porànà)
nói: "Con mắt không thấy vì nó không có tâm. Tâm không
thấy vì không có mắt. Nhưng khi có chạm xúc giữa căn và
trần thì có thấy, do thức có thị giác làm nền
tảng vật lý cho nó. (Thị giác, kinh gọi là mắt tịnh
sắc: eye- sensitivity- chỉ đòng tử hay con ngươi). Vậy ý
nghĩa thực sự ở đây là: khi thấy sắc nhãn thức".
54. Không nắm giữ tướng
chung, không để ý tưởng đàn bà hay đàn ông, hay bất
cứ tướng gì làm căn bản cho ô nhiễm, như tướng đẹp,
v.v.. Vị ấy dừng lại ở cái thấy, cũng không nắm
giữ tướng riêng: vị ấy không để tâm bất cứ khía
cạnh nào như tay, chân, nụ cười, tiếng nói, nhìn thẳng,
nhìn nghiêng, v.v.. Gọi là những tướng chi tiết, vì chúng
phát sinh ra từng ô nhiễm khác nhau, vì chúng nổi bật. Vị
ấy chỉ thấy cái gì thực sự đang ở đấy. Như trưởng
lão Nahàtissa ở
Cetiyapabbata.
55. Khi trưởng lão đang
trên đường đi từ Cetiyapabbata đến Anuràdhapura để
khất thực, có một nàng dâu của một ông trưởng giả gây
lộn với chồng nên khởi hành từ sáng sớm ở Anuràdhapura,
trang sức lộng lẫy như tiên nữ, để về nhà bà con. Nàng
trông thấy trưởng lão, và do tâm hồn hạ liệt, bật lên
một tràng cười lớn. Ngạc nhiên không hiểu có chuyện gì
xảy đến, vị trưởng lão nhìn lên, và khi được
"bất tịnh tưởng" nơi hàm răng của nàng ngài đắc
quả A-la-hán. Do đó có bài kệ:
Thấy xương hàm răng
Duy trì "cốt tưởng"
Chưa dời chân bước
Quả chúng vô sanh
Chồng nàng đi tìm nàng,
gặp trưởng lão anh ta hỏi: "Bạch đại đức, ngài có
tình cờ trông thấy một người đàn bà nào qua đây không?"
Trưởng lão bảo:
"Không rõ ông hay
bà
Vì ta không để ý
Nhưng trên đường cái này
Có đống xương di động".
56. Qua đó (đoạn
42) nghĩa là, vì nguyên nhân ấy mà có sự không chế ngự
của nhãn căn (và các căn khác). Nếu vị ấy không phòng
hộ nhãn căn nghĩa là không dùng cánh cửa chánh niệm mà
đóng nhãn căn lại. Xâm nhập là đe doạ vị ấy.
57. Không có gì là
"chế ngự" hay "không chế ngự" nơi nhãn căn,
vì đối với mắt tịnh sắc không có tỉnh giác hay thất
niệm. Nhưng khi một sắc pháp đi vào sự chú ý của mắt,
thì hữu phần khởi lên hai lần và diệt, rồi đến duy
tác ý giới làm nhiệm vụ hướng tâm (chú ý) khởi và
diệt, rồi đến nhãn thức với nhiệm vụ thấy,
rồi đến dị thục ý giới làm nhiệm vụ tiếp
thọ, rồi đến dị thục vô nhân ý thức giới làm
nhiệm vụ xác định, khởi và diệt. Kế tiếp là tốc hành
tâm. Trong đây, không có gì là chế ngự hay không chế
ngự vào giai đoạn hữu phần, hay bất cứ giai đoạn nào
sau đó từ hướng tâm trở đi. Song khởi hành từ giai đoạn
tốc hành tâm, nếu không chánh hạnh, nếu có sự thất
niệm, vô tri, không kiên nhẫn, lười biếng khởi lên, thì
gọi là "không chế ngự nhãn căn".
58. Tại sao? Vì khi ấy
có nghĩa, là căn môn không được phòng hộ, hữu phần và
các tâm thuộc lộ trình tâm cũng không được phòng hộ. Ví
như khi, bốn cổng của một đô thành không được bảo đảm,
thì dù cho các cửa của những ngôi nhà, kho chứa v.v... Bên
trong thành được khoá kỹ, tài sản bên trong thành cũng không
được bảo đảm, vì kẻ cướp sẽ vào thành tha hồ vơ vét.
Cũng vậy, khi có sự không chánh hạnh, v.v... Khởi lên ở
giai đoạn tốc hành, vì không chế ngự, thì căn môn cũng
không được chế ngự, hữu phần và các tâm thuộc lộ trình
kể từ hướng tâm, cũng không được phòng hộ. Nhưng khi
giới, v.v... Khởi lên ở giai đoạn tốc hành, thì như vậy
căn môn cũng được phòng hộ hữu phần và các tâm thuộc
lộ trình cũng được phòng hộ ví như khi cổng thành đã
chắc chắn, thì dù bên trong, các cổng nhà ở, nhà kho v.v..
Không chắc, tài sản trong thành vẫn được gìn giữ, bảo
đảm, vì cổng thành đóng, kẻ cướp không thể xâm nhập.
Bởi thế, mặc dù sự
chế ngự chỉ thực sự bắt đầu ở giai đoạn (sát na)
tốc hành tâm, song vẫn gọi là "chế ngự nhãn căn".
Việc nghe tiếng, ngửi mùi v.v... Cũng vậy.
59. Vậy chính loại
giới này, có đặc tính là tránh nắm giữ những tướng có
thể kéo theo ô nhiễm liên hệ đến sáu trần, gọi là giới
chế ngự các căn môn.
60. (c) Bây giờ hãy nói
đến giới thuộc thanh tịnh sinh mạng (đoạn 42). Câu
"Sáu học giới liên hệ đến cách sinh sống". Có
nghĩa: "vì nguyên nhân sinh nhai, vì lý do sinh nhai, mà
một người có ác dục, làm mồi cho dục, tự xưng được
thượng nhân pháp mà kỳ thực không có" bị phạm tội
ba la di, vì nguyên nhân, "vì lý do sinh nhai mà một người
làm môi giới" phạm bị tội tăng tàn; "vì nguyên
nhân sinh nhai mà nói: Một tỷ kheo ở trong chùa của bạn là
một bậc A-la-hán phạm tội ba dật đề nếu người ấy
biết có tội mà cứ nói: "Vì nguyên nhân, lý do sinh
nhai mà một tỷ kheo không bệnh xin món ăn thượng vị để
dùng riêng" phạm thì phải sám hối; cũng giới ấy,
tỷ kheo ni phạm thì phải phát lồ cũng giới ấy, người
chưa thọ cụ túc phạm thì bị tội ác tác. (Vin. v, 146).
Ðó là sáu giới liên hệ đến cách sống.
61 Lừa đảo (xem
42c) Kinh văn: "Thế nào là lừa đảo? Ấy là bịp lừa
bằng cách (giã vờ) từ chối bốn vật dụng, bằng cách nói
gián tiếp, bằng uy nghi... Nơi một người ham lợi dưỡng,
danh dự, một người có ác dục, làm mồi cho dục".
62 "Thế nào là ba
hoa? Ấy là nói tạt vào người ta (bất kể họ có nghe
hay không) nói nhiều, nói quanh, tâng bốc, tâng bốc quá
lố, thuyết phục, thuyết phục dai, gợi ý, gợi ý dai nói
mê ly, nịnh hót tán dóc, nói vuốt ve, nơi một người thiên
về lợi danh dự và tiếng tăm, người có ác dục, làm
mồi cho dục.
63 "Thế nào là hiện
tướng? Dấu hiệu, ra dấu cho người, ám chỉ, làm ám
chỉ, nói bóng gió, nói vòng vo, nơi một người thiên về
lợi dưỡng....
64 "Thế nào là chê
bai? Là nhiếc móc, dèm pha, chê trách, nói mỉa, mỉa mai
liên tục nhạo báng, nhạo báng liên tục, bôi nhọ, bôi
nhọ liên tục, mách lẻo, cắn sau lưng, nơi một người thiên
về lợi dưỡng...
65 "Thế nào là lấy
lợi cầu lợi? Cầu là tìm kiếm chác, mưu cầu của
cải bằng phương tiện của cải, như đem vật được chỗ
này đi đến chỗ khác, vật được chỗ khác đem đến
chỗ này, nơi một người thiên về lợi dưỡng.." (Vbh,
352-3)
66. Ý nghĩa đoạn kinh
dẫn ở số 61 cần được hiểu như sau. Có ác dục là
mong muốn chứng tỏ có những đức tính mà mình không
thực có. Làm mồi cho dục: bị dục vọng tấn công. Bằng
cách từ chối bốn vật dụng, bằng cách nói gián tiếp,
bằng uy nghi: là ba cách lừa đảo được nêu lên trong Mahà-niddesa.
67. Một vị tỷ kheo
được cúng dường y, v.v... Và chính vì ham muốn những
thứ ấy, ông lại từ chối, do ác dục. Vị ấy biết cư sĩ
tin tưởng ông sẽ nghĩ: Vị đại đức của chúng ta thật
là thiểu dục, ngài nhất quyết không nhận vật gì. Thật
là may mắn cho ta nếu ngài chịu nhận chỉ chút ít vật
dụng ! rồi họ tìm đủ cách đặt trước mặt vị ấy
những y thượng hạng, v.v... Ông bèn nhận, vừa làm ra vẻ
chỉ nhận vì lòng từ bi đối với họ. Ðây là sự giả
dối nơi vị tỷ kheo, để khiến cho cư sĩ sau đó mang
từng xe bò lễ vật đến cúng. Ðó là lừa đảo bằng cách
từ chối.
68. Trong Mahà-niddesa nói:
"Thế nào là lừa đảo bằng cách từ chối vật
dụng?" Ví dụ cư sĩ mời tỳ kheo nhận y, thực, sàng
tạo, dược phẩm. Một người có ác dục, làm mồi cho
dục, ham được y, thực, sàng toạ, dược phẩm, nhưng lại
từ chối, vì muốn được nhiều hơn. Vị ấy bảo: Một người
sa môn khổ hạnh có cần đến những tấm y đắt giá? Chỉ
nên nhặt giẻ rách, ở đống rác hay cửa tiem, mà làm y
phục. Sa môn khổ hạnh cần gì đến thực phẩm đắt giá?
Chỉ nên khất thực để sống. Sa môn khổ hạnh cần gì đến
giường đắt giá? Chỉ nên sống dưới gốc cây hay ngoài
trời. Sa môn khổ hạnh cần gì đến dược phẩm đắt
tiền? Chỉ nên chữa bệnh bằng nước tiểu.
""Bởi thế vị ấy mặc y thô xấu, ăn đồ khất
thực tồi, ở chổ tồi, dùng thuốc tồi để trị bệnh. Các
cư sĩ thấy vậy, nghĩ: Sa môn này ít muốn, biết đủ,
sống viễn ly, độc cư tinh tấn, thật là người thuyết
giảng về khổ hạnh. Rồi họ lại càng muốn cúng dường
vị ấy y phục, thực phẩm, sàng toạ, dược phẩm. Vị
ấy bèn nói: "Có ba điều kiện làm cho một vị thiên
gia nam tử được nhiều công đức: lòng tin, sự bố thí. Và
một người xứng đáng để nhận. Người có lòng lại có
vật bố thí, và lại có ta ở đây. Nếu ta không nhận, thì
người sẽ mất phước. Ðiều ấy không tốt. Vậy thì ta
sẽ nhận, vì lòng thương tưởng đối với người. "
Cứ thế vị ấy nhận thật nhiều y phục, thực phẩm, sàng
toà, dược phẩm. Ðó là một hình thức lừa đảo
vậy". (Ndl 224-5)
69. Là sự giả dối nơi
người có ác dục, khi vị ấy nói cách nầy cách khác làm
cho người ta hiểu rằng minh đã được pháp nhân (siêu
việt con người). Ðó gọi là lừa đảo bằng cách nối
gián tiếp như đoạn kinh sau: "Gì là ví dụ về
lừa đảo bằng cách nói gián tiếp? Một người có ác
dục, làm mồi cho dục, mong được thán phục mà nói những
lời liên hệ đến thánh pháp. Vị ấy bảo: Người đắp
một cái y như vậy, lọc nước như vậy, chìa khoá như
vậy, đai lưng như vậy, dép như vậy, là một sa một rất
quan trọng. Hoặc bảo: Người có một giáo thọ sư như
vậy, y chỉ như vậy, đồng giáo thọ sư, đồng y chỉ sư,
người có bạn như vậy, cộng sự viên như vậy, thân
thuộc như vậy, người ở trong chùa như vậy, mái che như
vậy, nhà như vậy, vi la như vậy, hang, động, lều, trại,
tháp canh, phòng lớn, vựa lúa, phòng hội như vậy, hoặc
cỏ gốc cây như vậy, là một nhà khổ hạnh rất quan
trọng". Hoặc, với nét mặt nhăn nhíu, mưu mô, giảo
quyệt, làm điệu bộ thán phục, nói thao thao bất tuyệt,
vị ấy thốt lên những lời sâu xa, bí mật, xỏ lá, tối
nghĩa, lời siêu phàm rổng tuếch như "Sa môn ấy là
một vị đã đạt đến những tinh tú và có những thiên trú
như vậy như vậy." Ðấy gọi là nói gián tiếp (Nd1.
226-7).
70. Là sự giả dối nơi
một người ác dục, khi vị áy làm những dáng điệu cố
ý để được tán thán phục, như đoạn: "Thế nào là
lừa đảo bằng uy nghi? Ví như, một được khen, nên làm
bộ tịch khi đi, vị ấy bước đi có nghiên cứu, đứng có
nghiên cứu, ngồi có nghiên cứu, nằm có nghiên cứu. Vị
ấy bước đi làm bộ như rất đăm chiêu, khi đứng, ngồi,
nằm dường như rất tập trung quán tưởng. Vị ấy là người
toạ thiền giữa công cộng. Sự làm bộ, sắp đặt, phô trương
uy nghi như thế được gọi là lừa đảo bằng uy nghi"
(Nd1. 225-6))
71. Kinh văn: bằng cách
từ chối bốn vật dụng có nghĩa là dùng cái phương
tiện gọi là "từ chối"... Nói gián tiếp: là
nói gần với đề tài. Bằng uy nghi là đi đứng nằm
ngồi.
72. Những lối nói ba
hoa (đoạn 62) là nói tạt vào: như khi vừa thấy người
đi vào tinh xá, bèn nói: "Ði đâu đó cư sĩ? Mời tăng
chúng thọ trai à? Nếu vậy thì cứ việc đi trước đi, tôi
sẽ mang y bát đến sau" v.v... Hoặc tự quảng cáo như
sau: "Tôi là Tissa, vua rất tín nhiệm tôi, đại
thần của vua.. Rất tin cậy tôi". Kể lể (nói nhiều)
cũng tương tự, khi được hỏi một điều gì. Nói quanh
là nói vòng vo tam quốc vì sợ cư sĩ bất mãn sau khi đã
tạo cơ hội cho họ phập ý. Tâng bốc là nói ca
tụng người ta, như: "Ông ấy là một đại địa chủ,
đại thuyền chủ, đại thí chủ" Tâng bốc liên
tục (tâng bốc quá lố) là nói đủ cách để ca tụng
người.
73. Thuyết phục
là nói lời ràng buộc thì tay cũng già (Nayhanà
do động từ Nayhati có nghĩa là buộc
lại, cột lại). Như nói "Cư sĩ trước kia các vị thường
cúng trái cây vào giỏ đó, , tại sao bây giờ không cúng
nữa?" Nói thế nào để cuối cùng, người kia phải nói:
"Bạch đại đức, chúng con sẽ cúng, lâu nay vì không có
dịp" v.v... Ðấy là buộc ràng họ. Hoặc, khi trông
thấy một người tay cầm mía, vị tỷ kheo bèn hỏi:
"Từ đâu về đấy, đạo hữu?" - Bạch đại đức,
con ở ruộng mía về ạ" - Mía ở đấy có ngọt không
nhỉ? - Bạch đại đức, cần phải ăn vào mới biết được"
- Nầy cư sĩ, một tỷ kheo không được phép nói: cho tôi mía
!" Nói như vậy tức là ràng buộc người ta, khiến họ
phải cho. Ðấy gọi là thuyết phục. Thuyết phục nhiều
lần, dùng nhiều cách, gọi là thuyết phục dai dẳng (nói
dai)
74. Gợi ý là ám
chỉ, bằng cách nêu một trường hợp đặc biệt như:
"Chỉ có gia đình đó là hiểu tôi thôi. Có gì, họ
chỉ cúng dường cho tôi". Hoặc, như câu chuyện người
bán dầu sau đây. Hai tỳ kheo đi vào làng, ngồi trong nhà đợi.
Thấy một cô gái, họ bèn gọi nàng lại. Rồi vị này
hỏi vị kia: "Nàng này là con gái nhà ai thế?" -
Hiền giả, nàng là con gái của người bán dầu vẫn thường
ủng hộ chúng ta đấy. Mỗi khi chúng tỳ kheo đi đến nhà
mẹ nàng, bà thường cho bơ trong hủ. Và cô này cũng cho bơ
trong hủ như mẹ" (Pm. 46) Ðó gọi là gợi ý.
Gợi ý nhiều cách, nói mãi, thì gọi là gợi ý liên tục.
75. Nói mê ly là
nói lời êm tai lặp đi lặp lại nhiều lần, bất kể đúng
hay không, hợp pháp hay không. Nịnh hót là nói một cách
hèn hạ, luôn luôn giữ thái độ kẻ dưới. Tán dóc
là nói thật nhiều nhưng chỉ đúng một ít.
76. Nói vuốt ve
như người ta vuốt ve, vỗ về con nít.
77. Hiện tướng (nemittikatà)
tướng là một dấu hiệu bằng thân hay lời, để làm
người ta cho mình vật dụng. Ra hiệu là làm một
dấu hiệu có ý hỏi: "Bạn có gì để ăn đấy?"
v.v... Khi trông thấy người đang mang thức ăn. ám chỉ
là nói xa gần tới vật cần dùng. Làm ám chỉ: như thấy
mục tử đắt nghé đi ngang, vị tỳ kheo hỏi: "Ðấy là
nghé con của bò cái vắt sữa hay bò cái cho bơ?" -
Bạch đại đức, bò cái vắt sữa, vì nếu là bò cái vắt
sữa, thì các tỳ kheo đã có sữa mà uống!" v.v...,
cốt làm cho đứa bé về thuật lại với cha mẹ, để họ
đem sữa đến cúng.
78. Nói bóng gió
là nói gần đề tài, tỉ như câu chuyện về một tỳ kheo
được một gia đình ủng hộ. Vị ấy muốn ăn, nên đi vào
nhà ấy mà ngồi. Nữ chủ không muốn bố thí, nên vừa trông
thấy vị tỳ kheo, bà bảo ngay: "Không có cơm". Ðoạn
đi sang nhà hàng xóm, làm bộ đi lấy cơm. Vị tỳ kheo đi vào
bếp, nhìn quanh, thấy cây mía sau cánh cửa, đường đựng
trong tô, xâu cá trong rỗ, gạo trong chum và bơ trong hủ,
Vị ấy trở ra, ngồi. Khi nữ chủ trở lại, bà bảo vị
tỷ kheo "Tôi không kiếm được chút cơm nào cả".
Vị tỳ kheo liền nói: "Này thí chủ, tôi đã thấy
một điềm báo rằng hôm nay không dễ gì được đồ ăn
khất thực". - Ðại đức nói sao? - "Tôi thấy một
con rắn giống như cây mía ở trong gốc đằng sau cánh
cửa. Ði tìm vật gì để ném nó, tôi gặp cục đá, giống
như cục đường trong tô. Khi tôi ném cục đất vào con
rắn, thì nó dương ra một cái mồng trông như xâu cá ở
trong rỗ, và khi nó nhe răng để cắn cục đất, răng nó trông
như những hạt gạo trong chum. Rồi nước bọt hoà lẫn
nọc rắn phun ra khỏi miệng nó trong khi nó tức giận, trông
như bơ để trong hủ". Bà chủ nghĩ: "Không dễ gì
bịp kẻ bợm già" và buộc lòng phải biếu tỳ kheo cây
mía, nấu cơm cho ông, và cho luôn cả các vật dụng kia.
79. Nói xa gần đề tài
chính là nói bóng gió. Nói vòng vo là nói xoay
quanh đề tài.
80. Chê bai (mạt
sát) gồm những cách như nhiếc móc là dùng mười cách
mắng nhiếc, "đồ ăn trộm, đồ ngu, đồ điên, đồ
lạc đà, đồ bò, đồ lừa, giống phạm giới, giống địa
ngục, đồ súc sinh, đồ giống gì đâu". Dèm pha là
nói lời khinh bỉ. Chê trách là kể những lỗi lầm. Nói
mỉa là khi một người nào không bố thí, vị ấy bảo
rằng: "Thật là vua các thí chủ". Nói mỉa đủ cách,
đưa ra những lý lẽ, gọi là mỉa mai liên tục hoặc mỉa
mai quá đáng, như nói về một người không bố thí: "Ðó
là một đại thí chủ". Nhạo báng là nói chế
nhạo, như: "Sống kiểu gì mà ăn hết cả thóc
giống". Nhạo báng liên tục như bảo: "Sao? Người
ấy mà bạn nói không phải thí chủ?" Ðối với ai, y cũng
cho một lời "Không có" đấy chứ".
81. Bôi nhọ là
chỉ trích, (hạ giá) người nào. Bôi nhọ liên tục là
chê bai đủ cách. Mách lẻo là đem chuyện nhà này
sang nhà khác, làng này sang làng khác, vùng này đến vùng khác,
vì nghĩ "như vậy chúng sẽ cúng cho ta, vì sợ ta đi nói
chỗ nầy chỗ kia". Cắn sau lưng hay nói hai lưỡi,
là chỉ trích người nào sau lưng họ, sau khi đã nói tốt
trước mặt, như cắn vào thịt sau lưng người ta khi họ không
thấy được. Ðó là thái độ của người không thể nhìn
ngay trước mặt người. Tất cả cách nói trên đây, gọi là
chê bai hay mạt sát (nippesikatà), vì nó nạo hết (nippeseti)
chùi hết những đức tính của người, hoặc vì đấy là
sự mưu cầu lợi dưỡng bằng cách nghiền nát, tán nhỏ đức
tính của người, như nghiền nát, tán nhỏ đức tính của
người, như nghiền nát các loại hoa để mà lấy hương.
82. Lấy lợi cầu
lợi: Cầu là săn đuổi. Ðược chỗ này (đoạn
65) là xin được ở nhà này. Chỗ khác là nhà khác. Tìm
là mong muốn. Kiếm chác là săn đuổi một cách liên
tục, như chuyện vị tỳ kheo đi khắp nơi, đem những vật
đã xin bố thí cho trẻ con trong các gia đình để cuối cùng
được cúng sữa và cháo.
83. Những ác pháp như
cần hiểu là kể cả những việc nói trong kinh Phạm
võng (Brahmajàla): "Trong khi một số sa môn, bà
la môn dù đã dùng các món ăn do tín thí cúng, vẫn có tự
nuôi sống bằng những tà mạng, như xem tướng tay chân, chiêm
tướng, triệu trướng, mộng tướng, chiêm tướng, triệu tướng,
mộng tướng, thân tướng, dấu chuột cắn, tế lửa, tế
muỗng..." (D. i, 9)
84. Tà mạng này do đó
kéo theo sự vi phạm sáu học giới đã được chế liên
hệ đến lối sinh sống, nó còn kéo theo những ác pháp
khởi đầu bằng lừa đảo, ba hoa, hiện tướng, chê bai,
lấy lợi cầu lợi. Bởi vậy, chính cái việc tránh xa mọi
thứ tà mạng mới được gọi là giới thanh tịnh sinh
mạng. Cái mà chúng ta nhờ vào để sống, gọi là sinh
mạng. Ðó là cái gì? Là nỗ lực để tìm kiếm những
vật dụng. Thanh tịnh sinh mạng là làm sạch cách sống.
85. Giới liên hệ bốn
vật dụng. Kinh văn: "Chân chánh giác sát, vị tỳ
kheo thọ dụng y phục chỉ để ngăn ngừa lạnh nóng, ngăn
ngừa sự xúc chạm của bọ chét, ruồi, gió, sức nóng
mặt trời, các loài bò sát, chỉ với mục đích che đậy
sự hổ thẹn. Chân chánh giác sát, vị ấy thọ dụng món
ăn khất thực, không phải để vui đùa, không phải để đam
mê, không phải để trang sức, không phải để tự làm đẹp,
mà chỉ để thân này được sống lâu, được bảo dưỡng,
để khỏi bị tổn hại, để hổ trợ phạm hạnh, nghĩ:
"Như vậy ta sẽ diệt trừ các cảm thọ cũ và không
cho khởi lên các cảm thọ mới, ta sẽ sống khoẻ mạnh, không
lỗi lầm và an ổn". Chân chính giác sát vị ấy thọ
dụng trú xứ để ngăn ngừa nóng lạnh, ngăn ngừa sự xúc
chạm của ruồi, muỗi, gió, sức nóng mặt trời, các loài
bò sát, chỉ để tránh những nguy hiểm của thời tiết,
chỉ với mục đích sống độc cư nhàn tịnh. Chân chánh giác
sát, vị ấy thọ dụng như yếu về dược phẩm trị
bệnh, chỉ để ngăn chặn các cảm giác thống khổ đã
sinh để được ly khổ hoàn toàn? (M. i, 10)
Giải: chân chánh sát là sự tác ý (Manasikàra)
kể như một phương tiện và một con đường, nó có nghĩa
biết rõ, xét rõ. Ðó là xét rõ như sau: "để ngăn
ngừa lạnh " v.v...
86. Y phục chỉ bất cứ loại nào kể
tự áo lót. Vị ấy thọ dụng
dùng, mặc (áo trong). Chỉ: không ngoài mục đích. Mục đích
của thiền giả khi thọ dụng không ngoài những chuyện ngăn
ngừa lạnh v.v.... Ngăn ngừa lạnh: ngăn cái lạnh
thuộc bất cứ loại nào, từ bên trong do tứ đại xáo
trộn, hay lạnh từ bên ngoài do thời tiết thay đổi. Ngăn ngừa nóng:
là hơi nóng của lửa, do đám cháy rừng v. v....
87. Ngăn ngừa sự xúc chạm của bọ chét,
ruồi, sức nóng mặt trời, các loài bò sát: "bọ
chét" là thứ ruồi muỗi hút máu thú vật. Gió có hai:
gió có bụi và gió không bụi. "Bò sát" là những
sinh vật dài như rắn v.v... Di chuyển bằng cách bò trên
mặt đất. "Sự xúc chạm" có hai: xúc chạm bằng cách
bị chúng cắn và xúc chạm bằng cách bị chúng bò trên mình.
88. Chỉ để che đậy sự hổ thẹn:
"Chỉ": là nói mục đích bất biến, vì "che đậy
sự hổ thẹn" là mục đích có tính cách bất biến, còn
các việc khác (ngăn ngừa).. Là những mục đích có tính cách
giai đoạn, của sự thọ dụng y phục. "Sự hổ
thẹn": chỉ bộ phận sinh dục, vì khi một phần nào
của bộ phận ấy lộ ra, thì tâm "tàm" bị thương
tổn. Bộ phận ấy gọi là "sự hổ thẹn" (hirikopìna)
vì nó gây ra sự xáo trộn hổ thẹn, hirikipana.
89. Ðồ ăn khất thực
là đủ loại thức ăn, gọi là pindapàta (bỏ vào
từng nắm) vì đồ ăn ấy được thả vào (patitattà)
trong bình bát của tỳ kheo trong khi vị ấy đi xin ăn (pindolya).
Hoặc, sự thả vào bát từng nắm (pinka), sự thu
thập
(sannipatà) các của bố thí (bhikkhà) chỗ này
chỗ nọ. Không phải để vui đùa: không vì mục đích
say mê, như các võ sĩ, say mên có sức mạnh, hùng tính v.v.. Không
phải để trang sức, không với mục đích làm dáng, như
thể nữ của vua, dâm nữ v.v.. muốn có chân tay tròn trịa.
Không để tự làm đẹp, không vì mục đích trang điểm,
như các đào kép, diễn viên vũ công v.v... Muốn có làn da sáng
sủa.
90. Câu "không để vui đùa " được nói
là để từ bỏ si tăng trưởng, "không để đam mê"
là từ bỏ sân tăng trưởng, "không phải để trang
sức và làm đẹp" là để từ bỏ tham tăng trưởng. Và,
hai câu đầu là để ngăn ngừa trói buộc khởi lên cho chính
bản thân, còn câu thứ ba là ngăn ngừa trói buộc khởi lên
cho người khác.
91. Thân nầy, cái xác thân gồm bốn đại. Ðể được sống lâu, là
để tiếp tục sống. Ðược bảo dưỡng là để
khỏi gián đoạn mạng sống. Vị ấy sử dụng đồ ăn
khất thực vì mục đích duy trì tiếp tục thân xác, như
chủ nhân một ngôi nhà cũ sử dụng những cột chống đỡ
mái nhà, như người đánh xe dùng dầu mỡ cho trục xe, không
phải để vui đùa, trang sức, đam mê, làm bộ. Hơn nữa,
"sống lâu" là chỉ mạng căn. Vậy, câu "để
thân nầy được sống lâu, được bảo dưỡng" có nghĩa
là, vì mục đích duy trì mạng căn trong thân xác này.
92. Ðể khỏi bị tổn hại: cơn đói
được gọi là "tổn hại" vì nó làm sầu não. Vị
ấy dùng đồ ăn khất thực vì mục đích chấm dứt cái
hại ấy, như thoa dầu lên vết thương, lấy nóng chống
lạnh v.v... Ðể hộ trì phạm hạnh: vì mục đích
hỗ trợ cho sự sống trong sạch ở trong giáo lý và trong đạo
lộ. Bởi vì, khi vị tỳ kheo dấn mình vào việc vượt qua
sa mạc sinh tử bằng phương tiện Ba môn học, dựa trên
sức khoẻ thân xác mà điều kiện cần thiết chính là
thức ăn, thì việc xử dụng thức ăn cũng giống như người
muốn qua sa mạc phải ăn thịt con mình, hoặc như người
muốn qua sông dùng bè, vượt biển dùng tàu vậy.
93. Như thế nầy ta sẽ diệt trừ những
cảm thọ cũ và không cho khởi lên các cảm thọ mới:
như người bệnh dùng thuốc, vị tỳ kheo dùng đồ ăn
khất thực nghĩ: "Do dùng thức ăn này, ta sẽ chấm
dứt cảm thọ cũ là cơn đói, mà không cho khởi cảm thọ
mới là tham dục. " Lại nữa, "cảm thọ cũ" là
cảm thọ do duyên những nghiệp trước, bây giờ khởi lên
vì ăn uống không điều độ, không thích hợp. Ta sẽ chấm
dứt cảm thọ củ ấy, chận đứng nó bằng cách ăn uống
điều độ, thích hợp. Và "các cảm thọ mới" là
cảm thọ sẽ khởi lên trong tương lai, do sự tích luỹ
nghiệp hiện tại là sử dụng dồ khất thực một cách không
thích đáng. Ta cũng sẽ không cho khởi lên các cảm thọ
mới ấy, bằng cách dùng đồ khất thực cho thích đáng.
Những gì trình bày trên đây bao hàm việc sử
dụng chánh đáng những vật cần thiết, từ bỏ ép xác
khổ hạnh, nhưng không bỏ lạc thọ hợp pháp.
94. Ta sẽ sống khoẻ
mạnh: "Trong thân này, được tồn tại nhờ những
vật dụng, ta sẽ có sức khoẻ do ăn uống điều độ,
sức khoẻ ấy được gọi là sự "dai sức" vì sẽ
không có mối nguy làm dứt mạng căn, hay ngăn cản bốn uy
nghi. Giác sát như vậy, vị tỷ kheo dùng đồ khất thực như
người mặc bệnh kinh niên dùng thuốc, Sống không lỗi, an ổn:
Vị ấy dùng đồ khất thực, nghĩ: Ta sẽ có được sự không
lỗi bằng cách tránh xin, nhận và ăn một cách không thích
đáng, và ta sẽ sống an ổn bằng cách ăn uống điều độ".
Hoặc vị ấy nghĩ: "Ta sẽ được sự không lỗi, nhờ
không có mặt những lỗi lầm như chán mệt, lừ đừ,
buồn ngủ, bị người trí chê trách v.v... Do duyên ăn uống
vô độ gây ra. Và ta sẽ có sự sống an ổn nhờ sức
khoẻ do duyên ăn tiết độ ". Hoặc vị ấy thọ dụng
đồ khất thực, nghĩ những lạc thú nằm dài, lừ đừ
biếng nhác vì đã không ăn quá độ. Và ta sẽ có một đời
sống an ổn bằng cách chế ngự bốn uy nghi, nhờ ăn giảm
mức tối đa chừng bốn năm miếng". Vì có câu:
Ăn còn bốn năm miếng
Thì nên dừng, uống nước
Như vậy người tinh cần
Sẽ sống được an ổn. (Thag. 983)
Những gì được nói trên đây có thể hiểu là
sự phân biệt rõ mục đích, và thực hành trung đạo.
95. Trú xứ (senàsana) đây là cái
giường (sena) và chỗ ngồi (àsana). Vì bất cứ
chỗ não ta ngủ (seti) dù trong một ngôi chùa, hay một
cái chòi dựa vách, v.v... Thì đó là cái giường, chỗ
ngủ; và bất cứ chỗ nào ta ngồi (àsati) thì đó là
chỗ ngồi hay toà (àsana). Cả hai là sàng toà hay trú
xứ.
Chỉ để tránh những nguy hiểm của thời
tiết và sống độc cư: thời tiết trong nghĩa gây nguy
hiểm (parasahana), gọi là "nguy hiểm của thời
tiết" (utu- parissaya). Những trình trạng khí hậu
không thích hợp, làm thân xác rối loạn kéo theo sự rối
loạn của tâm, có thể tránh được nhờ xử dụng trú
xứ. Trú xứ cốt để tránh những khổ này, và để hưởng
độc cư. Dĩ nhiên, sự tránh nguy hiểm của thời tiết còn
được nói trong câu "ngăn ngừa lạnh" v.v... Nhưng,
cũng như trong trường hợp dùng y phục, sự che đậy hổ
thẹn được xem là mục đích bất biến, còn những mục đích
khác đều có tính cách giai đoạn, ở đây cũng vậy, nhắc
lại cốt để nhấn mạnh mục đích bất biến là tránh
nguy hiểm của thời tiết, còn những mục đích khác chỉ là
giai đoạn. Lại nữa "thời tiết" chỉ khí hậu, rõ
rệt và tiềm ẩn. Nguy hiểm rõ rệt là sư tử, cọp beo,
v.v... Trong khi nguy hiểm tiềm ẩn là tham sân si v.v... Khi
một tỳ kheo biết và giác sát như vậy trong khi dùng loại
trú xứ nào để những món không phòng hộ và do thấy
những sắc pháp không thích đáng, thì vị ấy được gọi
là có "chân chánh giác sát, xử dụng trú xứ để tránh
những nguy hiểm của thời tiết".
96. Nhu yếu về dược phẩm trị bệnh:
"trị" có nghĩa là đi ngược lại
(paccaya) với bệnh tật (pati -ayana), chỉ bất
cứ loai thuộc nào thích hợp để chữa lành: dầu, mật,
sữa, bo v.v... Gọi là "dược phẩm trị bệnh". Danh
từ Pàli
là parikkhàra dịch là "nhu yếu" ở đây,
nhưng ở đoạn khác, nó có nghĩa là đồ trang bị, phụ tùng.
ở đây, cả hai ý nghĩa đều dùng được, vì dược phẩm
trị bệnh là đồ trang bị để duy trì sự sống, nó che
chở ta bằng cách ngăn ngừa các khổ não có hại sự
sống, đồng thời, nó là đồ phụ tùng, vì là vật để kéo
dài mạng sống. Do vậy gọi là "nhu yếu".
97. Ngăn chận các cảm giác thống khổ đã
sinh: "thống khổ" là sự xáo trộn tứ đại, và
những bệnh do sự xáo trộn ấy gây ra, như ung nhọt, phung
v.v... "Cảm thọ thống khổ" là những cảm giác đau
đớn, những cảm giác phát sinh do bất thiện nghiệp. Ðể được ly khổ hoàn toàn để
hoàn toàn thoát khỏi các khổ.
Trên đây là giải thích ý nghĩa của Giới liên
hệ giữa vật dụng. Nói tóm lại, đặc tính của nó là
những vật sau khi chân chánh giác sát.
98. (a) Trong giới gồm bốn phần này sự chế
ngự của Giới bổn được thọ trì do lòng tin, vì
sự tuyên thuyết những học giới không thuộc lãnh vực
của các đệ tử, bằng chứng là đức Phật từ chối không
cho phép các đệ tử chế ra học giới. (Vin, iii, 9-10).
Khi đã vì lòng tin mà thọ lãnh những học giới Phật
chế, thì ta phải viên mãn học giới ấy, bất kể sinh
mạng, như kinh nói:
Như gà mái giữ trứng
Như trâu mao giữ đuôi
Như người giữ con cưng
Hay một mắt còn lại
Cũng vậy khi đã nguyện
Hộ trì các cấm giới
Hãy luôn luôn cẩn thận
Và biết sợ phạm giới.
Ðức Phật còn dạy thêm: "Khi ta đã tuyên
bố một học giới cho các đệ tử, các đệ tử ta không
được vượt qua học giới ấy, dù có phải mất
mạng". (A. I v, 201)
99. Câu chuyện những vị trưởng lão bị
giặc trói bằng dây cỏ được kể như sau: Trong rừng Mahàvattani,
bọn cướp trói nằm một vị thượng toạ với một thứ dây
màu đen. Trong bảy ngày nằm đấy, ngài tăng trưởng được
tuệ quán, chứng quả Bất hoàn, từ trần và được sanh lên
cõi Phạm thiên. ở Tích lan, một trưởng lão cũng bị
giặc trói nằm bằng cây leo trong một khu rừng. Khi rừng phát
hoả mà cây leo chưa được cắt, ngài an lập trong tuệ và
đạt Niết bàn ngay khi mất. Khi trưởng lão Abhaya,
giảng sư Trường bộ, đi qua đấy cùng với 500 tỷ
kheo, trông thấy sự việc, hoả táng nhục thân ngài và xây
tháp thờ. Bởi thế, các vị thiện gia nam tử đời sau cũng
nên noi gương ấy, giữ các học giới thật thanh tịnh, từ
bỏ mạng sống nếu cần, còn hơn là vị phạm giới luật
mà đức Thế tôn đã chế ra.
100. (b) Trong khi sự chế ngự bằng giới bổn
được thực hành với đức tin, thì chế
ngự các căn môn được thực hành nhờ chánh niệm
tỉnh giác. Khi hoạt động của các căn được y cứ vào chánh
niệm, thì tham dục và các thói khác không có cơ hội xâm
nhập. Như bài pháp về lửa: "Này các tỳ kheo, thà
lấy thỏi sắt nóng đỏ nung đốt con mắt đi, còn hơn là
nắm giữ các tướng riêng của sắc do mắt nhận
biết" (S. iv,
168) Sự chế ngự này cần được thực hành bằng cách
dùng chánh niệm liên tục ngăn sự chấp giữ những tướng
ngoài có thể kích động tâm tham v.v...
101. Nếu không thực hành như vậy, thì giới
chế ngự bằng Giới bổn không được lâu bền, như trồng
trọt không rào giậu. Giới khi ấy sẽ bị giặc phiền não
xâm nhập, như một khu làng mở cổng sẽ bị trộm cướp xâm
nhập. Và tham dục lẻn vào tâm vị ấy như mưa dột ở mái
nhà không lợp kín. Kinh dạy:
Giữa các pháp sắc, thanh...
Căn môn phải phòng hộ
Cửa mở không gìn giữ
Kẻ cướp vào xóm lang.
Như mái nhà vụng lợp
Sẽ bị mưa lọt vào
Dục tham cũng lẻn vào
Tâm không khéo tu tập. (Dh.13)
102. Khi được thực hành như vậy, giới
thuộc sự chế ngự của Giới bổn sẽ được lâu bền, như
trồng trọt có rào giậu kỹ. Giới khi ấy sẽ không bị
giặc phiền não xâm nhập, như khu làng với cổng khéo phòng
vệ thì không bị trộm cướp lẻn vào. Và tham dục không
lẻn vào tâm, như mưa không dột trong một ngôi nhà lợp kín:
Giữa các pháp sắc thanh Căn môn phải phòng hộ Cửa đóng,
khéo gìn giữ cướp không vào được làng.
Như mái nhà khéo lợp
Mưa không thể lọt vào
Dục tham không lọt được
Vào tâm khéo tu tập. (Dh.14)
103. Tuy nhiên, đây mới là giáo lý thượng. Tâm
này được xem là "biến đổi nhanh chóng" (A. I, 10),
bởi vậy, sự phòng hộ các căn môn phải được thực hành
bằng cách tẩy trừ tham ái đã khởi, với pháp quán bất
tịnh. Như đại đức Vangìsa đã làm. Một hôm, trong
lúc ngài đi khất thực, sau khi xuất gia không bao lâu, tham
dục dấy lên nơi tâm lúc thấy một phụ nữ. Ngài liền
bạch tôn giả Ananda:
Dục ái đốt cháy tôi
Tâm tôi bị thiêu đốt
Xin ngài vì thương xót
Nói pháp tiêu lửa hừng. (S. i, 188)
Tôn giả nói:
Chính do điên đảo tưởng
Tâm ngươi bị thiêu đốt
Hãy từ bỏ tịnh tướng
Hệ luỵ đến tham dục
Nhìn các hành vô thường
Khổ đau, không phải ngã.
Dập tắt đại tham dục
Chớ để bị cháy dài
Hãy tu quán bất tịnh
Nhất tâm, khéo định tĩnh
Tu tập niệm trú.
Hành nhiều, hạnh yểm ly
Hãy tập hạnh vô tướng
Ðoạn diệt mạn tùy miên
Nhờ quán sâu kiêu mạn
Hạnh người được an tịnh. (S. i, 188)
Vị đại đức trừ tham dục và tiếp tục đi
khất thực.
104. Lại nữa, một tỷ kheo viên mãn Giới phòng
hộ các căn hãy như đại đức Cittagutta
cư trú trong hang động lớn ở Kurandaka, và đại
đức Mahà - Mitta đại tự viện Coraka.
105. Trong hang động lớn ở Kurandaka, có
một tranh đẹp diễn tả sự xuất gia của bảy vị Phật.
Một số tỷ kheo du hành đến đấy, trông thấy bức tranh
bảo: "bạch đại đức, tranh thật đẹp". Vị đại
đức nói: " Chư hiền, tôi ở đây hơn sáu mươi năm, mà
không biết có tranh ở đấy hay không có, bây giờ, tôi
mới biết được, nhờ chư hền có mắt". Vị trưởng
lão, mặc dù sống ở đó rất lâu, mà không bao giờ ngước
mắt lên nhìn hang động. Tại lối vào hang, có một cổ
thụ lớn, mà vị trưởng lão cũng không bao giờ nhìn lên nó,
ngài chỉ biết là nó có hoa, khi trông thấy những cánh hoa
rơi trên mặt đất.
106. Vua nghe được giới hạnh vị ấy, nên cho
triệu thỉnh ngài, ba lần trưởng lão đều từ chối cả
ba. Vua bèn ra lệnh niêm phong tất cả bầu sữa phụ nữ và
bảo, nếu ngài không chịu đến thì tất cả trẻ con còn bú
phải chết đói. Vì lòng thương tưởng những đứa trẻ,
vị trưởng lão ra đi. Khi nghe ngài đến, vua bảo:
"Thỉnh ngài vào cung. Ta muốn thọ giới". Sau khi ngài
được đưa vào nội cung, vua đến đảnh lễ, cúng dường
và bảo: "bạch đại đức, hôm nay chưa tiện. Mai trẫm
sẽ thọ giới". Vua và hoàng hậu đảnh lễ ngài rồi
lui. Bảy ngày trôi qua như vậy, mỗi khi đức vua hay hoàng
hậu đến, ngài đều nói một câu: "Mong vua được an lành".
107 Các tỷ kheo hỏi: "Tại sao, bạch đại
đức, dù với vua hay hoàng hậu ngài đều nói: mong vua được
an lành? Trưởng lão đáp: "chư hiền, ta không để ý đó
là vua hay là hoàng hậu". Sau bảy ngày, thấy vị trưởng
lão không khoái sống ở cung điện, vua bèn để cho ngài đi.
Ngài trở về hang động. Ban đêm, khi ra đi kinh hành, có
vị thần ở trên dây to trước hang đứng cầm bó đuốc,
ngài bỗng sáng tỏ trong đề tài thiền quán. Vào lúc nửa
đêm, ngài chứng A-la-hán quả, hang động vang dội.
108 Do vây, khi một thiện nam tử muốn tìm
hạnh phúc cho mình,
Thì mắt đừng đói sắc
Như con khỉ trong rừng
Như con nai hoang dã
Như đứa trẻ háo động.
Hãy đi mắt nhìn xuống
Phía trước một tầm cầy
Ðể khỏi sa mãnh lực
Của cái tâm vượn khỉ.
109. Mẹ của trưởng lão
Mahà- Mitta bị một ung độc. Bà nói với người con gái
cũng là một ni cô: "Này cô, hãy đến anh cô, nói cho ông
biết tôi bị đau, và xin về ít thuốc". Ni cô đến
bạch trưởng lão. Ngài nói: "Ta không biết hái rễ cây
để chế thuốc, nhưng ta sẽ bảo cho ngươi một toa thuốc:
từ khi xuất gia, ta chưa bao giờ vi phạm giới" phòng
hộ căn môn bằng lối nhìn hình dáng phụ nữ với tâm ô
nhiễm. Với lời nói đúng sự thật này, mong rằng mẹ ta
sẽ khỏi bệnh. Ngươi hãy trở về bảo vị tín nữ như
vậy, và chà xát cho bà". Ni cô trở về kể lại cho bà
mẹ nghe và làm theo lời trưởng lão dặn. Ngay tức thì, ung
độc tan biến trên thân bà. Bà đứng dậy thốt lời mừng
rỡ: Ôi, nếu đức thế tôn còn sống, thế nào Ngài cũng
lấy tay sờ đầu thọ ký cho một vị tỷ kheo như con
ta".
110. Bởi vậy, một thiện nam tử xuất gia
trong Giới luật này,
Hãy như trưởng lão Mitta
Thực hành một cách viên mãn
Giới phòng hộ các căn
111. (c) Trong khi giới phòng hộ các căn được
thực hiện nhờ chánh niệm thì giới
thanh tịnh sinh mạng cần được thực hiện bằng
sự tinh tấn, Vì người tinh tấn thì từ bỏ được tà
mạng, từ bỏ sự tìm cầu bất chánh, bằng cách tìm cầu
chân chánh là khất thực, v.v.. Tránh những nguồn gốc không
trong sạch như tránh rắn độc, và chỉ dùng những vật
dụng có nguồn gốc trong sạch.
112. Ðối với người không thọ đầu đà thì
bất cứ nhu yếu phẩm nào có được từ nơi tăng chúng,
từ một nhóm tỷ kheo hoặc từ những cư sĩ có đức tin vào
sự giảng pháp của vị ấy, v.v... đều được gọi là
"có nguồn gốc thanh tịnh". Nhưng những thứ kiếm
được do duyên khất thực thì lại có nguồn gốc hoàn toàn
trong sạch. Với người thọ đầu đà, thì thực phẩm thanh
tịnh là thực phẩm có được do khất thực và do những người
có lòng tin ở đức tính khỏi hạnh của vụ ấy. Nếu vị
ấy sử dụng nước tiểu để trị bệnh, và chỉ ăn
những hạt giẻ rụng, vỡ ra, thì đầu đà hạnh của vị
ấy thật xứng đáng, vị ấy được xem là một tỷ kheo
tối thượng trong số những vị thừa tự gia tài Thánh pháp
(A. ii, 28)
113. Về y phục và những nhu yếu khác, một
tỷ kheo thanh tịnh sinh mạng không được nói những cách nói
ám chỉ, nói quanh, v.v... Nhưng về một trú xứ thì vị không
thọ đầu đà hạnh có thể nói ám chỉ.
114. Ví dụ khi một tỷ kheo đang sửa soạn đất
để làm một chỗ ở, và được hỏi: "Bạch đại đức,
ai xây cất?" Vị ấy trả lời: "Không ai cả"
Một lối ám chỉ khác, là hỏi: "Cư sĩ ở đâu?"
-Bạch đại đức, con ở trong một khu biệt
thự -Ồ cư sĩ nhưng tỷ kheo lại không được ở biết
thự" Nói quanh là như nói: "Trú xứ của tăng chúng
đã chật ních". Hoặc một kiểu nói gián tiếp nào khác.
115 Nhưng về dược phẩm trị bệnh, thì tất
cả lối nói ám chỉ, quanh co đều được phép. Nhưng khi đã
khỏi bịnh có được phép dùng những thứ dược phẩm đã
xin được nhờ lối nói ấy hay không. Những Luật sư thì
cho rằng được, còn những nhà y cứ vào kinh thì bảo mặc
dù không phạm, song mạng sống như vậy là hết thanh tịnh,
cho nên không được.
116 Tuy nhiên, một người không dùng lối nói
ám chỉ quanh co, mặc dù Thế tôn cho phép, một người
thiểu dục chỉ dùng những vật có được một cách chân
chánh, không nói quanh co dù có phải hại tới sinh mạng,
một vị như thế được gọi là tối thượng trong đời
sống độc cư nhàn tịnh, như trưởng lão Xa lợi Phất.
117. Một thời tôn giả sống trong khu rừng cùng
với Tôn giả Mục Kiền Liên. Một hôm, ngài bị chứng đau
ruột trầm trọng. Vào buổi chiều, tôn giả Mục Kiền Liên
đến săn sóc ngài, hỏi: "Hiền giả, ngày xưa mỗi khi
đau như vậy, cái gì làm cho hiền giả bớt đau? Tôn giả
trả lời "Khi tôi còn ở nhà, mẹ tôi thường trộn bơ,
mật đường, v.v... Và cho tôi ăn cháo với sữa tươi. Tôi
ăn xong thì thấy đỡ.
-"Ðược rồi, hiền giả. Nếu hiền giả
hoặc tôi có phước đức, thì có lẽ ngày mai, chúng ta sẽ
được một ít những thứ ấy".
118. Bấy giờ có một vị thần cây ở gần
nghe lỏm câu chuyện, nghĩ: "Ta sẽ cúng cháo cho tôn
giả ngày mai". Rồi vị ấy đến gia đình thường ủng
hộ tôn giả, nhập vào thân của đứa con trai lớn, làm cho
nó đau, và bảo quyến thuộc của nó rằng: "Nếu làm
một thứ cháo như vậy như vậy cho tôn giả, thì ta mới
giải cứu cho đứa bé". Dù thần không bảo, chúng tôi
vẫn cúng dường tôn giả những vật cần dùng cơ mà".
Hôm sau, họ sửa soạn món cháo như tôn giả cần.
119. Tôn giả Mục Kiền Liên hôm sau đến
khất thực tại nhà ấy. Gia chủ đổ đầy bát của ngài
thứ cháo đã làm sẵn. Tôn giả toan đi thì thí chủ bảo:
"Bạch đại đức cứ dùng đi. Chúng con sẽ cúng thêm".
Sau khi tôn giả ăn xong, họ cúng thêm bát nữa để Tôn
giả đem về. Thấy cháo, Tôn giả Xá Lợi Phất nghĩ: cháo
này rất tốt, nhưng nó có được bằng cách nào? Khi thấy
nó đã có được do cách như vậy, Tôn giả nói: "Hiền
giả, món ăn khất thực này không thể dùng được".
120. Thay vì nghĩ: "Vị ấy không thèm ăn đồ
khất thực do ta mang về" Tôn giả Mục Kiền Liên cầm
bát cháo lật úp lại. Khi cháo đổ ra trên đất, cơn đau
của Tôn giả Xá Lợi Phất tan biến, và từ đấy suốt đến
bốn mươi lăm năm sau, không bao giờ trở lại.
121. Và Tôn giả Xá Lợi Phất bảo bạn:
"Hiền giả, dù ruột có lòi ra, kéo lê trên đất, ta cũng
không bao giờ nên ăn cháo có được do lời nói ám
chỉ".
122. Bởi thế, trong mọi trường hợp
Người xuất gia vì lòng tin
Hãy thanh tịnh mạng sống
Luôn chân chánh quán sát
Không tìm cầu bất đáng.
123. (d) Trong khi sự thanh tịnh sinh mạng được
thực hành nhờ tinh tấn thì giới
liên hệ đến bốn vật dụng phải được thực hành
bằng
trí tuệ, vì chỉ có người trí tuệ mới có thể
thấy được những lợi ích và nguy hiểm trong bốn vật
dụng. Hãy từ bỏ lòng tham đối với chúng, và giữ giới
này bằng cách sử dụng những vật có được bằng cách
hợp pháp, thích đáng, sau khi chân chánh giác sát với trí
tuệ như đã nói ở trên.
124. Giác sát có hai: trong khi sử dụng và trong
khi nhận vật. Sử dụng không lỗi là khi người nhận y
v.v.. Quán sát chúng chỉ là bốn đại, đáng nhàm chán, và
khi dùng cũng quán sát như vậy.
125. Có bốn cách sử dụng: Dùng như kẻ
trộm, dùng như mắc nợ, dùng như hưởng gia tài và dùng như
chủ. Một người không giới đức sử dụng bốn vật
dụng, ngay cả tới việc ngồi trong hàng tăng chúng gọi là
dùng như kẻ trộm. Một người có giới, mà không chân chính
giác sát (quán) trong khi dùng, thì gọi là "dùng như
mắc nợ". Bởi thế, y phục phải được giác sát mỗi
khi mặc, món ăn khất thực phải được giác sát trong
từng miếng ăn. Người nào không làm được như vậy, thì
hãy giác sát trước bữa ăn, sau bữa ăn, vào đầu đêm,
giữa đêm và cuối đêm.
Nếu mặt trời mọc mà chưa giác sát, thì vị
ấy tự thấy như đã mắc nợ khi sử dụng bốn thứ. Trú
xứ cũng cần giác sát mỗi khi dùng. Về dược phẩm trị
bệnh, chân chánh giác sát trong cả hai thời, khi nhận và
khi dùng, thì tốt. Nhưng khi nhận có giác sát, mà khi dùng
không chánh niệm thì lỗi. Nếu khi nhận không có chánh
niệm (giác sát) mà khi dùng có, thì không lỗi.
126. Thanh tịnh thuộc bốn loại: nhờ giáo lý,
nhờ phòng hộ, nhờ tìm cầu và nhờ giác sát. Giới thuộc
phòng hộ của giới bổn là thanh tịnh nhờ giáo lý.
Giới thuộc phòng hộ các căn là thanh tịnh nhờ phòng hộ.
Giới thuộc thanh tịnh sinh mạng là thanh tịnh nhờ tìm cầu,
vì sự tìm cầu được thanh tịnh nơi người từ bỏ tà
mạng. Giới thuộc bốn vật dụng là thanh tịnh nhờ giác sát.
Do đó, mà trên đây nói, mặc dù khi nhận quên giác sát, mà
khi dùng có giác sát thì không lỗi.
127. Sử dụng bốn thứ do bảy bậc Hữu học
(bốn đạo, ba quả) gọi chung là "dùng như thừa
tự". Vì họ là những người con của Như lai, họ dùng
những vật dụng như thừa hưởng gia tài của cha để
lại. Mặc dù do cư sĩ cúng mà thật sự là của Phật, vì
nhờ Phật mà họ được phép dùng. "Dùng như chủ"
là với những vị đã đoạn trừ hết phiền não, không còn
bị dục sai sử.
128. Về các cách dùng nói trên, dùng như chủ
và như thừa tự thì ai cũng được phép. Nhưng dùng như
mắc nợ thì không được, nói gì đến dùng như kẻ trộm.
Nhưng một người có giới hạnh, mà dùng có giác sát, thì
không nợ, vì nó trái lại với sự dùng như mắc nợ.
Hoặc nó cũng được gồm trong sự "dùng như thừa
tự", bởi vì một người có giới đức cũng được
gọi là bực Hữu học, vì có học giới.
129. Cách dùng tốt nhất là dùng như chủ, nên
khi một tỷ kheo giữ giới liên hệ bốn vật dụng, vị
ấy nên tác ý như vậy, và sử dụng sau khi giác sát như đã
nói.
Ðệ tử có trí tuệ
Vâng giữ pháp Thế Tôn
Thường chân chánh giác sát
Rồi mới dùng thức ăn
Trú xứ và sàng toà
Và cả nước giặt y
Như nước đổ lá sen
Tỷ kheo không ô nhiễm
Bởi một vật dụng nào
Như đồ ăn khất thực
Trú xứ và sàng toà
Cùng nước để giặt áo
Vì là sự hỗ trợ
Phải thời từ người khác
Vị ấy vừa biết đủ
Chân chánh giác sát luôn
Trong khi nhai và ăn
Trong khi thưởng thức vị
Xem nó như thứ dầu
Ðắp vết thương lở lói
Như thịt con trên sa mạc
Như dầu mỡ cho trục xe
Tỷ kheo ăn không vọng tưởng
Thức ăn để sống còn".
130. Liên hệ đến sự viên mãn giới thuộc
về bốn vật dụng, có câu chuyện sa di cháu tôn giả Sngharakkhita.
Vị này dùng bốn vật cần thiết sau khi giác sát, đã nói:
Thấy tôi thản nhiên ăn
Thầy tôi bèn dạy rằng
Sa di không chế ngự
Thì coi chừng lưỡi bong
Nghe xong những lời Thầy
Tôi tinh cần nhiệt tâm
Trong thời thiền toạ
Ðắc A-la-hán quả
Tâm tư như trăng rằm
Các lậu hoặc đoạn tận
Không còn thọ thân sau
Bất cứ một người nào
Mong muốn chấm dứt khổ
Thì hãy dùng bốn vật
Sau khi chánh giác sát.
Trên đây nói về gi?i thuộc bốn loại: Giới
thuộc sự phòng hộ theo Giới bổn. Giới thuộc sự phòng
hộ các căn môn, Giới thuộc sự phòng hộ thanh tịnh sinh
mạng, và Giới thuộc bốn vật dụng.
131.
18). Bây giờ, hãy đề cập đến nhóm "năm
loại" đầu tiên. Patisambhidà
nói:
(a) Gì là giới thanh tịnh một phần? Ðó là
học giới của người chưa nhập Tăng chúng.
(b) Gì là giới thanh tịnh hoàn toàn? Là học
giới của các vị dã được nhập tăng chúng, đã thọ
giới cụ túc.
(c) Gì là giới thanh tịnh đã viên mãn? Là
giới của phàm phu hữu dức chuyên hành thiện, đang viên
mãn hữu học đạo, không kể sinh mạng vì đã từ bỏ
sự bám víu vào đời sống.
(d) Gì là giới thanh tịnh không lệ thuộc? Là
giới của thanh văn đệ tử đã đoạn tận lâu hoặc, là
giới của các bậc Giác ngộ không tuyên bố lên, giới
của các đấng đã viên giác. (Ps.
i, -3)
132 (a) Giới của những người chưa được hoàn
toàn thâu nhận vào Tăng chúng, gọi là giới thanh tịnh một phần
vì nó bị giới hạn bởi con số những học giới: 5, 8 hay
10 giới.
(b) Giới của người đã thọ cụ túc được
nói như sau:
Chín ngàn triệu, một năm
Tám mươi triệu, một trăm năm mươi ngàn
Thêm ba mươi sáu, tổng số các học giới
Những giới luật này Thế Tôn giảng
Dưới những đề mục để tuân hành
Bao gồm sự chế ngự theo Giới bổn.
[Con số trên đây tùy koti là bao nhiêu 1.
000. 000, 100. 000 hay 10. 000].
Mặc dù giới được kể bằng con số, song
cần hiểu rằng đây là giới thanh tịnh không giới hạn, vì
nó được thọ trì không dè dặt, không có những giới
hạn như danh xưng, lợi dưỡng, quyến thuộc, thân thể
hoặc sinh mạng. Như giới hạnh của Trưởng lão Mahà
Tissa Ciragumba.
133. Vị này không bao giờ từ bỏ tư duy sau đây
của một thiện nam tử:
"Tài sản nên bỏ để cứu chân tay
Chân tay phải bỏ để cứ mạng sống
Tài sản, chân tay và tánh mạng
Ðều nên bỏ để thực hành Chánh pháp!
134 Giới của phàm phu hữu đức từ khi được
thâu nhận vào tăng chúng đã không có một ô nhiễm nào
về ý, do tâm hoàn toàn thanh tịnh, giới ấy trở thành nguyên
nhân gần nhất cho A-la-hán quả nên được gọi là Giới
thanh tịnh viên mãn, như trường hợp hai cậu cháu là Trưởng
lão Sangharakkhita (Tăng Hộ) và cháu ngài.
135. Trưởng lão tuổi trên sáu mươi đang nằm
đợi chết. Tăng chúng đến hỏi ngài có đắc địa vị siêu
thế gì không. Ngài bảo: "Ta không đắc địa vị nào
siêu thế hết". Khi ấy vị tỷ kheo trẻ hầu ngài
bảo: " Bạch đại đức, mọi người, vì tưởng ngài
đã đắc Niết bàn, nên mới đi hàng chục dặm đường để
đến đây. Họ sẽ vô cùng thất vọng, nếu ngài chỉ
chết như một phàm phu thường tình "Hiền giả, vì
muốn gặp đức Thế Tôn Metteyya (Di Lặc), nên ta không
nổ lực để đắc tuệ giác. Vậy, bây giờ hiền giả hãy
đỡ ta ngồi dậy, may ra có đắc chăng". Vị tỷ kheo bèn
đỡ ngài dậy, rồi đi ra. Khi ông vừa ra khỏi, trưởng lão
liền đắc A-la-hán quả, và khảy móng tay ra hiệu Tăng chúng
tụ lại, bạch ngài: "Bạch đại đức, ngài đã làm
một việc khó, là hoàn thành thánh quả vào lúc lâm
chung". Chư hiền, việc ấy không khó. Nhưng ta sẽ bảo
cho chư hiền biết là việc gì khó thật sự. Chư hiền,
từ khi xuất gia cho tới ngày nay, ta không thấy có một hành
vi nào ta làm mà không ý thức, không có chánh niệm kèm
theo".
Cháu của ngài cũng đắc quả A-la-hán như
vậy, vào lúc năm mươi tuổi.
136.
"Nếu một người ít học
Lại không có giới đức
Sẽ bị người chê bai
Vì không học, không hạnh,
Nhưng nếu người ít học
Mà biết phòng hộ giới
Thì mọi người khen ngợi
Cũng như người có học
Nếu một người học nhiều
Mà không có giới đức
Sẽ bị chê không giới
Như thể người không học
Nếu người ấy học nhiều
Lại biết phòng hộ giới
Sẽ được khen cả hai
Về học và về giới
Bậc đệ tử đa văn
Giữ giới, có trí tuệ
Như vàng sông Diêm Phù
Ai mà chê trách được?
Chư thiên đều ca ngợi
Phạm thiên cũng tán dương (A. ii, 7)
137. (d) Thanh tịnh không dính mắc là giới
của bậc hữu học, vì không dính mắc tà kiến, và như
giới ở trưởng lão Tissa con trai vị địa chủ (Kutumbiyaputta -Tissa Thera). Nhân
vì muốn an lập trong quả vị A-la-hán nhờ giới hạnh này,
ngài đã bảo những kẻ thù ngài như sau:
Ta đã bẻ gãy xương
Cả hai ống chân ta
Ðể hoàn thành lời hứa
Như lời ngươi đòi hỏi
Ta kinh khủng hổ thẹn
Nếu chết còn đèo tham
Sau khi nghĩ như thế
Ta chánh niệm tỉnh giác
Và khi mặt trời lên
Soi chiếu trên người ta
Ta đắc La hán quả. (MA. i, 233)
138. Lại có một vị trưởng lão đau nặng không
thể tự ăn. Ngài nằm quằn quại trên phân và tiểu đã bài
tiết. Thấy vậy, một tỷ kheo trẻ bảo: "Ôi, thật đau
khổ thay là sự sống!" Vị trưởng lão bảo tỷ kheo
ấy: "Hiền giả, nếu bây giờ ta chết đi, thì chắc
chắn ta sẽ được phúc lạc cõi trời, ta không hồ nghi gì
về điều ấy. Nhưng cái hạnh phúc do sự đoạn dứt giới
hạnh đem lại thì cũng như tình trạng "hạnh phúc"
từ bỏ học giới để hoàn tục". Và ngài thêm:
"Ta sẽ chết với giới hạnh của ta". Khi nằm như
vậy, ngài dùng tuệ quán sát bệnh mình và đắc A-la-hán.
Sau khi đắc quả, ngài nói lên bài kệ:
Ta là một nạn nhân
Của chứng bệnh ngặt nghèo
Ðang tàn phá cơ thể
Với cơn đau khốc liệt
Như cánh hoa phong trần
Bị mặt trời thiêu đốt
Cơ thể này của ta
Cũng đang tàn tạ dần.
Không đẹp cho là đẹp
Bất tịnh cho là sạch
Uế nhơ bảo tốt tươi
Loà mắt đều thấy thế.
Thân xác hủ bại này
Thối tha hôi hám thay
Bị đớn đau dằn vặt
Người ngu lại mê say
Ðể lạc mất con đường
Tái sinh lên thiên giới. (Jà. ii, 437)
139. (e) Giới của bậc A-la-hán, v.v... Gọi là
giới an tịnh, vì không tất cả cấu uế, và vì rất thanh
tịnh.
140.
19). Cuối cùng, nhóm năm
loại thứ hai (xem đoạn 25) là từ bỏ, kiêng, tác ý (tư
tâm sở), chế ngự và không phạm, thì như Patisambhidà
nói:
(1) Về giới sát sanh:
(a) từ bỏ sát sinh là giới
(b) kiêng sát là giới
(c) tư tâm sở (ý chí) là giới
(d) chế ngự là giới
(e) không phạm là giới
(2) Lấy của không cho: từ bỏ lấy của không
cho là giới, v.v...
(3) Từ bỏ dâm dục là giới,...
(4) Từ bỏ nói láo là giới,...
(5) Từ bỏ nói độc ác là giới,...
(6) Từ bỏ nói thô là giới,...
(7) Từ bỏ nói vô ích là giới,...
(8) Từ bỏ tham là giới,...
(9) Từ bỏ sân là giới,...
(10) Từ bỏ tà kiến là giới,..
(11) Với hạnh xuất ly, từ bỏ tham dục là
giới, v.v...
(12) Với vô sân, từ bỏ ân là giới, v.v..
(13) Với tưởng ánh sáng, từ bỏ hôn trầm là giới,
v.v...
(14) Với không tán loạn, từ bỏ trạo cử là giới, v.v..
(15) Với trạch pháp, từ bỏ nghi là giới, v. v...
(16) với tri kiến, từ bỏ chán nản là giới, v.v..
(17) Với hân hoan, từ bỏ chán nản là giới,....
(18) Ở sơ thiền, từ bỏ năm thứ triền cái
là giới...
(19) Nhị thiền, từ bỏ tầm tứ là giới...
(20) Tam thiền, từ bỏ hỉ...
(21) Tứ thiền, từ bỏ lạc và khổ...
(22) Không vô biên xứ, từ bỏ sắc tưởng,
đối ngại tưởng, sai biệt tưởng là giới...
(23) Thức vô biên xứ, từ bỏ không vô biên xứ tưởng là
giới...
(24) Vô sở hữu xứ, từ bỏ thức vô biên xứ tưởng là
giới...
(25) Phi tưởng phi phi tưởng xứ, từ bỏ vô
sở hữu xứ tưởng là giới...
(26) Quán vô thường, từ bỏ thường là giới
(27) Quán khổ, từ bỏ lạc tưởng là giới...
(28) quán vô ngã, từ bỏ ngã tưởng là giới...
(29) Quán yểm ly, từ bỏ tưởng ưa thích là giới...
(30) Quán ly tham, từ bỏ tham là giới...
(31) Quán diệt, từ bỏ sanh là giới....
(32) Quán xả ly, từ bỏ thủ trước là giới....
(33) Quán hoại, từ bỏ tưởng kết hợp là
giới....
(34) Quán (các hành) diệt, từ bỏ tích luỹ nghiệp là
giới...
(35) Quán biến đổi, từ bỏ tưởng về sự lâu bền là
giới...
(36) Quán vô tướng, từ bỏ tướng là giới....
(37) Quán vô nguyện, từ bỏ dục là giới...
(38) Quán không, từ bỏ tà giải (cố chấp) là giới...
(39) Quán các pháp thuộc tăng thượng tuệ, từ bỏ tà
giải do chấp thủ là giới...
(40) Với chánh tri kiến, từ bỏ tà giải do si là
giới....
(41) Quán nguy hiểm, từ bỏ tài giải do y cứ vào các hành
là giới...
(42) Với tư duy, từ bỏ không tư duy là giới...
(43) Với quán "quay đi", từ bỏ tà giải do trói
buộc là giới....
(44) Dự lưu đạo, từ bỏ cấu uế do tà
kiến là giới...
(45) Nhất lai đạo, từ bỏ các cấu uế thô là giới...
(46) Bất hoàn đạo, từ bỏ cấu uế còn sót lại (dư tàn)
là giới...
(47) A-la-hán đạo, từ bỏ tất cả cấu uế là giới, kiêng
giữ là giới, tác ý là giới, chế ngự là giới, không
phạm là giới.
"Những giới ấy đưa đến bất hối, hân
hoan hỉ, khinh an, lạc tập hành (thói quen nhờ lập đi lập
lại) đến tu tập, đào luyện, cải thiện, đến điều
kiện cho định, trang bị cho định, đưa đến viên mãn, hoàn
toàn viễn ly, ly tham, đưa đến sự tịch diệt, an ổn,
thắng trí, giác ngộ, Niết bàn". (Ps.
i, 466-7)
Chú thích: Bảng kê trên đây cho thấy rõ
những giai đoạn trong sự tiến triển bình thường từ vô
minh đến quả vị A-la-hán, gồm các nhóm sau: I. Giới
là từ bỏ mười bất thiện nghiệp (1) - (10). II Ðịnh A.
Từ bỏ bảy chướng ngại do định bằng các pháp ngược
lại với chúng (11) đến (17) Ðịnh B. Tám định
chứng và các pháp nào được từ bỏ trong mỗi loại định
(18) đến (25). III Tuệ:
A. Quán: mười tám pháp quán chính yếu khỏi từ bảy
quán (26) đến (43); B. Ðạo Lộ: bốn đạo, và các
pháp từ bỏ ở mỗi đạo (44) đến (47).
141. "Từ bỏ" nghĩa là không khởi lên
các bất thiện pháp như sát sinh, v.v.. Nhưng sự từ bỏ
một pháp bất thiện sẽ hổ trợ, nâng đỡ một thiện pháp
do nghĩa sự từ bỏ ấy làm nền tàng cho thiện, tập trung
thiện ấy bằng cách ngăn sự do dự, nên gọi là giới Sìla với
nghĩa phối hợp Sìlana, nghĩa là nâng đỡ và tập
trung (xem đoạn 19). Bốn việc còn lại chỉ sự có mặt
của ý chí kiêng làm điều này điều khác, ý chí kể như
sự tác ý về hai việc "kiêng và chế ngự" ấy, và
ý chí kể như sự vô phạm ở nơi một người không phạm
giới này giới nọ.
142. Ðến đây, câu hỏi thứ năm: "có
mấy loại giới" đã được gải quyết xong.
143. Còn lại là: Gì làm giới ô nhiễm, gì làm
giới thanh tịnh?
Trả lời là sự rách nát của giới gọi là
ô nhiễm, và không rách nát gọi là thanh tịnh. Sự "rách
nát" của giới là phạm giới do vì lợi dưỡng, tiếng
khen, (danh xưng) v.v... Và do bảy trói buộc của nhục dục.
Khi một người vi phạm học giới ở chặn đầu hay chặn
cuối của đường tu, thuộc về bất cứ giới nào nằm
trong bảy "tụ" (là bảy nhóm giới luật tỷ kheo),
thì giới của vị ấy gọi là bị rách, như một tấm vải
bị cắt ở biên. Nhưng khi vị ấy phạm giới nửa chừng
tu học, thì gọi là giới bị "lủng", như tấm
vải bị cắt ở giữa. Khi phạm giới liên tiếp hai ba
lần, giới của vị ấy gọi là "bị ố", như một
con bò toàn thân đen hay đỏ, mà bỗng có một mảng lông khác
màu ở lưng hay bụng. Khi vị ấy phạm giới thường xuyên,
thì giới vị ấy gọi là "lốm đốm", như con bò
trên toàn thân có những đốm khác màu với da của nó.
144. Cũng vậy, giới không nguyên vẹn, là khi còn
bảy trói buộc của dục, như đức Thế Tôn dạy: "Này
ba la môn, có một số sa môn, bà la môn tự hào sống phạm
hạnh chân chánh, vì họ không thực sự hành dâm với phụ
nữ. Nhưng họ lại để cho phụ nữ chà xát, thoa bóp,
tắm, kỳ cọ, thích thú khoái lạc trong đó, thoả mãn trong
đó. Ðây gọi là giới bị rách, bị lủng, hoen ố, bị
lốm đốm, nơi người sống phạm hạnh. Người ấy được
gọi là sống đời phạm hạnh không sạch. Cũng như một người
bị trói bởi dây trói dục vọng, vị ấy sẽ không thoát
khỏi sanh, già, chết, sầu bị khổ ưu não.
145. Lại nữa, bà la môn, có khi vị ấy không
để phụ nữ làm những việc như trên, nhưng lại đùa
giỡn, cợt nhã, vui thú với phụ nữ.
146. Lại nữa, có khi không đùa giỡn, nhưng
vị ấy lại nhìn chòng chọc vào đàn bà con gái, bốn mắt
nhìn nhau....
147. Lại nữa, bà la môn, có khi không làm như
vậy, nhưng vị ấy lại lắng tai nghe tiếng phụ nữ cách vách
nói, cười, hát khóc...
148. Lại nữa, dù không làm như trên, nhưng
vị ấy tư tưởng đến tiếng nói, giọng cười và những
trò chơi mà ngày trước đã chơi với họ.
149. Lại nữa, bà la môn, có thể vị ấy không
như vậy, nhưng lại nhìn một gia chủ hay con trai của gia
chủ đang sở hữu, hưởng thụ, đắm mê năm thứ dục
lạc.
150. Lại nữa, bà la môn, có khi vị ấy không
làm những điều như trên, nhưng vị ấy tu phạm hạnh với
mong ước rằng, do phạm hạnh này, do khổ hạnh này, ta
trở thành một vị trời ở cõi cao hoặc thấp. Vị ấy,
vui thích, ham muốn, thoả mãn trong ước vọng đó. Này bà
la môn, đây gọi là giới bị rách, bị lủng, bị hoen ố,
bị lốm đốm, nơi một người tu phạm hạnh. Người ấy,
Ta nói sẽ không thoát khỏi khổ đâu". (A.
iv, 54-6)
151. Sự nguyên vẹn của giới là: không vi
phạm các học giới sám hối những giới đã phạm, không có
bảy trói buộc của dục vọng, và lại không khởi những
ác pháp như sân, hận thù, thống trị, khinh bỉ, đố kỵ,
bỏn xẻn, lừa dối, gian lận, cứng đầu, kiêu căng, ngã
mạn, cao ngạo, khoe khoang, lơ đễnh (xem M.,
kinh số 7), mà thường khởi những đức tính như ít
muốn, biết đủ, viễn ly (M., kinh số 24).
152 Giới không bị vi phạm vì mục đích lợi
dưỡng, v.v... Và giới được điều chỉnh do sám hối vì
đã lỡ phạm, giới không bị hỏng vì trói buộc của
dục, và vì nhứng ác pháp như sân, hận gọi là giới hoàn
toàn không bị rách, không lủng, không vá, không lốm đốm.
Những giới như vậy gọi là giải thoát vì đem lại tình
trạng một con người giải thoát, gọi là được người trí khen ngợi,
là không dính mắc ái và kiến, là giúp cho định vì
nó đưa đến định cận hành và định an chỉ. Bởi vậy,
sự không rách, v.v.. Chính là thanh tịnh giới.
153. Sự thanh tịnh ấy có được nhờ hai phương
diện: thấy nguy hiểm của sự phạm giới, và thấy lợi
lạc của sự viên mãn giới. Nguy hiểm của sự phạm giới
là như nói trong Tăng chi iii, 252: "Này các tỷ kheo, có năm
nguy hiểm"...
154. Lại nữa, do sự thiếu giới hạnh mà
một người không làm cho chư thiên và loài người hoan hỷ,
thành một kẻ khó nói dối với đồng phạm hạnh. Vị ấy
đau khổ khi phạm giới, bị chỉ trích, và hối hận khi
thấy những người giữ giới được tán dương. Vì thiếu
giới, vị ấy xấu như vải gai thô. Sự chung đụng với
một người như vậy là đau khổ, vì người đồng quan điểm
vơi vị ấy sẽ phải đau khổ lâu dài trong những đoạ
xứ. Người ấy vô giá trị, vì không đem lại quả báo
lớn cho những thí chủ. Người ấy khó làm cho sạch, như
thùng phân do lâu năm, như một khúc gỗ mục trên giàn
hoả, vì không phải xuất gia cũng không phải cư sĩ. Mặc dù
tự xưng là tỷ kheo mà không phải tỷ kheo, nên giống như
con lừa đi theo bầy bò. Vị ấy luôn luôn nóng nảy, như
kẻ thù của mọi người. Sống chung với vị ấy khó như
sống chung với một xác chết. Mặc dù vị ấy có thể là
người đa văn, vân vân, vị ấy không đáng được các
bậc đồng phạm hạnh cung kính, cũng như ngọn lửa củi
bất tịnh đối với bà la môn thờ lửa. Vị ấy không
thể đắc các quả chứng thù thắng, như người mù không
thể thấy sắc. Vị ấy bất cẩn đối với diệu pháp, như
kẻ nghèo đối với vương quốc.
Mặc dù vị ấy tưởng mình hạnh phúc, mà
kỳ thực rất đau khổ, vì gặt hái những khổ được trình
bày trong kinh Hoả tụ. (A. iv,
128-34)
155. Ðức Thế Tôn đã dạy, khi người không
giới được cung kính cúng dường mà tâm còn tràn đầy
dục vọng đối với năm thú dục, thì hậu quả sẽ là đau
khổ mãnh liệt, do duyên ấy có thể làm cho người ấy
thổ ra máu nóng vì nhớ lại việc đã làm. "Này các
tỷ kheo, các ông có thấy đống lửa lớn đang cháy hừng
hực kia không?" "Bạch Thế Tôn, có" "Các ngươi
nghĩ sao, Này các tỷ kheo, thà ngồi hay nằm ôm đống lửa
rực đỏ ấy, hay thà ngồi, nằm ôm một cô gái thuộc dòng
sát đế lỵ, bà la môn, con gái gia chủ với chân tay mềm
mại?" "Bạch Thế Tôn, thà ôm một cô gái sát đế
lợi là hơn vì Bạch Thế Tôn, thật là đau khổ nếu ngồi
ôm hay nằm ôm đống lửa đỏ rực ấy".
156. "Này các tỷ kheo, ta bảo các ông, đối
với một người xuất gia không có giới đức, bản chất
xấu, có những thói khả nghi bất tịnh, hành vi lén lút, không
phải sa môn tự xưng sa môn, không sống phạm hạnh tự xưng
là phạm hạnh, nội tâm hủ bại, dâm tà, đ?y những thối
nát, với một người như vậy, thà ngồi ôm hay nằm ôm cái
đống lửa lớn hừng hực kia. Tại sao? Vì làm như vậy, nó
có thể bị chết, nhưng không vì vậy mà khi thân hoại
mạng chung, nó phải bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đoạ
xứ, địa ngục. Nhưng nếu một người không có giới đức,
bản chất xấu,... Mà ngồi hay nằm ôm một cô gái dòng sát
đế lỵ.... Thì phải chịu đau khổ tai hại lâu dài, bởi
khi thân hoại mạng chung, nó sẽ tái sinh vào đoạ xứ, ác
thú, cõi dữ, địa ngục" (A.
iv, 128-9)
157. Sau khi dùng ví dụ đống lửa để chỉ đau
khổ đi kèm với sự đam mê nhục dục, Ngài còn lấy ví
dục về dây lông đuôi ngựa, chĩa nhọn, nền sắt nóng, hoàn
sắt đỏ, giường sắt, ghế sắt, nồi sắt, để ví với
nổi đau đớn do duyên nhận sự cung kính cúng dường, và
do dùng bốn vật cần thiết, đối với một tỷ kheo không
có giới đức". (A. iv, 129)
158.
Vui gì người phá giới
Không từ bỏ dục lạc
Khi nó phải chịu khổ
Còn đau đớn dữ dội
Hơn ôm đống lửa hừng?
Vui gì được cúng dường
Khi phá giới chịu khổ
Bị thừng đuôi ngựa quất
Cũng không đau khổ bằng
Vui gì kẻ phá giới
Khi nhận sự kính chào
Do duyên này chịu khổ
Hơn kiếm nhọn đâm vào?
Vui gì dùng y phục
Không chế ngự tự thân
Vì chính do duyên ấy
Chịu áo sắt quấn thân
Ðồ khất thực dù ngon
Không giới thành độc dược
Bởi vì do duyên ấy
Nuốt sắt nóng nhiều hòn
Khi người không giới đức
Sử dụng giường và ghế
Dù thấy có êm dịu
Vẫn là nhân khổ đau
Vì nó sẽ phải chịu
Hành hạ lâu thật lâu
Nằm ngồi trên ghế giường
Toàn màn sắt nung đỏ.
Vui chi người phá giới
Khi xử dụng trú xứ
Của tín thí cúng dường
Bởi vì do duyên ấy
Tương lai nó phải ở
Trong nồi sắt lửa hừng?
Bậc Ðạo sư nhiều lần
Quở trách người phá giới:
"Có những thói khả nghi
Hủ bại và dâm tà
Tâm xấu xa thối nát".
Như thế ấy, cuộc đời"
Của người không giới đức
Người đội lốt sa môn
Ðấy là kẻ tự hại
Tự mình đào hố chôn.
Ai đáng được xót thương
Hơn người không giới đức?
Nhiều và trầm trọng thay
Lỗi lầm của phá giới.
Quán sát như trên gọi là "thấy nguy hiểm
trong sự phá giới", và thấy lợi lạc của sự viên mãn
giới thì nên hiểu là điều ngược lại.
159. Hơn nữa,
Ai giữ giới toàn vẹn
Thì việc mang y bát
Gây lạc thú, niềm tin
Xuất gia có kết quả
Tỷ kheo giới trong trắng
Không sợ mình trách mình
Cũng như trong mặt trời
Không thể có bóng tối
Tỷ kheo giới trong trắng
Sáng chói khổ hạnh lâm
Như ánh trăng ngời sáng
Chiếu toả bầu trời đêm.
Làn hương từ thân thể
Của tỷ kheo có giới
Làm chư thiên hoan hỷ
Huống chi làn giới hương?
Toàn bích hơn tất cả
Những hương trên thế gian
Hương giới không chướng ngại
Toả bay khắp mười phương.
Phục vụ người giới đức
Dù ít, kết quả nhiều
Bởi vậy người giới đức
Là kho chứa danh xưng
Không có lậu hoặc nào
Ở trong đời hiện tại
Bức bách người có giới
Vị ấy còn đào hết
Gốc rễ của đau khổ
Trong những đời vị lai
Muốn trở thành tối thượng
Trong tất cả loài người
Và cả trong chư thiên
Không phải là chuyện khó
Với người viên mãn giới.
Nhưng vị viên mãn giới
Thì không cầu gì khác
Ngoài Niết bàn tịch diệt
Cảnh giới thuần thanh tịnh
Quả báo giới tốt lành
Ðủ hình thức khác nhau
Người trí nên biết sâu
Gốc ấy của mọi cành.
160. Tâm người nào hiểu được điều này
sẽ rùng mình trước sự sợ hãi phạm giới và cố vươn lên
giới hạnh toàn bích. Bởi thế, hãy thận trọng làm cho
giới được thanh tịnh, sau khi thấy nguy hiểm của phá
giới và lợi lạc của trì giới như trên.
161. Ðến đây, Thanh tịnh đạo, được nêu dưới
những mục Giới, Ðịnh, Tuệ do câu "Người trú giới có trí"...
(Ðoạn 1) đầu tiên là Giới, đã được trình bày.
Chương này được soạn với mục đích làm
cho người lành được hoan hỉ.
---o0o---
Mục lục
| 01 | 02
| 03 | 04
| 05 | 06
| 07 | 08
| 09 | 10
11 |
12
| 13 | 14
| 15 | 16
| 17 | 18
| 19 | 20
| 21 | 22
| 23
---o0o---
|
Thư
Mục Tác Giả |
---o0o---
Source: BuddhaSasana (www.budsas.org)
---o0o---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật ngày: 01-09-2002