|
. |
Thanh Tịnh Ðạo
(The Path of
Purification - Visuddhimagga )
Luận
sư Bhadantacariya Buddhaghosa
Chuyển
dịch từ Pàli sang Anh ngữ: Trưởng lão Nanamoli
Chuyển dịch từ
Anh ngữ sang Việt ngữ:
Thích Nữ Trí Hải
---o0o---
MỤC LỤC
Lời Giới Thiệu
Bản Thanh Tịnh Ðạo
được sư cô Trí Hải dịch từ bản The Path of purification,
bản dịch Anh ngữ của Thượng toạ Nànamoli, nguyên
bản Pàli do luận sư Buddhaghosa sáng tác vào
thế kỷ thứ V Tây lịch.
Là bộ sách kết tập
tinh hoa trí tuệ từ kinh tạng Kikàya, Thanh tịnh đạo
có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế
giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học
bằng tiếng Việt, và là hành trang chủ yếu của những ai
thực hành giải thoát ở đời.
Dịch giả, sư cô Trí
Hải, với nhiều kinh nghiệm dịch thuật, với nhiều năm
nghiên cứu kinh tạng Nikàya, đã dịch Thanh Tịnh Ðạo
rất cẩn trọng và chân xác.
Chúng tôi tin tưởng bản dịch sẽ tự giới
thiệu với quý độc giả nhiều hơn những giá trị chúng tôi
đề cập.
Với tư cách của người
chuyển dịch kinh tạng Nikàya qua Việt ngữ, chúng tôi
tán thán công đức phiên dịch của sư cô Trí Hải, và trân
trọng giới thiệu bản dịch giá trị này.
Hoà thượng Thích Minh
Châu, 1991
-ooOoo-
Lời Dẫn
Visuddhimagga (Thanh
Tịnh đạo) do Luận sư Buddhaghosa trước tác vào
tiền bán thế kỷ thứ V sau TL, là một bộ sách tóm tắt
giáo lý nguyên thuỷ thuộc Pàli tạng, theo một hệ
thống đặc biệt dưới những đề mục Bảy thanh tịnh và
Ba vô lậu học. Ðây là một chỉ nam rất tốt cho hành
giả trong việc thanh lọc bản thân. Sách được Đại đức
Nanamoli (người Anh, tu ở Tích Lan) dịch sang Anh ngữ vào
năm 1956. Bản dịch này y cứ bản Anh ngữ ấy.
Về các danh từ chuyên
môn, phần lớn y cứ các bản dịch của Hoà Thượng Thích
Minh Châu trong 5 bộ Nikàya, và nhất là hai tập THẮNG
PHÁP TẬP YẾU (Abhidhammattha Sangaha). Nếu không nhờ các
công trình đã đi trước ấy, dịch phẩm này cũng khó mà
hoàn tất. Xin ghi lại đây niềm tri ân.
Bản này khi in lại
lần hai đã được rút gọn và sửa sai nhiều, bỏ bớt
những chỗ trùng lặp lối hành văn xưa, và thỉnh thoảng dùng
một vài danh từ thời thượng cho đỡ khô khan, nhưng bảo
đảm là không đi quá xa với nguyên bản. Không tin, quý vị
thử so với bản Anh ngữ thì sẽ thấy.
Dịch giả kính đề.
Thích Nữ Trí Hải
Sài gòn, 1991
Lời
Tri Ân
Kính lễ thâm ân chư
Phật, Bồ tát, Long thiên hộ pháp mật thuỳ gia hộ:
- Thâm ân sinh thành dưỡng
dục
- Thâm ân chư vị tôn túc Tăng Ni, các bậc Thầy và
thiện tri thức Kim Cổ Âu Á
- Công ơn các anh, chị, quyến thuộc, Phật tử trong và
ngoài nước (đã giúp tài chánh)
- Công ơn các Phật tử đã trực tiếp giúp đỡ kỹ
thuật thực hiện dịch phẩm.
Xin hồi hướng công
đức đến pháp giới hữu tình.
Thích Nữ Trí Hải
-ooOoo-
TIỂU SỬ NGÀI PHẬT ÂM
(BUDDHAGHOSA)
Còn gọi là Phật Minh,
Giác Âm, Phật Ðà Cù Sa, Người ở Phật đà già da, nước
Ma Kiệt Ðà (Magadha), thuộc Trung Ấn Ðộ, vào thế kỷ
thứ V. Sư xuất thân trong gia đình Bà la môn, ban đầu học
Phệ đà, tinh thông Du già, Số luận v.v..., về sau, Sư quy y
Phật giáo, tinh thông các kinh điển. Vì mục đích hoằng
truyền Phật pháp, rống tiếng rống của sư tử mà Sư
soạn các chú thích bộ luận Phát trí (Nanodaya), luận Thù
Thắng Nghĩa (Atthasàlini) và Luận Pháp Tập.
Vào năm 432 Tây lịch
kỷ nguyên, Sư vượt biển sang Tích Lan, trú tại Ðại tự
(Mahàvihàra), theo Trưởng lão Tăng-già-ba-la (Sanghapàla Thera)
nghiên cứu thánh điển tàng trữ tại chùa ấy, rồi đem
dịch sang tiếng Pàli, và soạn Thanh Tịnh Ðạo luận
(Visuddhimagga), Thiện Kiến Luật chú tự (Samantapàsàdikà) chú
giải luật tạng (Sách nầy còn có tên là Thiện Kiến
Luật Tì bà sa; Thiện Kiến luận.) v.v.... Ðồng thời, Sư
đem giáo nghia của Thượng Toạ bộ ra soạn thuật thành
một hệ thống hoàn chỉnh. Trong đó, có thể nói Thanh
Tịnh Ðạo luận là một tác phẩm toát yếu toàn bộ Tam
tạng kinh điển và Luận sớ. Về sau, Sư đem 4 bộ kinh Nikàya
dịch sang tiếng Ba lợi (Pàli), và soạn chú sớ tại chùa
Kiền Ðà la (Granthakara parivena), xứ A nỗ lạp đạt phổ
lạp (Anuràdhapura). Giải thích Trường Bộ kinh thì có Cát Tường
Duyệt ý luận (Sumangalavilàsinì); giải thích Trung Bộ kinh
thì có Phá trừ nghi chướng luận (Papancasùdanì); giải thích
Tương Ưng Bộ kinh thì có Hiển Dương Tâm Nghĩa Luận (Sàratthappakàsinì);
giải thích Tăng Chi Bộ kinh thì có Mãn túc hi cầu luận
(Manorathapùraịì). Ðến khi ấy Tam Tạng Ba Lợi mới cực
kỳ hoàn bị.
Những chú thích của Sư,
không chỉ hạn cuộc chữ nào nghĩa nấy của bản văn, mà
bao quát cả các loại giải thích về lịch sử, địa lý,
thiên văn, âm nhạc, động vật, thực vật v.v..., đặc
biệt, đối với phong tục tập quán của Ấn độ cổ đại,
Sư còn làm thêm ký thuật liên quan đến những văn hiến
trọng yếu dùng để nghiên cứu về Ấn độ. Người Tích
Lan ca ngợi học vấn uyên bác của Sư và sùng kính Sư như
là Bồ tát Di Lặc tái thế. Lúc cuối đời, Sư trở về
cố quốc an dưỡng tuổi già. Nhưng trong lịch sử Phật giáo
Miến Ðiện bảo Sư là người Miến Ðiện, khoảng năm 400
từ nước Kim Ðịa (Kim địa: ngày nay nằm về hạ lưu
Miến Ðiện cho đến bán đảo Mã Lai Á.) vào Tích Lan du
học, rồi 3 năm sau, đem kinh điển trở về phục hung Phật
giáo Miến Ðiện. (Căn bản Phật Ðiển nghiên cứu; The
Life and Work of Buddhaghosa, PQÐTÐ, tr 2643 a-c).
Thích Phước Sơn
TIỂU SỬ NGÀI NANAMOLI
THERA (Na-na-ma-lợi Trưởng lão) (1905-1960)
Tôn giả Nanamoli sinh ngày
25-6-1905 tại Anh quốc, thế danh là Osbert Moore (Áo-tư-bá- đặc-ma-nhĩ).
Thiếu thời, Tôn giả tùng học và tốt nghiệp tại Ngưu Tân
Ái Tắc Ðặc Học Viện. Trong lúc thế chiến thứ 2 xảy
ra, Tôn giả phục vụ trong hàng ngũ lục quân Anh, và đóng
quân tại Ý Ðại Lợi. Do nhân duyên dun rủi, Tôn giả cùng
người bạn là Harold Musson (Cáp-la-đức Mặc-Tốn), đọc
được một cuốn sách viết về Phật giáo của người Ý là
J. Evola (Nghệ-a-na); vì thế, 2 người phát tâm quy hướng
Phật giáo.
Sau khi đệ nhị thế
chiến kết thúc, Sư trở về nước, đến năm 1949 Sư cùng
Mặc Tốn quyết tâm sang Tích Lan nghiên cứu Phật học, và
may mắn được một Trưởng lão người Ðức là Nại-na-đề-
lộ-biện hướng dẫn gia nhập Tăng đoàn, dưới quyền điều
khiển của Ðại đức Ðại-na-nhã-biện-tì-trí-la-na-na.
Sang năm sau (1950), hai người thọ giới cụ túc với Ðại
na nhã biện nên tôn vị này làm thầy, và được pháp
hiệu là Nànamoli.
Ðến năm 49 tuổi
(1954), ngài Na-na-ma-lợi chuyên tâm nghiên cứu ngôn ngữ Pàli,
Tân cáp lợi và Miến Ðiện. Không bao lâu sau đó, Sư rất
tinh thông các ngôn ngữ nầy, nhờ vậy có điều kiện nghiên
cứu sâu về Phật pháp, và trở thành một học giả uyên
thâm. Từ đó, Sư cộng tác với Hiệp hội Thánh điển Pàli
(Pàli Text Society, PTS) để phiên dịch các kinh luận Pàli sau
đây sang Anh văn: 1. Thanh Tịnh Ðạo Luận (Visuddhi-magga); 2.
Vô Ngại Giải Ðạo (Patisambhidà-magga) 3. Chỉ Ðạo Luận
(Nettipakarana); 4. Tạng Luận Thích (Petakopadesa). Ngoài ra, Sư
còn viết về Lịch sử đức Phật và dịch kinh Trung bộ.
Chừng ấy công trình phiên dịch cũng đủ chứng minh trình
độ Phật học uyên thâm của Sư.
Sư sống rất giản
dị, tuân thủ giới luật một cách tinh nghiêm (trong suốt
11 năm trường, Sư chỉ mặc ròng y vàng, tượng trưng cho
sự thanh khiết, và cũng hiếm khi xỏ chân vào dép). Tính tình
hòa nhã, trầm lặng, ít nói, và mỗi lời nói của Sư đều
là lời vàng ngọc, đầy tính chất trí tuệ và truyền
cảm. Sư xem việc sinh tử nhẹ như lông hồng. Thế nên,
trong lúc chiến tranh, đã bao lần đối diện với cái
chết, nhưng Sư đều thoát khỏi.
Sư viên tịch năm 1960.
Từ lúc xuất gia cho đến lúc xả báo thân, ròng rã 11 năm
trời, Sư cống hiến trọn vẹn cho sự nghiệp phiên dịch
kinh điển, và truyền bá chánh pháp. Sư mất sớm, thật là
một tổn thất lớn đối với Phật giáo. (Tây Dương Phật
giáo học giả truyện, William Peiris soạn bằng Anh văn, Mai Nãi
Văn dịch ra Hán văn, xb. 1986, tr. 73)
Thích Phước Sơn
TỔNG LUẬN
Bộ Thanh Tịnh Ðạo
Luận (Visuddhi-magga) gồm 3 quyển, do vị cao tăng Phật Âm
(Buddhaghosa) người Ấn Ðộ trước tác khoảng giữa thế
kỷ thứ 5, và được đưa vào Ðại tạng kinh thuộc Nam
truyền, quyển 62-64. Ðây là một bộ luận trọng yếu
thuộc Nam phương Thượng Toạ bộ. Gần đây, nó được ngài
Thủy Dã Hoằng Nguyên người Nhật bản dịch ra Nhật văn
(1937- 1940), và ngài Diệp Quân (Liễu Tham) dịch ra Hán văn và
xuất bản năm 1987. Ðồng thời, Trưởng lão Nànamoli cũng
đã dịch ra Anh văn và xuất bản tại Colombo Ceylon, năm
1956.
Trọn bộ luận gồm 23
chương, nhằm giải thích giáo nghĩa của Thượng Toạ bộ
phái, thứ tự tổ chức và nội dung tương tự như Giải
Thoát Ðạo luận (Vimutti-magga, do ngài Upatissa soạn khoảng
thế kỷ thứ III), nhưng bên trong có xen những lời luận
biện về kiến giải của sách ấy. Bản luận trình bày
theo thứ tự Giới, Ðịnh và Tuệ. Chương 1 và 2 luận về
Giới. Từ chương 3 đến 13 luận về Ðịnh, trình bày khúc
chiết các phương pháp tu tập một cách có hệ thống. Chương
14 đến 23 luận về Tuệ. Trong đây, từ chương 14 đến 17
chủ yếu mô tả về 5 uẩn, Tứ đế, Bát chánh đạo, và
12 nhân duyên. Ngoài ra, còn bàn tổng quát về 3 tướng vô
thường, khổ, và vô ngã. Các chương còn lại luận về các
tuệ quán thanh tịnh một cách rất tinh mật. Trước và sau
sách, có bài tự thuật về nhân duyên tạo luận và dùng 3
vô lậu học Giới Ðịnh Tuệ như con đường đạt đến
Niết bàn làm lời kết luận.
Quyển sách này là
một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam
truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư,
có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng
Toạ Hữu bộ. Nhà Phật học Ái Ðức Hoa nhận xét:
"Thanh Tịnh Ðạo Luận là một tác phẩm kinh điển vĩ
đại nhất về phương diện tâm linh của nhân loại. Tính
chất trọng yếu của nó có thể xem như một mô hình văn
học tiêu biểu để cho các nhà học giả quốc tế dùng làm
cơ sở."
Tóm lại, bộ luận này
dùng ba vô lậu học Giới-Định-Tuệ làm nhân tố để tu
tập quán chiếu về tính chất vô thuờng, khổ, vô ngã
của vạn pháp, hầu đạt đến kiến thanh tịnh và tâm
thanh tịnh, tức Niết bàn tịch diệt.
Thích Phước Sơn
(Trích "Thanh Tịnh Đạo Luận Toản Yếu", Sài gòn
1996)
-ooOoo-
BẢNG TRA CHỮ TẮT
(LIST OF ABBREVIATIONS USED)
A. : Anguttara Nikàya
AA. : Anguttara Nikàya Atthakathà (Commentary) = Manorathapùranì
Cp. : Cariyàpitaka
Dh. : Dhammapada
DhA. : Dhammapada Atthakathà (Commentary)
Dhs. : Dhammasanganì
DhsA. : Dhammsanganì Atthakathà (Commentary) = Atthasàlinì
DhsAA. : Dhammasanganì Tìkà (Sub-commentary) = Mùla Tìkà (pt. I)
Dhk. : Dhàtukathà
D. : Dìgha Nikàya
DA. : Dìgha Nikàya Atthakathà (Commentary) = Sumangalavilàsinì
It. : Itivuttaka
Jà. : Jàtaka (Fausboll's ed.)
Kv. : Kathàvatthu
Mv. : Mahàvamsa
M. : Majjhima Nikàya
MA. : Majjhima Nikàya Atthakathà (Commentary) = Papancasùdanì
Miln. : Milinda-panhà
Netti. : Netti-pakarana
Nd1. : Mahà Niddesa
Nd2. : Cùla Niddesa (Siamese ed.)
Ps. : Patisambhidàmagga
PsA. : Patisambhidàmagga Atthakathà (Commentary) = Saddhammappakàsinì
(Sinhalese Hewavitarne ed.)
Ptn1. : Patthàna, Tika Patthàna
Ptn2. : Patthàna, Duka Patthàna (Siamese and Burmese eds.)
Pm. : Visuddhimagga Atthakathà (Commentary) = Mahà Tìkà (Vis. Chs.
I to XVII Sinhalese Vidyodaya ed.; Chs. XVIII to XXIII Burmese ed.)
Pe. : Petakopadesa
Pv. : Petavatthu
S. : Samyutta Nikàya
SA. : Samyutta Nikàya Atthakathà (Commentary) = Sàratthappakàsinì
Sn. : Sutta-nipàta
SnA. : Sutta-nipàta Atthakathà (Commentary) = Paramatthajotikà
Thag. : Thera-gàthà
Ud. : Udàna
Vbh. : Vibhanga
VbhA. : Vibhanga Atthakathà (Commetary) = Sammohavinodanì
VbhAA. : Vibhanga Tìkà (Sub-commentary) = Mùla-Tikà (pt. 2)
Vv. : Vimàna-vatthu
Vin. i. : Vinaya Pitaka (3) - Mahàvagga
Vin. ii. : Vinaya Pitaka (4) - Cùlavagga
Vin. iii. : Vinaya Pitaka (1) - Suttavibhanga 1
Vin. iv. : Vinaya Pitaka (2) - Suttavibhanga 2
Vin. v. : Vinaya Pitaka (5) - Parivàra
Vis. : Visuddhimagga (P.T.S. ed. and Harvard Oriental Series ed.)
---o0o---
Mục lục
| 01 | 02
| 03 | 04
| 05 | 06
| 07 | 08
| 09 | 10
11 |
12
| 13 | 14
| 15 | 16
| 17 | 18
| 19 | 20
| 21 | 22
| 23
---o0o---
|
Thư
Mục Tác Giả |
---o0o---
Source: BuddhaSasana (www.budsas.org)
---o0o---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật ngày: 01-09-2002
|
|