Thanh Tịnh Ðạo
(The Path of
Purification - Visuddhimagga )
Luận
sư Bhadantacariya Buddhaghosa
Chuyển
dịch từ Pàli sang Anh ngữ: Trưởng lão Nanamoli
Chuyển dịch từ
Anh ngữ sang Việt ngữ:
Thích Nữ Trí Hải
---o0o---
Chương
V
Ðịnh:
Những Kasina Khác
Kasina
Nước
1. Người tu tập về
biến xứ này, cũng như trong trường hợp biến xứ đất, cần
có thể ngồi thoải mái và nắm lấy tướng nước hoặc
được tạo hoặc không được tạo. Những gì còn lại cũng
như đã nói ở phần kasina đất. Từ đây chỉ nêu
lên những gì khác biệt.
2. Khi một người đã
thực hành ở đời trước, thì tướng hiện ra cho vị ấy
về nước không cần tạo tác, như một cái ao hồ, vịnh,
đại dương... Như trường hợp trưởng lão Cùla-Sìva.
Vị trưởng lão muốn từ bỏ danh xưng lợi dưỡng để sống
đời viễn ly. Ngài xuống tàu ở Nahàtittha đi Ấn độ.
Khi ngắm nhìn biển khơi, tợ tướng của biển ấy hiện lên
nơi ngài.
3. Người chưa tu tập
đời trước, thì phải làm một kasina, đề phòng bốn
lỗi của Kasina (Ch. IV, 24) và đừng năm lấy tướng
nước kế như màu sắc. Hành giả nên lấy một cái bát đựng
nước cao độ bốn gang tay, đổ đầy ngang miệng các thứ
nước không bị dơ vì đất, như nước hứng giữa trời
qua một tấm vải lọc, hoặc bất cứ loại nước trong nào.
Hành giả nên để nó ở một nơi kín đáo, khuất nẻo
trong tu viện, và ngồi cho thoải mái. Không nên quán màu sắc
hay để ý đến đặc tính của nước, mà chỉ nắm lấy
màu sắc kể như nền tảng vật lý của nó, và chú tâm
trên khái niệm danh từ làm tâm pháp trội nhất, và xử dụng
bất cứ danh từ nào chỉ "nước" như àpo, ambu (mưa),
udaka ( chất lỏng), vàri (sương), salida (chất
lỏng) v.v... Vị ấy nên khai triển biến xứ nước bằng cách
dùng cái tên rõ rệt nhất (cho mình) như "nước, nước".
4. Khi hành giả tu tập
cách ấy cuối cùng, 2 tướng sẽ khởi lên như đã nói. Tuy
nhiên, ở trường hợp này, sơ tướng có vẻ di động. Nếu
nước có bọt hay bong bóng, thì sơ tướng cũng có tướng y
hệt. Nhưng tợ tướng thì hiện ra bất động như cái quạt
lớn bằng pha lê giữa hư không, như một mặt gương tròn.
Khi tương ấy xuất hiện, hành gỉa đạt đến định cận
hành, và định an chỉ thuộc tứ thiền, ngũ thiền theo cách
đã mô tả.
Kasina
Lửa
5. Người muốn tu tập
Kasina lửa cần nắm lấy tướng lửa. Khi hành giả đã
tu tập từ đời trước, thì tướng sinh khởi trong bất cứ
loại lửa nào không cần tạo tác, như khi nhìn tim bấc
cháy nơi ngọn đèn hay nơi một hoả lò, nơi chỗ nung chén
bát, hay nơi một đám cháy rừng, như trường hợp trưởng
lão Cittagutta. Tướng khởi lên nơi trưởng lão khi
ngài nhìn ngọn đèn trong ngôi nhà làm lễ bố tát
6. Còn những người khác
thì phải làm một kasina lửa như sau: Chẻ một miếng
gỗ giữa lõm cây còn ướt, phơi khô và bẻ ra từng khúc.
Hành giả nên đi đến một gốc cây hay một túp lều, làm
một đống củi như người ta làm để nung chén, và thắp lửa.
Trước ngọn lửa, treo một tấm thảm bằng da hay vải, ở
giữa khoét một lỗ trống tròn đường kính một gang bốn
ngón, rồi ngồi xuống như đã nói. Thấy vì chú ý đến cỏ,
củi ở dưới, hoặc khói ở trên, hành giả phải nắm lấy
tướng nơi ngọn lửa rực sáng ở giữa.
7. Hành giả không nên
quán sát màu sắc v.v... Hay đặc tính của lửa như nóng
v.v... Mà xem màu sắc như nền tảng vật lý của lửa, và
chú tâm trên khái niệm danh từ làm tâm pháp trổi nhất, rồi
khai triển biến xứ lửa bằng cách sử dụng danh từ rõ nhất
"lửa, lửa".
8. Khi tu tập cách ấy,
cuối cùng hai tướng khởi lên như đã mô tả. ở đây, sơ
tướng xuất hiện như ngọn lửa tách rời (khỏi chất đốt).
Nhưng khi một người nắm lấy tướng nơi một kasina
cũng hiển lộ nơi sơ tướng: một que lửa, hay một đống
than hồng, tro, khói... đều hiện ra. Tợ tướng thì bất động
như một mảnh vải nhỏ đặt giữa hư không, như một cái
quạt bằng vàng, hay một cột trụ bằng vàng ròng. Với sự
xuất hiện của tợ tướng, hành giả đạt đến định cận
hành và định an chỉ thuộc tứ thiền, ngũ thiền như đã
nói.
Kasina
Hư Không
9. Người muốn tu tập
biến xứ này, phải nắm lấy tướng hư không. Việc ấy
được thực hiện bằng mắt hoặc bằng tay sờ. Vì luận
nói: " Hành giả để ý những đọt mía di động qua lại,
hoặc những ngọn tre, ngọn cây, hay đầu sợi tóc di động.
Hoặc để ý sự xúc chạm của gió trên cơ thể".
10. Bởi thế, khi thấy
những cây mía rậm rạp, ngọn ngang nhau, hoặc những cây
tre, hay thấy tóc dài bằng 4 ngón tay ở đầu người bị gió
thổi, hành giả nên an trú niệm: "Gió đang thổi ở chỗ
này". Hoặc vị ấy có thể an trú niệm khi gió thổi đến
một thân phần của mình sau khi luồn qua cửa sổ hay khe hở
trong tường, và dùng bất cứ tên nào chỉ gió rõ nhất, như
"hư không, hư không".
11. Ở đây, sơ tướng
hiện ra di động, như hơi nóng quyện trên cơm sôi. Tợ tướng
thì an tĩnh và bất động. Những gì còn lại cũng như đã
nói.
Kasina
Xanh
12. Kế tiếp, Luận
nói: "Người học kasina xanh nắm lấy tướng màu
xanh nơi một cái hoa, một tấm vải hay vật có màu xanh. Người
nào đã thực hành từ tiền kiếp, tướng khởi lên nơi vị
ấy khi thấy một bụi hoa xanh, hoặc hoa được bày ở chỗ
dâng cúng, hoặc thấy một mảnh vải xanh hay viên ngọc
xanh.
13. Người chưa từng
tu tập thì phải dùng hoa như hoa sen xanh v.v... rải đầy mâm
hay rổ cạn, đừng để lòi cọng ra, hoặc chỉ lấy cánh
hoa. Hoặc dùng những mảnh vải xanh bó lại để đầy rổ
như một cái mặt trống. Có thể làm Kasina bằng một
cái dĩa tròn để mang theo hay cố định, như đã nói ở kasina
đất, bằng một trong những màu lục, xanh lá cây v.v... viền
quanh bằng một màu khác. Rồi hành giả nên để tâm trên tướng
ấy "xanh, xanh", như đã nói trong phần biến xứ đất.
Ở đây cũng thế, bất
cứ lỗi nào của kasina cũng sẽ nổi bật ở sơ tướng,
như những cọng hoa lòi ra, khe hở giữa các cánh hoa, v.v...
đều hiện rõ. Còn tợ tướng thì xuất hiện như một cái
quạt pha lê giữa hư không, tách rời khỏi dĩa Kasina.
Kasina
Vàng
15. Cũng thế, với biến
xứ màu vàng, luận nói: "Người học kasina vàng nắm
lấy cái tướng màu vàng nơi một cái hoa hay vải hay một vật
có màu vàng". Bởi thế ở đây, một người đã có
công đức nhờ thực tập đời trước, tướng xuất hiện
cho y khi nhìn một bụi hoa, một miếng vải hay một vật có
màu vàng, như trường hợp trưởng lão Cittagutta, khi
ông nhìn những hoa pattanga được dâng cúng trên điện
thờ ở Cittalapabbata. Vừa lúc ấy, tướng xuất hiện
cho vị ấy với hình vóc cả một cái bàn thờ.
16. Những người khác
thì phải làm một kasina theo cách đã nói ở kasina xanh,
nghĩa là với hoa màu vàng, vải vàng hay vật gì có màu ấy,
và để tâm trên tướng là "vàng, vàng".
Kasina
Màu Ðỏ
17. Cũng thế, với kasina
đỏ: "Người học kasina đỏ nắm lấy tướng
màu đỏ nơi một cái hoa, mảnh vải hay một vật có màu đỏ".
" ở đây cũng vậy, người nào đã từng tu tập đời
trước, tướng khởi lên khi trông thấy một bụi hoa đỏ,
hoặc hoa được rải ra, hoặc thấy một mảnh vải đỏ hay
ngọc màu đỏ.
18. Những người khác
cần phải làm một kasina như đã nói, và để tâm
trên tướng ấy "đỏ, đỏ". Những gì còn lại cũng
như đã nói ở phần biến xứ đất.
Kasina
Trắng
19. Về kasina trắng,
luận nói: "Người học kasina trắng nắm lấy tướng
màu trắng nơi một cái hoa, mảnh vải hay vật màu trắng".
Người đã thực hành đời trước, thấy tướng xuất hiện
khi nhìn một bụi hoa lài, sen trắng, huệ trắng, vải, vật
gì trắng, hoặc nơi cái dĩa bằng thiếc, bằng bạc, hoặc
mặt trăng.
20. Còn những người
khác thì phải làm một kasina theo cách đã nói ở phần
làm kasina xanh, bằng cách dùng hoa trắng v.v... Hành giả
đưa tướng ấy lên tâm tưởng "trắng, trắng". Còn
lại cũng như đã nói.
Kasina
Ánh Sáng
21. [người học kasina
ánh sáng nắm lấy tướng ánh sáng nơi một cái lỗ trong
vách tường, hay nơi lỗ khoá, hay nơi cửa sổ mở]. một
người đã thực hành đời trước, thì tướng khởi lên
khi thấy một vòng sáng trên đất do mặt trời mặt trăng
chiếu, xuyên qua kẽ lá hay qua kẽ hở của gian nhà lá. những
người khác thì phải sử dụng một vòng tròn ánh sáng và
khai triển nó theo cách đã nói trên: "sáng, sáng".
22. hoặc là thắp một
ngọn đèn trong cái bình, đậy nắp và khoét một lỗ bên
hông, để lỗ hổng đối diện vách tường, ánh đèn xuyên
qua lỗ hổng chiếu lên vách một vòng tròn, hành giả khai
triển tướng ấy bằng cách lặp đi lặp lại nhiều lần:
"sáng, sáng". việc này kéo dài lâu hơn nhứng thứ
khác. Ở đây, sơ tướng giống như vòng tròn chiếu trên
vách hay trên đất.
23. Tợ tướng thì như
một chòm ánh sáng dày đặc. những gì còn lại cũng như đã
nói.
Kasina
Khoảng
Không Có Giới Hạn
24. Người học kasina
này nắm lấy tướng nơi một lổ hổng trong vách, nơi
ổ khoá hay cửa sổ mở. Với người đã từng thực hành
đời trước, tướng kh?i lên khi vị ấy trông thấy bất cứ
một khe hở nào, như nơi lỗ tường.
25. Những người khác
thì phải làm một lỗ hổng rộng một gang bốn ngón, trong
một cái chòi hoặc nơi một miếng da, một chiếc chiếu,
v.v.... Và tu tập: " hư không, hư không".
26. Ở đây, sơ tướng
hiện ra giống như cái lỗ cùng với vách tường vây quanh.
Nỗ lực nới rộng tướng ấy đều vô ích. Tợ tướng
như một vòng tròn bằng hư không. Nỗ lực để nói rộng tướng
ấy sẽ thành công. Những gì còn lại thì như đã nói.
Tổng
Quát
27. Ðấng Mười lực,
Bậc thầy tất cả nói mười biến xứ, mỗi thứ đều có
thể làm nhân cho bốn thiền và năm thiền. Là chìa khoá chủ
chốt của sắc giới. Sau khi đã rõ sự mô tả chúng, và
cách tu tập mỗi biến xứ, cách mở rộng. Bấy giờ còn lại
vài điểm đáng học tập. Mỗi điểm có một vai trò đặc
biệt.
28. Trong những biến xứ
nầy, thì kasina đất là căn bản cho những thần thông:
"Một thân biến ra nhiều thân? (D. i, 78) v.v... Và
đi, đứng, ngồi giữa hư không hay trên nước bằng cách tạo
ra đất, và năng lực có được những thắng xứ (abhibh-àvatana
bases of mastery) bằng phương pháp hữu hạn hay vô hạn (M.
ii, 13)
29. Kasina nước là
căn bản cho những thần thông như độn thổ, chui ra khỏi
đất (D. i, 78), làm mưa, tạo ra sông, biển, làm cho quả
đất, núi đá, đền đài rung chuyển. (M. i, 273).
30. Kasina lửa là
căn bản cho những năng lực như làm ra khói, ra lửa, chỉ
đốt cháy những gì mình muốn đốt, (S. iv, 290), tạo
ra ánh sáng để thấy sắc bằng thiên nhãn, dùng hoả đại
đốt thân khi nhập niết bàn.
31. Kasina gió là
căn bản cho những thần thông như đi nhanh như gió, tạo ra
những trận cuồng phong.
32. Kasina xanh là
căn bản cho những thần thông như tạo ra những hình thù
màu đen, bóng tối, đạt được những thắng xứ nhờ
phương pháp đẹp và xấu, và đạt đến giải thoát nhờ sắc
(xem tám Giải thoát, D. ii, 12)
33. Kasina vàng là
căn bản cho những thần thông như tạo ra hình tướng màu
vàng, biến cái gì thành vàng ròng, đạt những thắng xứ và
giải thoát nhờ sắc.
34. Kasina đỏ là
căn bản cho những thần thông như tạo ra những hình tướng
màu đỏ, đạt những thắng xứ và giải thoát nhờ sắc.
35. Kasina trắng
là căn bản cho những thần thông như tạo những hình dạng
màu trắng, trừ hôm trầm thuỵ miên (ngủ ngục), xua tan
bóng tối, tạo ra ánh sáng để thấy sắc bằng thiên nhãn.
36. Kasina ánh
sáng là căn bản cho những thần thông như tạo những hình
dạng có ánh sáng, trừ hôn trầm thuỵ miên, xua tan bóng tối,
tạo ánh sáng để thấy sắc bằng thiên nhãn.
37. Kasina hư không
là căn bản cho những thần thông như làm hiện ra những gì
bị che kín, đi đứng nằm ngồi trong đất hay đá nhờ tạo
ra hư không trong đó, du hành xuyên qua tương vạch không trở
ngại v.v...
38. Sự xếp loại
"trên, dưới, xung quanh thuần nhất, vô lượng" áp
dụng cho tất cả các Kasina, như kinh (M. ii, 14) nói
"Vị ấy thấy đất Kasina đất ở trên, dưới,
xung quanh, toàn đất vô lượng.".
39. "Trên" là hướng
về vòm trời. "Dưới là hướng mặt đất. Xung
quanh là vây quanh như bán kính một thưả ruộng. Vì có
người chỉ khai triển Kasina về phía trên, có người
chỉ mở rộng phía dưới, hoặc xung quanh, hoặc có người
vì một lý do nào đó, chỉ chiếu ra Kasina như khi người
ta muốn nhìn một sắc pháp với thiên nhãn, chiếu ra ánh
sáng. Thuần nhất (toàn) là không xen những gì khác.
Như với một người ở trong nước, thì tứ phía chỉ là nước
không gì khác, cũng thế, Kasina đất chỉ toàn là
không dính đến những thứ khác. Vô lượng là sự
chú tâm vô lượng. Hành giả chú tâm nơi toàn thể, không
đo lường như "đây là đầu, đây là giữa".
40. Một hữu tình thuộc
loại sau đây không thể tu tập biến xứ nào cả: "Bị
nghiệp làm chướng ngại, bị phiền não chướng ngại, bị
nghiệp dị thục (quả báo của nghiệp) làm chướng ngại,
thiếu đức tin, dục, tuệ, những kẻ ấy sẽ không thể nhập
được quyết định tánh là sự chân chánh trong các thiện
pháp" (Vbh. 341).
41. "Nghiệp chướng"
là nói những người có ác nghiệp kéo theo quả báo tức
thì (lúc tái sinh, nghĩa là năm nghiệp ác: theo thứ tự ưu
tiên: giết mẹ, giết cha, giết A-la-hán, làm chảy máu thân
Phật và phá hoà hợp tăng - cả năm nghiệp này sẽ khiến
vào địa ngục sau khi chết, và ở đây suốt một thời
gian dài, bất kể đương sự có làm nghiệp gì khác. (MA.
iv, 109). "Phiền não chướng" chỉ cho hạng
người có tà kiến (bác nhân quả, chấp rằng không có bố
thí và quả báo bố thí, v.v... - D. i, 2) hạng phi nam
phi nữ, hạng không có nam căn. Báo chướng chỉ cho hạng
người có một kiết sanh không có thiện căn hoặc chỉ có
hai thiện căn. Thiếu đức tin là không tin Phật,
Pháp, Tăng. Thiếu dục: thiếu lòng ham muốn đối với
Ðạo lộ vô ngại. Thiếu tuệ là thiếu chánh kiến
thế gian và xuất thế gian. Không thể nhập được tánh
quyết định là sự chân chánh của thiện pháp:
nghĩa là Thánh đạo, được gọi là "tánh quyết định"
và "sự chân chánh của thiện pháp".
42. Người thuộc loại
trên lại còn không thể tu tập bất cứ đề mục thiền nào.
Bởi thế, việc tu thiền phải được thực hiện bởi một
thiện nam tử không bị báo chướng, tránh gây phiền não chướng
và nghiệp chướng, nuôi lớn đức tin, dục và tuệ, bằng
sự nghe pháp, gần gũi bạn tốt, v.v...
Chương năm, "Ðịnh:
Những Kasina Khác" trong luận về Ðịnh tu tập,
trong Thanh tịnh Ðạo, được soạn vì mục đích làm cho người
lành hoan hỉ.
---o0o---
Mục lục
| 01 | 02
| 03 | 04
| 05 | 06
| 07 | 08
| 09 | 10
11 |
12
| 13 | 14
| 15 | 16
| 17 | 18
| 19 | 20
| 21 | 22
| 23
---o0o---
|
Thư
Mục Tác Giả |
---o0o---
Source: BuddhaSasana (www.budsas.org)
---o0o---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật ngày: 01-09-2002