Tri
Kiến Thanh Tịnh
(Nanadassana-visudhi-niddesa)
-ooOoo-
I.
Chuyển Tánh Bốn Ðạo Quả
1. Kế tiếp Thuận thứ
là Trí chuyển tánh: Ðịa vị của nó là chú ý đến đạo
lộ bởi thế nó không thuộc và Ðạo tri kiến thanh tịnh,
cũng không thuộc và tri kiến thanh tịnh. Vì là trung gian,
nó không thể được chỉ rõ, nhưng nó cũng được kể là
tuệ quán vì nó ngang hàng với tuệ.
2. Tri kiến thanh tịnh
gồm 4 đạo trí là Dự lưu đạo, Nhất lai đạo, Bất hoàn
đạo, và A-la-hán đạo.
Trí
Chuyển Tánh Là Trí Thuộc Dự Lưu Ðạo
3. Ở đây, không gì cần
phải làm thêm bởi một vị muốn đắc đạo trí thứ nhất.
Vì những gì vị ấy cần làm đã được làm bằng cách khơi
dậy tuệ quán, kết thúc bằng trí thuận thứ.
4. Vừa khi trí thuận
thứ sanh theo cách ấy nơi hành giả, khi mây mù che lấp
chân lý đã được xua tan bằng năng lực tưong ứng với mỗi
một trong ba loại thuận thứ trí (Ch. XXI, 129), thì khi ấy,
tâm hành giả không còn đi vào, trú hay dừng lại trên bất
cứ một lĩnh vực hành nào nữa, mà trái lại, rút lui, lùi
lại, dội ngược lại, như nước rút lại trên một ngọn
lá sen, và mọi tướng kể như đối tượng, mọi sanh kể
như đối tượng, đều là một chướng ngại đối với vị
ấy.
5. Khi mọi tướng và
sanh đã thành chướng ngại với vị ấy, khi sự tập hành
của thuận thứ trí đã chấm dứt, thì trí chuyển tánh
sanh khởi nơi vị ấy, lấy làm đối tượng cái vô tướng,
vô sanh, vô hành, diệt, Niết bàn, - trí này ra khỏi dòng họ,
phạm trù, bình diện, của phàm phu mà đi vào dòng họ, phạm
trù, bình diện của bậc thánh. Trí này, vì là tác ý đầu
tiên, sự quan tâm đầu tiên, phản ứng đầu tiên đối với
Niết bàn kể như đối tượng, nên nó làm một duyên cho đạo
lộ theo sáu cách, là vô gián duyên, đẳng vô gián duyên, tập
hành duyên, thân y duyên, vô hữu duyên, và ly khứ duyên.
Trí ấy là đỉnh cao tột của tuệ quán không còn thối
chuyển, về trí ấy đã được nói như sau: "Thế nào
tuệ xuất khởi và quay đi khỏi ngoại giới gọi là trí
chuyển tánh? - Nó vuợt khỏi sanh ... khởi, ... tướng... tích
lũy,... kiết sanh, ... thú (cõi)... sanh hoạt (loài),... tái
sanh,... sanh già bệnh chết,... sầu bi khổ ưu não, nên nó
là chuyển tánh. Nó vượt khỏi tướng các hành ngoại giới,
nên gọi là chuyển tánh. Nó đi vào vô sanh, nên gọi là
chuyển tánh... Nó đi vào vô não, nên gọi là chuyển tánh.
Sau khi vượt sanh nó đi vào vô sanh,... nên gọi là chuyển
tánh". (Ps. i,66)
6. Ví dụ sau đây chứng
minh thuận thứ và chuyển tánh sanh khởi như thế nào với
những đối tượng khác nhau, mặc dù khởi lên trong một
tâm lộ trình duy nhất, với một tác ý duy nhất. Ví như
người muốn nhảy qua một dòng suối rộng để đứng bên
bờ kia sẽ chạy thật nhanh, và nắm một sợi dây thừng buộc
vào cành cây gần bờ này, mà đu người qua bờ kia, và khi
đã tới bờ kia, sẽ thả sợi dây và rơi mình xuống, lúc
đầu đi loạng choạng rồi sau mới đứng vững. Thiền giả
này cũng thế, muốn an trú trong Niết bàn, bờ đối lại với
các loại hữu, sanh, thú trứ và hữu tình cư, chạy nhanh nhờ
quán sanh diệt, v.v.. và bằng trí thuận thứ tác ý vô thường,
khổ vô ngã, nắm lấy sợi dây sắt,(hoặc thọ, tưởng..)
buộc vào cành bản ngã mà đu mình. Vị ấy nhảy với tâm
thuận thứ đầu tiên không buông thả (các hành), với tâm
thứ hai vị ấy hướng đến, thiên về Niết bàn, như thân
thể hướng về phiá bờ đối diện. Rồi với tâm thứ ba
gần kề Niết bàn, ví như người kia đã đu đến bờ đối
diện, hành giả buông xả hành đã làm đối tượng khi tâm
ấy chấm dứt. Với tâm thuận thứ vị ấy rơi trên Niết
bàn vô vị, bờ đối diện, nhưng còn loạng choạng, vì thiếu
tập hành trước kia, nên chưa được vững vàng trên một
đối tượng duy nhất ấy. Sau đó vị ấy đứng vững nhờ
đạo trí.
7. Ở đây, thuận thứ
có thể xua tan mù phiền não, che lấp sự thật, nhưng không
thể làm cho Niết bàn thành đối tượng của nó. Chuyển
tánh thì chỉ có thể làm Niết bàn thành đối tượng của
nó, mà lại không thể xua đám mù phiền não che lấp chân
lý.
8. Ví dụ một người
có mắt ban đêm đi ra ngoài ngước nhìn trăng để tìm các
chòm sao. Trăng không thấy được vì bị mây che phủ. Rồi
một ngọn gió nổi lên thổi tan đám mây dày, một ngọn
khác thổi tan đám mây trung bình, một ngọn khác nữa làm
tan cả những sợi mây mong manh hơn. Khi ấy người kia thấy
được trăng ở trên bầu trời không mây, và tìm ra liên hệ
các vì tinh tú.
9. Trong ví dụ trên, ba
loại đen tối dày, trung bình và mỏng che lấp sự thực là
như ba loại mây. Ba loại tâm thuận thứ giống như ba ngọn
gió. Trí chuyển tánh như người có mắt. Niết bàn như
trăng. Sự xua tan bóng tối che lấp chân lý bằng từng loại
tâm thuận thứ, và ví như mây được tuần tự thổi tan bởi
mỗi luồng gió. Sự thấy được Niết bàn trong sáng của
trí chuyển tánh ví như người kia thấy được trăng trên
trời khi hết mây che.
10. Cũng như ba ngọn gió
chỉ có thể thổi tan mây che trăng, mà không thể thấy mặt
trăng, cũng vậy, ba loại trí thuận thứ chỉ có thể dẹp
tan bóng tối che lấp chân lý nhưng không thể thấy Niết
bàn. Cũng như người kia, chỉ có thể thấy mặt trăng mà
không thể thổi tan những đám mây, trí chuyển tánh cũng thế,
chỉ có thể thấy Niết bàn mà không thể dẹp tan phiền
não. Do đó, được gọi là trí "tác ý đến đạo lộ"
(đạo hướng trí)
11. Vì mặc dù nó
không tác ý, nhưng nó chiếm địa vị của sự tác ý, và
sau khi báo hiệu đạo lộ xuất hiện, nó chấm dứt. Và
không ngừng lại sau dấu hiệu (tướng) được cho bởi trí
chuyển tánh, đạo lộ tiếp theo nó trong một tương tục không
gián đoạn, và khi xuất hiện, nó chọc thủng khối tham, khối
sân, khối si chưa từng bị chọc thủng trước đây.
12. Ví dụ một ngưới
bắn cung có một cái bia dựng cách một khoảng dài tám usabhas
(khoảng 100 thước), che kín mặt với một tấm vải và
trang bị một mủi tên, anh ta đứng trên một giá đứng có
gắn bánh xe quay. Một người khác quay bánh xe, và khi mục
tiêu (bia) đối diện với xạ thủ, người này ra dấu cho
anh ta bằng một cây gậy. Không dừng lại sau dấu hiệu đó,
xạ thủ bắn mủi tên ra và trúng được đích.
13. Ở đây, trí chuyển
tánh ví như dấu hiệu bằng gậy. Ðạo trí giống như người
bắn tên. Ðạo trí lấy Niết bàn làm đối tượng nhưng không
ngừng lại sau tướng được chuyển tán đem lại, và nó đâm
thủng khối tham, sân, si chưa từng thủng trước đây, là
ví như người xạ thủ bắn trúng đích không dừng lại sau
dấu hiệu (tướng).
14. Và không những nó
chỉ gây nên sự chọc thủng khối tham, v.v. mà nó còn làm
khô cạn cái biển khổ của vòng vô thủy sanh tử luân hồi.
Nó đóng hết các cửa đi đến đọa xứ. Nó đem lại thực
chứng về bảy thánh tài. Nó đoạn trừ tám tà đạo. Nó
đoạn giảm mọi thù nghịch và bố úy. (S. ii, 68) Nó
đem đến địa vị người con đích tử của đấng giác ngộ.
(S. ii, 221) Và nó đưa đến sự chứng đắc hàng trăm
phúc lạc khác nữa. Bởi thế, chính cái trí tương ứng với
Dự lưu đạo này được gọi là Trí thuộc dự lưu đạo.
Loại trí đầu tiên đã
bàn xong.
Quả
Thứ Nhất: Bậc Hiền Thứ Hai
15. Kế tiếp ngay sau
trí ấy, lại khởi lên hai hoặc ba quả tâm, tức hậu quả
của nó. Chính vì sự kiện những thiện tâm siêu thế có hậu
quả tức thì này, mà kinh nói: "Ðịnh với hậu quả tức
thì" (Sn. 226) và "Chậm chạp, vị ấy đạt đến
cái có quả báo tức thì, để đoạn tận lậu hoặc" (A.
ii, 49) v.v..
16. Nhưng có vài vị
cho rằng có một, hai, ba, bốn hoặc năm quả tâm. Ðiều
này không thể chấp nhận. Vì trí chuyển tánh khởi lên ở
cuối lặp lại của thuận thứ, nên ít nhất phải có hai
tâm thuận thứ, vì chỉ có một thì không làm tập hành
duyên được. Và một lộ trình tốc hành duy nhất có tối
đa là bảy tốc hành tâm. Do vậy, lộ trình nào có hai thuận
thứ và chuyển tánh làm tâm thứ ba và đạo tâm thứ tư,
thì có ba quả tâm. Lộ trình tâm nào có ba thuận thứ, chuyển
tánh là thứ tư, và đạo tâm thứ năm, thì có hai quả
tâm. Bởi thế mà ở trên đã nói: Có 2 hoặc 3 quả tâm khởi
lên.
17. Rồi một vài vị lại
bảo, lộ trình có bốn thuận thứ, chuyển tánh là thứ năm,
đạo tâm thứ sáu thì có một quả tâm. Nhưng điều ấy bị
bác bỏ vì tốc hành tâm thứ tư hay năm mới đạt đạo,
không phải những tâm sau đó, bởi vì những tâm ấy gần với
hữu phần (xem Ch. IV, 75). Vậy không thể chấp nhận điều
ấy.
18. Và ở điểm này, bậc
dự lưu ấy được gọi là bậc thánh thứ hai. Dù có lơ là
cách mấy, vị này nhất định cũng chấm dứt khổ khi du hành
cái vòng sinh tử ở trong cõi trời và cõi người đến lần
thứ bảy.
19. Ở cuối quả tâm,
tâm vị ấy đi vào hữu phần. Sau đó khởi lên ý môn hướng
tâm, gián đoạn dòng Hữu phần để quán sát lại đạo lộ.
Khi tâm này đã chấm dứt, bảy tốc hành tâm để quán sát
đạo lộ khởi lên. Sau khi nhập vào Hữu phần trở lại,
ý môn hướng tâm, v.v. lại khởi lên để quán sát quả,
v..v.. Với sự khởi lên những tâm này, hành giả quán sát
lại đạo lộ, quán sát quả, quán sát những cấu uế đã
được từ bỏ, quán sát những cấu uế còn lại, và quán
sát Niết bàn.
20. Hành giả quán sát
lại đạo lộ như sau: "Vậy, đây là đạo lộ ta đã gặp".
Kế tiếp, vị ấy quán sát quả như sau: "Ðây là sự
an lạc ta đã được". Rồi vị ấy quán sát những cấu
uế đã được từ bỏ, "Ðây là những cấu uế đã
được từ bỏ nơi ta". Rồi vị ấy quán sát những cấu
uế còn lại cần phải được loại trừ ở ba đạo lộ
cao hơn: "Ðây là các cấu uế còn lại trong ta". Và
cuối cùng, vị ấy quán sát Niết bàn bất tử như sau:
"Ðây là Pháp đã được ta thâm nhập làm mục
tiêu". Như vậy, bậc thánh đệ tử là bậc dự lưu, có
năm thứ quán sát.
21. Và cũng như trong
trường hợp bậc dự lưu, trường hợp các bậc Nhất lai,
Bất hoàn cũng vậy. Nhưng bậc A-la-hán thì không có việc
quán sát những cấu uế còn dư tàn. Vậy tất cả loại
quán sát tổng cộng có mười chín, đây là con số tối
đa. Các bậc hữu học có thể có việc quán sát những cấu
uế đã từ bỏ và những cấu uế còn lại, mà cũng có thể
không có việc ấy. Quả thế, chính vì thiếu sự quán sát
như vậy, mà Mahànàma đã hỏi Ðức Thế Tôn:
"Pháp nào chưa được từ bỏ trong con, khiến cho vì vậy
mà thỉnh thoảng tham xâm chiếm tâm và an trú?" (M.
i,91)
Ðạo
Trí Thứ Hai - Bậc Thánh Thứ Ba
22. Tuy nhiên, sau khi
quán sát như vậy, hoặc trong cùng một thời tĩnh tọa hoặc
vào một dịp khác, vị đệ tử là bậc Dự lưu khởi công
đạt đến đạo lộ thứ hai nhờ làm cho muội lược (giảm
bớt) dục tham và sân nhuế. Vị ấy dẫn phát (samodhàneti)
các căn, lực và giác chi và nghiền ngẫm chính các hành thuộc
sắc, thọ, tưởng, hành, thức với trí biết chúng là vô
thường, khổ, vô ngã, và vị ấy bước lên lộ trình tuệ
quán tuần tự.
23. Khi đã làm như vậy,
và khi vào cuối giai đoạn "hành xả", trí thuận thứ
và chuyển tánh đã phát sinh trong một tác ý duy nhất theo
cách đã nói, khi ấy đạo lộ Nhất lai khởi lên kế tiếp
chuyển tánh. Cái trí tương ưng với đạo lộ ấy gọi là
Nhất lai đạo trí.
Quả
Thứ Hai - Bậc Thánh Thứ Tư
24. Các quả tâm theo liền
trí này theo cách đã nói. Và ở điểm này, bậc Nhất lai
này được gọi là Bậc thánh thứ tư. Vị ấy đương nhiên
chấm dứt khổ sau khi trở lại thế gian này một lần nữa.
Ðạo
Trí Thứ Ba - Bậc Thánh Thứ Năm
25. Bây giờ, sau khi
quán sát như vậy, hoặc trong cùng một thời tĩnh tọa, hoặc
vào một dịp khác, bậc Thánh đệ tử này, một vị Nhất
lai, khởi công đạt đến bình diện thứ ba bằng cách từ
bỏ không dư tàn, cả tham lẫn sân. Vị ấy dẫn phát các căn
lực, và các giác chi, và vị ấy tu tập trên chính lĩnh vực
các hành là sắc, thọ, tưởng, hành, thức với trí biết
chúng là vô thường, khổ, vô ngã, và bước lên lộ trình
tuần tự của tuệ.
26. Khi đã làm như vậy,
và khi, vào cuối giai đoạn hành xả, trí thuận thứ và
chuyển tánh đã khởi lên, trong một tác ý duy nhất, theo
cách đã nói, khi ấy Ðạo lộ bất hoàn phát sinh kế tiếp
chuyển tánh. Cái trí tương ứng với đạo ấy gọi là Bất
hoàn đạo trí.
Quả
Thứ Ba - Bậc Thánh Thứ Sáu
27. Các quả tâm theo liền
sau trí này theo cách đã nói. Ở điểm này, bậc Bất hoàn
này được gọi là bậc thánh thứ sáu. Sau khi mạng chung, vị
ấy hóa sanh ở nơi khác và tại đấy nhập Niết bàn,
không bao giờ còn trở lui cuộc đời này nữa, qua kiết
sanh.
Kế tiếp là quán sát
như cách đã nói.
Ðạo
Trí Thứ Tư: Bậc Thánh Thứ Bảy
28. Bấy giờ, sau khi
quán sát như trên hoặc trong cùng một thời tọa thiền, hoặc
vào một dịp khác, bậc Thánh đệ tử này, một vị Bất
hoàn, khởi sự tu tập để đạt đến bình diện thứ tư bằng
cách từ bỏ không dư tàn sắc giới tham và vô sắc giới
tham, mạn, trạo cử và vô minh. Vị ấy dẫn phát các căn,
lực và giác chi, và tu tập nhiều lần các hành ấy với
trí biết chúng là vô thường, khổ, vô ngã, và vị ấy bước
lên lộ trình tuần tự của quán tuệ.
29. Khi đã làm như vậy,
và khi vào giai đoạn cuối của hành xả, thuận thứ và
chuyển tánh đã khởi lên trong một tác ý duy nhất, khi ấy
A-la-hán đạo khởi sanh kế tiếp chuyển tánh. Trí tương
ứng với đạo lộ này là A-la-hán đạo trí.
Quả
Thứ Tư: Bậc Thánh Thứ Tám
30. Các quả tâm theo liền
sau trí này theo cách nói trên. Ở điểm này, vị A-la-hán
này được gọi là Bậc thánh thứ tám. Vị ấy là một
trong những bậc thánh vĩ đại đã tận diệt lậu hoặc,
thân của vị ấy là thân sau rốt, vị ấy đã đặt gánh nặng
xuống, việc làm đã xong, đã phá hữu kiết sử, vị ấy
chân chánh giải thoát với thứ trí sau rốt và xứng đáng
sự cúng dường tối thượng của thế gian và chư thiên.
31. Bởi vậy, khi trên
đây nói rằng: "Tuy nhiên, tri kiến thanh tịnh đích thực
được gồm trong bốn đạo tri tức là Dự lưu đạo, Nhất
lai đạo, Bất hoàn đạo và A-la-hán đạo" (đoạn 2) câu
ấy ám chỉ bốn thứ trí cần phải đạt đến trong thứ tự
này.
II.
Các Pháp Tương Ưng Với Ðạo Lộ v.v...
32. Bây giờ, để thẩm
định giá trị của Tri kiến thanh tịnh này với bốn loại
trí của nó, có những vấn đề:
(1) Sự hoàn tất
(viên mãn) các bồ đề phần pháp
(2) Sự xuất khởi (ngoi lên)
(3) Sự sóng đôi các lực
(4) Các hành cần từ bỏ
(5) Hành vi từ bỏ chúng
(6) Các nhiệm vụ liễu tri, v.v... khi bốn chân lý đã được
thâm nhập,
(7) Mỗi thứ cần được nhận chân tùy theo tự tánh của
nó.
33.
(1) Ở đây, sự
viên mãn các bồ đề phần pháp là 37 pháp sau đây:
Bốn niệm xứ (Trung 10), Bốn chánh cần (M. ii, 11), 4
thần túc (M. i,103), 5 căn (M. ii,12), năm lực
(M. ii,12), Bảy giác chi (M. ii, 11), và Thánh đạo tám
ngành (D. ii, 311). Những pháp này được gọi là
"dự phần vào giác ngộ" vì chúng đóng vai trò của
Thánh đạo tám ngành, được gọi là "Giác ngộ"
trong nghĩa soi sáng, và những pháp ấy trợ giúp cho chánh đạo
nên gọi là "dự phần"
34. "Bốn niệm xứ"
(hay bốn niện trú): "trú" (patthàna) là an
trú, bằng cách đáp xuống trên những đối tượng này
khác. Sự an trú ấy chính là niệm, nên gọi là niệm trú
hay niệm xứ. Nó gồm bốn loại, vì nó xảy ra liên hệ đến
thân thể, cảm thọ, tâm và pháp, xem chúng là bất tịnh,
khổ, vô thường, vô ngã, và nó cũng thuộc bốn loại vì
nó hoàn tất nhiệm vụ từ bỏ tưởng về thường, lạc,
ngã, tịnh.
35. Nhờ nó mà con người
nỗ lực một cách chánh đáng, nên gọi là chánh cần. Hoặc
nó tốt vì bỏ được những xấu xa của phiền não, nó là
nỗ lực (cần) đem lại sự cải thiện, với ý nghĩa phát
sinh an lạc. Ðó là tên chỉ nghị lực. Nó hoàn tất bốn
nhiệm vụ trừ khử những bất thiện pháp đã sanh, ngăn ngừa
sự sanh khởi những bất thiện chưa sanh, nó làm sanh khởi
những thiện pháp chưa sanh, và duy trì những thiện pháp đã
sanh, nó gồm có bốn, nên gọi là bốn chánh cần.
36. Lực (Iddhi)
là nói theo nghĩa thành công (tjjhana) như đã nói ở Chương
XII, đoạn 44. Ðó là con đường, (pàda) đi đến năng
lực thành công, nó là tiền đạo cho sự thành công, cái
nhân đi trư?c thành công, nên gọi là con đường đưa đến
năng lực thành công, căn bản của thành công. Nó gồm bốn
là dục, v.v. Do đó, mà "bốn như ý túc" hay "bốn
thần túc" được nói, như đoạn: "Bốn như ý túc:
dục như ý túc, tinh tấn như ý túc, nhất tâm như ý túc,
trạch pháp như ý túc" (Vbh. 223) là những pháp thuộc
siêu thế mà thôi. Nhưng khi nói: "Nếu một tỷ kheo có
được định, có được nhất tâm nhờ dục tăng thạnh, thì
đó là định nhờ dục" (Vbh. 216) v.v. thì đó cũng
là những pháp thuộc thế gian có được nhờ dục tăng thạnh
v..v..
37. "Căn" là
nói theo nghĩa tăng thạnh, thắng lướt, bởi vì những pháp
này, với tư cách là những căn thì thắng lướt được các
pháp bất tín, giải đải, thất niệm, tán loạn và bất
chánh tri (hoang mang).
"Lực" là nói
theo nghĩa không "nao núng", bởi vì những pháp này,
với tư cách là năng lực, sẽ không còn biết áp đảo bởi
các pháp bất tín, v..v.. Căn và lực mỗi thứ gồm năm là
tín, tấn, niệm, định và tuệ.
38. Niệm, trạch pháp,
tinh tấn, hỷ khinh an, định và xả với tư cách là những
yếu tố (chi phần) nơi một vị đang tiến đến giác ngộ,
gọi là "Bảy giác chi". Và Chánh kiến, chánh tư
duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tiến
chánh niệm và chánh định, là tám "Ðạo chi" trong
ý nghĩa một lối thoát, ngõ ra. Do vậy mà bảy giác chi và
"Tám đạo chi" được nói đến.
39. Vậy, có tất cả
ba mươi bảy pháp dự phần vào Giác ngộ. Trong giai đoạn
đầu, khi tuệ thuộc thế gian đang sanh khởi, những pháp
này được tìm thấy trong nhiều tâm như sau: Thân niệm xứ
được tìm thấy nơi một người quán tâm theo mười sáu
cách. Pháp niệm xứ được tìm thấy nơi một người quán
pháp theo năm cách. Và khi ấy một pháp bất thiện nơi một
người khác, chưa khởi lên nơi chính mình, vị ấy nỗ lực
để đừng cho nó sanh, như sau: "Ta sẽ không làm như vị
ấy, pháp bất thiện này đã sanh khởi nơi vị ấy sẽ không
sanh nơi ta". Khi ấy, hành giả có được chánh cần thứ
nhất. Khi thấy một pháp bất thiện trong hành động của
chính mình, vị ấy nỗ lực từ bỏ nó, như vậy là chánh
cần thứ hai. Khi nỗ lực phát sanh thiền và quán (tuệ)
lâu nay chưa sanh là vị ấy có chánh cần thứ ba, và khi vị
ấy làm sanh khởi nhiều lần những thiện pháp đã sanh để
cho nó khỏi thối giảm, thì vị ấy có chánh cần thứ tư.
Vào lúc phát sanh một thiện pháp nhờ dục kể như động lực
hướng dẫn, thì đó là dục như ý túc, tương tự với ba
pháp như ý túc còn lại. Vào lúc không nói là ngữ, là có
chánh ngữ, không có tà mạng là chánh mạng vân vân..
Vào lúc sanh khởi bất
cứ trí nào trong bốn đạo trí thì tất cả những pháp
này được tìm thấy trong một tâm duy nhất.
Vào sát-na chứng quả,
có 33 pháp, trừ 4 chánh cần.
40. Khi những pháp này
được tìm thấy trong một tâm duy nhất theo cách ấy, thì
chỉ có một loại niệm xứ với đối tượng là Niết
bàn, mới được gọi là "bốn niệm xứ" vì nó
hoàn tất nhiệm vụ từ bỏ bốn tướng là thường lạc,
ngã, tịnh trong thân, thọ, tâm và pháp. Cũng vậy, chỉ một
loại tinh tấn được gọi là "tứ chánh cần" vì
nó hoàn tất 4 việc là ngăn ngừa sự sanh khởi các bất
thiện pháp chưa sanh, v.v.. Với những pháp còn lại thì
không có tăng hay giảm.
41. Lại nữa, về những
pháp này được nói như sau:
Chín theo một cách, một
theo hai cách
Rồi theo bốn cách và theo năm cách
Theo tám cách và lại theo chín cách nữa
Như vậy là có sáu đường phân chia.
42. (i) Chín theo một
cách: chín pháp là dục, định, hỷ, khinh an, xả, chánh tư
duy, chánh ngữ, chánh nghiệp và chánh mạng, chúng được tìm
thấy theo một cách là "thần túc" (hay đường đến
thành công) vì chúng không thuộc vào một nhóm nào khác.
(ii) Một theo hai cách:
tín được tìm thấy theo hai cách, kể như căn và lực.
(iii) Rồi theo bốn
cách và (iv) theo năm cách: có nghĩa rằng, một pháp khác
được tìm thấy theo bốn cách và một pháp nữa tìm thấy
theo năm cách. Ở đây, định là "một theo bốn
cách" vì nó là căn, lực, giác chi, và đạo chi. Tuệ là
"một theo năm cách" vì nó là bốn thứ này thêm như
ý túc, (v) Theo tám cách và theo chín cách: Niệm là một
pháp "theo tám cách vì nó là bốn niệm xứ, một căn, một
lực, một giác chi, một đạo chi, tinh tấn là một pháp
"theo chín cách" là bốn chánh cần, một như ý túc,
một căn một lực, một giác chi và một đạo chi. Như vậy:
43.
Các pháp bồ đề phần
Có mười bốn nếu không chia
Chúng gồm ba mươi bảy
Nếu phân theo nhiều nhóm.
Mỗi pháp làm một việc
theo phận sự đặc biệt của nó,
nhưng tất cả đều xuất hiện
Khi bất thành đạo viên thành
Ðấy là sự "viên mãn các pháp bồ đề phần".
44.
(2). Xuất khởi:
tuệ thế gian không dẫn phát sự "ngoi lên" khởi
sanh sự các cấu uế nội tâm, vì nó không đoán được
sanh, nghĩa là hành vi sanh khởi, nó cũng không làm "ngoi
lên" khỏi tướng các hành bên ngoài, vì nó có tướng
làm đối tượng.
[Chú thích:
"ngoi lên" khởi tướng là từ bỏ tướng các
hành và làm Niết bàn trở thành đối tượng. "Ngoi lên"
khởi sanh là không sanh quả báo trong tương lai bằng cách
gây nên sự chấm dứt cái "nhân" -- Pm. 874]
Trí chuyển tánh không
dẫn phát sự ngoi lên khởi sanh (bên trong) vì nó không đoạn
sanh, nhưng nó có làm ngoi lên khỏi tướng bên ngoài vì nó
có Niết bàn làm đối tượng, vậy có sự ngoi lên từ một
pháp. Do đó mà nói: "Tuệ ngoi lên và quay đi khỏi ngoại
giới là trí chuyển tánh" (Ps. i, 66). Cũng thế toàn
thể đoạn văn "Sau khi quay đi khỏi sanh, nó đi vào vô
sanh, nên gọi là chuyển tánh... (xem Ch. XXI 37)... Sau khi quay
đi khỏi tướng các hành ngoại giới, nó đi vào tịch diệt
Niết bàn, nên gọi là chuyển tánh". (Ps. i,67).
Bốn loại (đạo) trí
này "ngoi lên" khỏi tướng vì chúng có vô tướng làm
đối tượng, và "ngoi lên" khởi sanh, vì chúng đoạn
tận sanh. Vậy chúng "ngoi lên" khỏi cả hai. Cho nên
nói:
45. Thế nào tuệ
"ngoi lên" và "quay đi" khỏi cả hai gọi là
đạo trí?
"Vào sát-na Dự lưu
đạo, Chánh kiến theo nghĩa thấy (a) "ngoi lên" khởi
tà kiến, "ngoi lên" khởi cấu uế và các uẩn do
tà kiến sanh, (b) bên ngoài nó "ngoi lên" khỏi tất
cả tướng, do đó nói: Tuệ "ngoi lên" và "quay
đi" khỏi cả hai là đạo trí. Chánh tư duy theo nghĩa
"hướng tâm về", "ngoi lên" khỏi tà kiến...
Chánh ngữ theo nghĩa "bao dung", "ngoi lên" khỏi
tà ngữ... chánh nghiệp theo nghĩa sanh khởi, "ngoi lên"
khởi tà nghiệp... Chánh mạng theo nghĩa làm sạch, "ngoi
lên" khỏi tà mạng... Chánh tinh tấn theo nghĩa nỗ lực,
"ngoi lên" khỏi tà tinh tấn... Chánh niệm theo nghĩa
an trú, "ngoi lên" khỏi tà niệm... Chánh định theo
nghĩa không tán loạn, "ngoi lên" khỏi tà định, khỏi
các cấu uế và khởi các uẩn sanh do hậu quả của tà định,
và bên ngoài thì nó "ngoi lên" khỏi các tướng, do
đó nói: Tuệ ngoi lên và quay đi khỏi cả hai, là đạo trí.
Vào sát-na thuộc Nhất lai đạo, chánh kiến theo nghĩa thấy...
Chánh định theo nghĩa không tán loạn (a) "ngoi lên"
khỏi kiết sử thô là tham sân và tham sân tùy miên, khởi cấu
uế, và các uẩn hậu quả cấu uế, và (b) bên ngoài nó
ngoi lên khỏi tất cả các tướng, do đó nói, Tuệ
"ngoi lên" và quay đi khỏi cả hai là đạo trí.
"Vào sát-na Bất
hoàn đạo, chánh kiến theo nghĩa thấy... Chánh định theo
nghĩa không tán loạn (a) "ngoi lên" khỏi tàn dư của
tham sân và tham sân tùy miên, ngoi lên khỏi cấu uế và uẩn
sanh từ đó, (b) bên ngoài, nó ngoi lên khỏi tất cả tướng,
nên nói Tuệ ngoi lên và quay đi khỏi cả hai, là đạo trí.
"Vào sát-na
A-la-hán đạo, Chánh kiến theo ý nghĩa thấy... Chánh định
theo nghĩa không tán loạn, "ngoi lên" (a) khỏi sắc
ái, vô sắc ái, mạn, trạo cử, vô minh, mạn tùy miên, hữu
tham tùy miên, vô minh tùy miên, ngoi lên khỏi các cấu uế
và các uẩn sanh từ đó, (b) bên ngoài, nó ngoi lên khỏi tất
cả tướng, do đó nói: "Tuệ ngoi lên và quay đi khỏi cả
hai, gọi là đạo trí" (Ps. i,69).
46.
(3) Sự sóng đôi
các năng lực: Vào thời gian tu tập 8 thiền chứng
thuộc thế gian, tịnh chỉ lục tăng thịnh, trong khi ở thời
gian tu tập quán vô thường, v..v.. tuệ lực tăng thịnh.
Nhưng vào sát-na thánh đạo, định tuệ song hành, không cái
nào thắng lướt cái nào. Vậy, có sự sóng đôi của các lực
trong trường hợp mỗi trí trong bốn trí này như được nói:
"Khi vị ấy ngoi lên khỏi những cấu uế tương ứng với
trạo cử và khỏi các uẩn, thì sự nhất tâm bất loạn,
định của vị ấy có diệt là sở hành (gocara) của
nó. Khi vị ấy ngoi lên khỏi các cấu uế tương ưng với vô
minh và khỏi các uẩn, thì tuệ vị ấy theo nghĩa quán, có
diệt làm sở hành của nó. Bởi thế chỉ và quán có một
bản chất duy nhất ở giai đoạn xuất khởi, chúng song
hành không cái nào thắng lướt cái nào. Do vậy, mà nói vị
ấy tu tập chỉ và quán song hành theo nghĩa xuất khởi".
(Ps. ii, 98).
47.
(4). Các loại
pháp cần được trừ đoạn: Mỗi một trí trong bốn
trí tự nó và cùng nhau, đem lại sự từ bỏ các pháp gọi
là kiết sử phiền não. 8 tà, các thế gian pháp, các loại
tham, điên đảo, trói buộc, tà hạnh, lậu hoặc, bộc lưu,
hệ phược, triền cái, tà giải, chấp thu,û tùy miên, cấu
uế, các bất thiện hành và tác ý bất thiện.
48. Kiết sử là
mười pháp thời sắc tham, gọi là kiết sử vì chúng trói
buộc các uẩn trong đời này với các uẩn đời kế tiếp,
hoặc trói buộc nghiệp với quả hoặc trói buộc hữu tình
vào đau khổ. Vì bao lâu cái này còn hiện hữu thì cái kia
không chấm dứt. Trong những kiết sử này, thì sắc tham,
vô sắc tham, mạn, trạo cử và vô minh được gọi là năm
thượng phần kiết sử, vì chúng trói buộc hữu tình vào uẩn,
v.v. sanh trong các cõi cao, còn thân kiến, nghị, giới cấm
thủ, dục tham, và sân, gọi là hạ phần kiết sử vì
chúng trói buộc hữu tình vào các uẩn, v.v.. sanh trong các
cõi thấp.
49. Phiền não là
mười pháp tham, sân, si mạn, tà kiến, nghị, hôn trầm, trạc
cử, vô tàm, vô quý. Chúng được gọi như vậy vì tự
chúng đã ô nhiễm mà còn làm nhiễm ô các pháp tương ưng
với chúng.
50. Tám tà là tà
kiến, tà tư duy, tà ngũ, tà nghiện, tà mạng, tà tinh tiến,
tà niệm và tà định, thêm tà trí và tà giải thoát là mười.
[Chú thích:
"Tà trí" là trí phát sinh không chơn chánh, không
phù hợp với sự thật, bị lạc lầm do tà giải, v.v..
và chỉ là vọng tưởng. "Tà giải thoát" như cho
rằng giải thoát là đi cho đến chỗ tận cùng của thế
giới, v.v.. Xem Ch. XVI, đ. 35]
51. Các thế gian
pháp là tám thú được thua vinh nhục lạc khổ khen chê.
Chúng được gọi là pháp thế gian vì chúng cứ theo nhau tiếp
diễn khi thế giới còn tồn tại. Sự vừa ý khi vinh, khi
được v.v. và sự phẫn uất khi nhục, thua v.v.. cũng được
bao gồm trong thế gian pháp.
52. Các loại tham
có 5, là tham đối với chỗ ở, quyến thuộc, lợi lộc, pháp,
và tiếng khen. Có nghĩa là không chịu nỗi sanh sẻ những
thứ này với người khác.
53. Các thứ điên đảo.
Gồm ba là tưởng điên đảo, tâm điên đảo và kiến điên
đảo. Vô thường cho là thường, khổ cho là lạc, vô ngã
cho là ngã, bất định cho là định.
54. Các trói buộc:
có 4, khởi từ tham. Sở dĩ gọi trói buộc vì chúng cái
thân tâm lý vào cái thân vật lý, còn gọi là thân hệ phược.
Tham, sân giới cấm chủ và tà giải, nghĩa là cho rằng
"chỉ đây mới là sự thật" (Vbh. 374).
55. Tà hạnh, là
sự làm cái không nên làm, và không làm cần nên làm, do
tham san si và sợ. Chúng được gọi là đường xấu vì đó
là những con đường mà bậc thánh không đi.
56. Lậu hoặc (àsava):
về phương diện tâm pháp, nó lọt khởi chuyển tánh, về
phương diện các hữu, nó lọt khỏi hình thức hữu cao nhất,
tức bốn vô sắc, vì tính chất hữu vi của nó. Ðây là từ
để chỉ dục tham, hữu tham, tà kiến và vô minh, vì những
cấu uế này tiết lậu từ các căn mởn không được phòng
hộ, như nước rỉ từ bình chảy, hoặc vì chúng phải sinh
những khổ sanh tử.
Bộc lưu
là nghĩa càn quét, lùa vào biến hữu, và nghĩa là khó vượt
qua.
Hệ phược
vì chúng không cho phép gỡ ra khỏi một đối tượng, và
không gỡ khỏi khổ. Cả hai, Bộc lưu và Hệ phược, đều
chỉ lậu hoặc đã nói trên.
57. Triền cái có
5, tham sân hồn trầm trạo cử và nghi, nghĩa là chúng chướng
ngại và che giấu thực tại khỏi tâm thức.
58. Tà giải chỉ
tà kiến, vì nó sanh khởi dưới hình thức không thấy được
tự tính của một pháp, lại thấy cách khác, thấy một tự
tánh không thực.
59. Chấp thủ là
dục thủ, v.v. đã nói đầy đủ trong phần Mô tả duyên khởi
Ch. XVII, đoạn 240 trở đi.
60. Các tùy miên
gồm 7, có tính chất thâm căn cố đế được kể là dục
tham, sân, mạn, tà kiến, nghi, hữu tham và vô minh. Do chúng
ăn sâu nên gọi là tùy miên, chúng là cái nhân cho dục
tham, v.v. sanh lại mãi.
61. Các cấu uế
là tham sân si, tự thân chúng đã ô nhiễm như dầu, lọ, bùn,
mà chúng còn vấy bẩn các vật khác, nên gọi là cấu uế.
62. Các bất thiện
nghiệp gồm 10 là: sát sinh, lấy của không cho, tà hạnh
trong dục, vọng ngữ, ác ngữ, thô ngữ, phù phiếm ngữ,
tham, sân và tà kiến. Chúng được gọi như vậy vì vừa
là nghiệp bất thiện mà vừa là lộ trình dẫn đến ác
thú.
63. Các tác ý bất
thiện có 12, gồm 8 tâm gốc ở tham, hai ở sân và 2 ở
si. (Ch. XIV, đ. 89).
64. Bốn trí này riêng
biệt và chung nhau, trừ khử các pháp trên, khởi từ kiết
sử. Bằng cách nào?
Về kiết sử, 5
thứ được đoạn bằng trí thứ nhất: thân kiến, nghi, giới
cấm thủ, dục tham và sâm, thứ tham sân khá mạnh đủ để
dẫn đến đọa xứ. Các dục tham thô và sân thô còn lại
được đoạn bằng trí thứ hai. Dục sân vi tế được đoạn
bằng trí thứ ba. Năm kiết sử kể từ sắc giới tham, v.v.
(thượng phần) chỉ thực sự đoạn trừ với trí thứ 4.
Từ đây trở đi bất
cứ pháp nào được nói là đoạn trừ bởi một trong ba trí
bực trên thì cần hiểu là chỉ có dư tàn của pháp ấy
mà thôi, vì phần thô đã được đoạn bởi trí đi trước
nó để không dẫn đến đọa xứ.
65. Về các phiền
não, thì tà kiến, nghi được đoạn bằng trí đầu tiên,
sân đoạn bằng trí thứ ba. Tham, si, mạn, hôn trầm, trạo
cử, vô tàm, vô quí đoạn bằng trí thứ tư.
66. Tám tà: tà kiến,
tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, được đoạn bằng trí thứ
nhất. Tà tư duy, ác ngữ, thô ngữ đoạn bằng trí thứ ba.
Và ở đây ngữ là tư tâm sở (khuynh hướng muốn nói, chưa
thốt ra). Phù phiếm ngữ, tà tinh tiến, tà niệm, tà định,
tà giải thoát và tà trí đoạn bằng trí thứ tư.
67. Các pháp thế
gian thì sân đoạn bằng trí thứ ba, khả ý đoạn bằng
trí thứ tư. Có người cho rằng sự thích danh dự tiếng
khen chỉ được đoạn bởi trí thứ 4.
Các loại tham được
đoạn bằng trí đầu tiên.
68. Các điên đảo,
thì tưởng điên đảo, kiến điên đảo, tâm điên đảo,
cho vô thường là thường, vô ngã là ngã, và kiến điên đảo
lấy khổ làm vui, bất tịnh làm tịnh, được đoạn với
trí thứ nhất. Tưởng điên đảo, tâm điên đảo lấy bất
tịnh làm tịnh, đoạn với trí thứ ba. Tưởng điên đảo,
tâm điên đảo lấy khổ làm vui đoạn bằng trí thứ tư.
69. Các thân hệ phược,
thì giới cấm thủ và kiến thủ "đây mới là chân
lý" được đoạn bằng trí thứ nhất. Sân đoạn với
trí thứ ba. Cái còn lại đoạn trừ bằng trí thứ tư.
Các tà hạnh được
đoạn bằng trí thứ nhất.
70. Các lậu hoặc:
kiến lậu đoạn bằng trí thứ nhất, dục lậu bằng trí
thứ ba, hai lậu kia bằng trí thứ tư.
Bộc lưu và hệ phược
cũng vậy.
71. Các triền cái
thì nghi đoạn bằng trí thứ nhất, tham sân trạo cử bằng
trí thứ ba, hôn trầm thụy miên và trạo cử vi tế được
đoạn bằng trí thứ tư.
Tà giải
được đoạn bằng trí thứ nhất.
72. Về chấp thủ,
theo kinh điển, tất cả thế gian pháp đều là dục kể như
đối tượng dục, bởi vậy sắc giới tham và vô sắc giới
tham đều thuộc dục thủ, do đó dục thủ được trừ với
trí thứ tư. Các thủ còn lại đoạn với trí thứ nhất.
73. Các tùy miên:
tà kiến, nghi, đoạn với trí thứ nhất; dục, sân tùy
miên bằng trí thứ ba. Mạn tùy miên, hữu tham và vô minh
tùy miên đoạn bằng trí thứ tư.
74. Các cấu uế,
thì sân được đoạn với trí thứ ba, các thứ khác nhờ
trí thứ tư.
75. Các bất thiện
nghiệp, thì sát sinh, lấy của không cho, tà hạnh trong
dâm dục, nói dối, tà kiến, được đoạn bằng trí thứ
nhất, ác ngữ, thô ngữ, sân, trừ bằng trí thứ ba, phù
phiếm ngữ và tham được trừ bằng trí thứ tư.
76. Những tác ý bất
thiện, thì bốn tương ưng tà kiến, 1. tương ưng nghi, vị
chi năm, đoạn bằng trí thứ nhất, hai tâm tương ưng với
sân đoạn bằng trí thứ ba. Còn lại được trừ bằng trí
thứ bốn.
77. Và pháp nào đoạn
trừ với trí nào thì đoạn tận với trí ấy, do đó trên
đây nói: "Vậy 4 thứ trí này, riêng biệt và cùng nhau,
đoạn tận các pháp khởi từ kiết sử".
78.
(5). Hành vi từ bỏ:
Nhưng những trí này từ bỏ các pháp ấy như thế nào? Khi
chúng là quá khứ hay hiện tại hay vi lai? Lập trường ở
đây là thế nào? Vì nếu các trí ấy đoạn tận các pháp
kia khi chúng đã qua hay chưa đến, thì kết quả là nỗ lực
ấy vô hiệu, vì cái cần đoạn là phi hữu. Nếu đoạn
trong khi chúng đang hiện hữu cũng vô ích, vì những pháp cần
đoạn hiện hữu đồng thời với cái nỗ lực đoạn, và
như vậy thành ra có sự tu tập một đạo lộ có cấu uế,
hoặc thành ra cấu uế là bất tương ưng với tâm, mặc dù
không có chuyện có một cấu uế đang hiện hữu mà lại bất
tương ưng với tâm.
79. Ðó không phải một
luận cứ mới mẻ gì. Bởi trong các kinh luận, câu hỏi đầu
tiên được đặt ra là, khi một người trừ cấu uế, thì
trừ cấu uế quá khứ chăng, vị lai chăng, hiện tại
chăng? Nếu vị ấy đoạn cấu uế quá khứ, tức là phá hủy
cái đã bị phá hủy, làm chấm dứt cái đã chấm dứt,
làm tiêu tan cái đã tiêu tan, làm hạ xuống cái đã hạ.
Cái gì đã qua, tức là phi hữu, vị ấy lại đoạn trừ cái
ấy. Trả lời là, vị ấy không đoạn trừ cấu uế quá khứ.
Bác luận lại lập: nếu vị ấy đoạn trừ cấu uế vị
lai, tức đoạn một cái chưa sanh, chưa khởi, chưa hiển hiện;
cái còn vị lai nghĩa là phi hữu, vị ấy đoạn cái ấy. Ðược
cãi rằng, vị ấy không trừ cấu uế vị lai. Bác luận lại
đặt ra: Nếu vị ấy đoạn cấu uế hiện tại, tức có
nghĩa là đang bốc cháy với lửa tham, vị ấy đoạn tham,
hư hỏng vì sân, vị ấy lại đoạn sân, và đang bị ảo
tưởng vị ấy đoạn si, bị trói buộc bởi mạn, vị ấy
trừ mạn, đang tà kiến mà trừ tà kiến, đang tán loạn lại
trừ tán loạn, chưa quyết định, vị ấy đoạn nghi, đang
có những tùy miên, vị ấy đoạn tùy miên. Những pháp tối
sáng sóng đôi song hành, thành ra có sự tu tập một đạo lộ
có cấu uế. Tất cả điều này được chối bỏ như sau: Vị
ấy không đoạn cấu uế quá khứ, không đoạn cấu uế vị
lai, không đoạn cấu uế hiện tại. Cuối cùng câu hỏi
là, như vậy hóa ra không có sự tu tập đạo lộ, chứng quả,
đoạn trừ cấu uế, không có sự thâm nhập các phái?
Ðáp, có chứ. Hỏi, bằng cách nào? Trả lời: Ví như một
cây chưa sanh quả, bị người chặt gốc, thì những trái chưa
sanh sẽ giữ nguyên trạng thái không sanh, không sẽ sanh,
không khởi, không sẽ khởi, không hiển hiện, không sẽ hiển
hiện. Cũng vậy tập khởi là một nhân, một duyên cho sự
sanh sản các cấu uế. Khi thấy nguy hiểm của cấu uế,
tâm đi vào tình trạng không tập khởi. Với tâm đi vào trạng
thái không tập khởi, cấu uế có thể sanh do duyên tập khởi
sẽ không sanh, không đi đến trạng thái sẽ sanh... không
đi đến trạng thái sẽ hiển hiện. Như vậy, với sự chấm
dứt của cái nhân của khổ, có sự chấm dứt khổ. Khởi
là một nhân..., tướng là một nhân.. Tích lũy là một
nhân.. một duyên cho sự sanh sản các cấu uế. Thấy nguy hiểm
trong tích lũy, tâm đi vào trạng thái không tích lũy. Do tâm
đi vào không tích lũy, các cấu uế do duyên tích lũy sanh ra
sẽ không sanh, không đi đến sẽ sanh, không hiện không đi
đến sẽ hiện. Như vậy, với sự chấm dứt của nhân có
sự chấm dứt của khổ. Vậy có sự tu tập đạo lộ, có
sự chứng quả, có sự từ bỏ cấu uế, có sự thể nhập
pháp" (Ps. ii, 217-9)
80. Ðiều ấy chứng tỏ
cái gì? Nó chứng tỏ sự đoạn trừ những cấu uế nào
có đất để sinh trưởng. Nhưng những cấu uế có đất để
tăng trưởng ấy, là quá khứ vị lai hay hiện tại? Chúng
chỉ là những cấu uế được mô tả là "sinh khởi nhờ
có đất" để tăng trưởng, thế thôi.
81. Sanh có nhiều nghĩa,
1/ thực sự xảy ra, 2/ đã là, đã qua, 3/ sanh nhờ cơ hội
tạo thành, 4/ sanh nhờ có đất để mọc.
1/ Tất cả những gì
có 3 sát-na sinh, tru,ù diệt, gọi là "sanh kể như thực
sự xảy ra". 2/ Các thiện và bất thiện nghiệp báo
được kinh nghiệm do sự kích thích của một đối tượng,
đã được nếm trải và đã qua mất, là sanh kể như đã
qua. 3/ Nghiệp được mô tả theo cách sau: Những việc mà vị
ấy đã làm trong quá khứ dù đã thực sự trôi qua, được
gọi là "sanh do cơ hội tạo tác", vì nó đạt đến
trú vị bằng cách ngăn chận nghiệp đang thuần thục khác
và khiến cho nghiệp ấy trở thành cơ hội cho quả báo
riêng nó (xem Ch. 19, đ. 16). Và nghiệp báo có cơ hội của nó
được tạo theo cách ấy dù khi chưa sanh, cũng được gọi
"sanh do cơ hội tạo" vì nó chắc chắn sẽ sanh khi
gặp cơ hội. 4/ Trong khi bất thiện nghiệp chưa được từ
bỏ ở một cảnh giới nào, thì gọi là "sanh nhờ có
đất để tăng trưởng".
[Chú thích: "Ở
trong một cảnh giới nào" có nghĩa các uẩn kể như
đối tượng, bị chấp thủ, được xem là 1 vị trời hay
người].
82. Và ở đây sự
khác nhau giữa "đất" và "cái gì có đất"
cần rõ. Vì "đất" có nghĩa là 5 uẩn trong ba hữu,
đối tượng của tuệ. [Chú thích: "đối tượng của
tuệ ám chỉ tình trạng không được hoàn toàn liễu tri của
các uẩn, vì chính các uẩn không được liễu tri trong số
các uẩn tạo nên căn cứ chủ quan, mới là đất của phiền
não] "Cái gì có đất" chỉ cho phiền não có thể
sanh khởi tương ưng với các uẩn ấy. Những cấu uế ấy
có đất ấy, nên nói "nhờ có đất đề tăng trưởng".
83. Và điều ấy không
có nghĩa về phương diện đối tượng, vì cấu uế đối với
1 đối tượng có thể khởi tương ưng với bất cứ uẩn nào,
kể cả các uẩn quá khứ, vị lai hay hiện tại, và tương
ưng với cả các uẩn đã hoàn toàn được liễu tri về
phương diện chủ thể, nơi 1 người đã diệt lậu hoặc,
như cấu uế khởi lên nơi thanh niên giàu có Soreyya khi
thấy tôn giả Ca chiên diên, và cấu uế khởi lên nơi bà
la môn Nanda đối với nàng Uppalavama. Nếu sự
sanh nhiễm tâm nơi thanh niên ấy khi thấy các uẩn tôn giả
Ca chiên diên, mà gọi là "sanh vì có đất để tăng
trưởng" thì vô lý, nên phải hiểu "đất" theo
nghĩa nội tại chủ quan. Vì các cấu uế gốc rễ sinh tử
là tiềm tàng trong chính các uẩn của tự mình, các uẩn
không được liễu tri bằng tuệ, ngay lúc chúng sanh khởi.
Và chính điều ấy mới gọi là "sanh nhờ có đất",
nghĩa là không được t? bỏ.
84. Khi những cấu uế
là tiềm phục, nghĩa là không được từ bỏ trong 5 uẩn của
một người, thì chỉ có các uẩn đó của y mới là căn bản
cho những cấu uế ấy, chứ không phải các uẩn thuộc về
1 người khác. Và chỉ có các uẩn quá khứ mới là quá khứ
căn bản cho cấu uế tiềm phục không được từ bỏ trong
các uẩn quá khứ. Cũng thế, với trường hợp các uẩn vị
lai, v.v... Tương tự, chỉ có các uẩn dục giới mới là căn
bản cho những cấu uế tiềm phục chưa từ bỏ trong các uẩn
dục giới. Trường hợp sắc và vô sắc giới cũng vậy.
85. Nhưng trong trường
hợp bậc dự lưu, v.v... khi cấu uế gốc rễ của sinh tử,
đã được đoạn trừ nhờ một đạo lộ, trong các uẩn của
một bậc thánh, thì các uẩn của vị ấy không còn gọi
là đất cho cấu uế, vì không còn làm căn bản cho cấu uế.
Nhưng nơi 1 người thường, các cấu uế gốc rễ của sinh
tử chưa được đoạn gì cả, bởi vậy bất cứ nghiệp
gì y làm, luôn luôn là thiện hoặc bất thiện. Bởi thế đối
với y vòng luân chuyển cứ mãi quay, với nghiệp và cấu uế
làm duyên cho nó.
86. Nhưng trong khi cấu
uế là gốc rễ của vòng sinh tử như vậy, ta không thể bảo
nó chỉ ở trong sắc uẩn của người kia, hay chỉ ở trong
thọ uẩn, tưởng, hành, thức uẩn của người kia, vì nó
tiềm tang trong cả năm uẩn, như nhựa cây.
87. Khi một cây mọc
trên đất nhỏ các tinh chất nhựa cây, nước... nó tăng
trưởng rễ, uẩn, cành, nhánh, mầm, lá hoa, quả cho đến
khi nó tỏa rộng giữa bầu trời, và tiếp tục dòng họ
cây qua các hạt giống cho đến tận thế, ta không thể nói
tinh chất chỉ có trong rễ, trong thân... mà thôi, vì nó lan
khắp thân cây từ rễ trở lên.
88. Giả sử có người
không ưa hoa lá của cây ấy, bèn chích cả bốn phía bàng
kim độc gọi là gai manduka, thì vì nhiễm độc, cây
không thể kéo dài thân tương tục của nó nữa, trở thành
trơ trụi vì tích chất bị nhiễm. Cũng vậy, thiện nam từ
khi cảm thấy chán ghét sự sanh các uẩn, khởi sự tu tập
bốn đạo lộ, cũng giống như người kia chấm độc nhất
vào cả bốn phiá cây. Tính tương tục của các uẩn nơi vị
ấy được làm cho vô năng, không thể kéo dài đến một hữu
kế tiếp. Bây giờ nó không sanh ra hữu vị lai, vì tất cả
loại nghiệp khỏi từ thân nghiệp bây giờ chỉ là duy
tác: vì hiệu lực của độc tố bốn đạo lộ làm cho diệt
tận các cấu uế gốc rễ sinh tử, vì không chấp thủ, vị
ấy đương nhiên đạt đến tịch diệt Niết bàn, như ngọn
lửa đã hết nhiên liệu, khi tâm cuối cùng chấm dứt. Ðấy
là sự khác nhau giữa "đất" và "cái gì có đất".
89. Ngoài ra, lại còn bốn
cách xếp loại "sanh" nữa là: 5/ sanh kể như xảy
ra, 6/ sanh với sự nắm giữ một đối tượng, 7/ sanh do không
thể ngự, 8/ sanh do không từ bỏ.
5/ Sanh kể như xảy ra
cũng giống như sự sanh kể như thực sự xảy ra đã nói
ở (1),
6/ Khi một đối tượng đi vào chú ý của mắt, v.v. vào một
thời gian trước, mà cấu uế không sanh ngay, lại nổi lên
đầy mãnh lực về sau, chỉ vì đối tượng đã được ôm
giư õ, thì cấu uế được gọi là "sanh do sự nắm giữ
một đối tuợng". Như cấu uế khởi lên trong tôn giả
Mahàtissa sau khi thấy hình dáng một phụ nữ trong lúc ngài
đi khất thực.
7/ Bao lâu một cấu uế không được dập tắt bằng tuệ
hay định thì mặc dù có thể nó chưa thực sự đi vào tâm
tương tục, nó vẫn được gọi là "sanh do không chế
ngự", vì không có nhân để ngăn sự sanh khởi của nó
nếu gặp duyên thích hợp. 8/ Nhưng ngay khi dù đã dập tắt
bằng chỉ hay quán, các cấu uế vẫn được gọi là
"sanh do không từ bỏ", nếu chưa được đoạn tận
bằng đạo lộ. Như vị trưởng lão đã đắc tám thiền chứng
mà cấu uế vẫn còn khởi lên nơi ngài trong khi đang du hành
trên hư không, vì nghe giọng hát du dương của một phụ nữ
đang hái hoa.
90. Ba loại sanh khởi
(6,7,8) nói trên, sanh do ôm giữ đối tượng, sanh do không chế
ngự, và sanh do không từ bỏ, đều bao gồm trong loại
"sanh do có đất để tăng trưởng"
91. Về các loại sanh
đã nói, bốn loại 1,2,3,4 không thể từ bỏ bởi bất cứ
loại nào trong bốn, vì chúng không thể loại trừ bằng đạo
lộ. Các loại sanh 4,6,7,8 đều có thể được từ bỏ, vì
một trí thế gian hay siêu thế nào, khi sanh khởi, sẽ vô hiệu
hóa một trong nhưng kiểu sanh này.
Ðấy là trình bày về
chứng pháp cần và có, và hành vi từ bỏ chúng.
Bốn Nhiệm Vụ
92.
Các nhiệm vụ liễu
tri, v.v.
Khi bốn chân lý được thể nhập,
Mỗi nhiệm vụ cần được thay
Theo tự tính của nó.
Bốn
Nhiệm Vụ Trong Một Sát-na Duy Nhất
(6) Các nhiệm vụ
liễu tri:Vào các thời thế nhập bốn chân lý, mỗi
trí trong bốn đạo thi hành bốn nhiệm vụ trong một sát-na
duy nhất, đó là liễu trị, đoạn trị, chứng ngộ và tu
tâïp. Mỗi nhiệm vụ này cần được nhận tùy theo tự
tinh của nó. Cổ đức nói: "Cũng như ngọn đèn làm đòâng
lúc bốn nhiệm vụ là đốt cháy bâùc, xua tan bóng tối,
làm ánh sáng xuất hiện, và tiêu thụ dầu; cũng vậy đạo
trí thể nhập bốn chân lý đồng thời qua một sát-na duy
nhất: thâm nhập khổ đế bằng cách liễu trị, thâm nhập
nguồn gốc khổ bằng cách đoạn trừ, thâm nhập Ðạo bằng
sự tu tập, và thâm nhập Diệt bằng chứng ngộ. Nghĩa là
bằng cách lấy Diệt làm đối tượng, đạo trí đạt đến,
thấy và chọc thủng bốn chân lý.
93. Vì điều này được
nói: " Này các Tỳ Kheo, ai thấy khổ, thấy luôn nguồn
gốc khổ, thấy luôn sụụ chấm dứt khổ và con đường
đưa đến diệt khổ. " (S. v, 437) Ðối với ba
chân lý kia cũng vậy. Lại nữa, Kinh dạy: " Trí của một
người có được đạo lộ là khổ trí, khổ tập trí, khổ
diệt trí và khổ diệt đạo trí" (Ps. i,119)
94. Như đèn đốt cháy
bấc, đạo trí liễu tri khổ, như đèn xua tan bống tối, đạo
trí đoạn trừ nguồn gốc khổ, như đèn làm ánh sáng xuất
hiẹn, đạo trí (kể như chánh kiến) tu tập đạo lộ, nói
khác là tu các pháp chánh tư duy, v..v... bằng cách làm câu
sanh duyên cho chúntg. Và như đèn tiêu thụ dầu cho đến hết,
cũng vậy trí này chứng diệt, đem lại sự chấm dứt cấu
uế phiền não.
95. Hoặc lấy một ví
dụ khác như mặt trời mọc làm đồng lúc bốn nhiệm vụ,
là soi sáng các sắc, xua tan bóng tối, làm cho ánh sáng được
thấy, và làm bớt rét. Cũng vậu đạo trí thâm nhập diệt
đế bằng sự chứng đạt. Ở đây cũng thế, như mặt trời
soi sáng sắc đạo trí liễu tri khổ, như mặt trời xua tan
bóng tối, đạo trí đoạn tập; như mặt trời làm ánh
sáng hiện rõ, đạo trí kể như chánh kiến tu tập các đạo
chi khác bằng cách làm câu sanh duyên cho chúng; như mặt trời
làm giảm bớt lạnh, đạo trí chứng, diệt, sự tịnh chỉ
các phiền não.
96. Một ví dụ khác:
như chiếc thuyền làm đồng lúc bốn việc là rời bờ, rẽ
sóng, chở hàng, và tiến gần bờ kia, cũng vậy đạo trí...
thâm nhập diệt đế bằng cách chứng đạt. Như thuyền rời
bờ này, đạo trí liễu trí khổ; như thuyền rẽ nước, đạo
trí đoạn tập; như thuyền chở hàng, đạo trí tu tập các
đạo chỉ khác bằng cách làm câu sanh duyên cho chúng; như
thuyền tiến gần bờ bên kia, đạo trí chứng diệt, bờ
bên kia.
97. Khi trí vị ấy sanh
khởi như vậy, với bốn nhiệm vụ trong một sát-na duy nhất,
vào lúc thể nhập bốn chân lý, thì bốn chân lý trở
thành một thực tại nhất quán với 16 khía cạnh, như
đư?c nói: "Có sự thể nhập nhất quán cả bốn chân
lý với nghĩa là chắc thực, qua 16 khía cạnh: khổ có nghĩa
bức bách, hữu vi, đốt cháy, biến đổi là nghĩa chân thực
của nó; tập có nghĩa tích lũy, nguồn gốc, trói buộc, chướng
ngại, là nghĩa chân thực của nó; diệt có nghĩa thoát, viễn
ly, vô vi, bất tử, là nghĩa chân thực của nó; đạo có
nghĩa là lối ra, nguyên nhân, thấy, siêu việt, là nghĩa chân
thực của nó. Bốn chân lý với 16 khía cạnh này được gồm
trong một chân lý duy nhất. Cái gồm tất cả gọi là nhất
thể, và nhất thể thì được thâm nhập bằng một trí duy
nhất. Như vậy, bốn chân lý có một sự thể nhập duy nhất"
(Ps. ii, 107)
98. Ở đây, người ta
có thể đặt câu hỏi: Có những nghĩa khác của khổ, như
bệnh, như cục bướu, v.v. và của các chân lý khác, tại
sao đây chỉ nói bốn nghĩa cho mỗi chân lý? Trả lời là,
chính do cái gì hiện rõ khi thấy ba chân lý kia, trong mỗi
trường hợp. Trước hết, trong đoạn: "Gì là khổ
trí? Ðó là sự hiểu rõ, hành vi hiểu rõ khởi lên liên hệ
khổ" (Ps. i, 119), thì trí về bốn chân lý được
trình bày như có một chân lý duy nhất làm đối tượng cho
nó. Nhưng với đoạn "Này các tỷ kheo, ai thấy khổ, cũng
thấy luôn nguồn gốc khổ" (S. v, 437), thì trí ấy
được trình bày như là hoàn tất nhiệm vụ nó đối với
ba chân lý kia đồng thời với sự lấy một chân lý làm
đ?i tượng.
99. Ðối với hai đoạn
trên, khi trí lấy một chân lý làm đối tượng, thì, khi khổ
được chọn làm đối tượng chẳng hạn, khổ có đặc tính
bức bách kể như tự tánh nó, nhưng ý nghĩa hữu vi của nó
trở nên rõ rệt do thấy Tập, bởi vì Khổ ấy được tích
tập, được tạo thành, được kết tụ bởi Tập, cái có
đặc tính tích lũy. Và đạo lộ thanh lương tẩy trừ nhiệt
não cấu uế, nên ý nghĩa thiêu đốt của Khổ trở nên rõ
rệt nhờ thấy Ðạo, như sự xấu xí của nàng Sundari hiện
rõ cho tôn giả Nanda khi thấy thiên nữ. Ý nghĩa biến
đổi của khổ trở nên rõ rệt nhờ thấy Diệt kể như pháp
không bị biến dịch, điều này khỏi cần giảng giải.
100. Cũng thế, khi Tập
được lấy làm đối tượng, thì nó có đặc tính tích lũy
kể như tự tánh nó, nhưng ý nghĩa nguồn gốc trở nên rõ
rệt do thấy khổ, như thực phẩm không thích hợp là căn
do của chứng bệnh, sự kiện này rõ rệt khi thấy bệnh nổi
lên do ăn thức ăn ấy. Ý nghĩa trói buộc của nó rõ rệt
nhờ thấy Diệt, cái không còn bị trói buộc. Và ý nghĩa
chướng ngại của nó trở nên rõ rệt do thấy đạo lộ là
lối thoát ra.
101. Cũng vậy, khi Diệt
được lấy làm đối tượng, thì diệt có đặc tính một
lối thoát. Nhưng ý nghĩa viễn ly của nó trở nên rõ rệt
do thấy Tập kể như không viễn ly. Ý nghĩa vô vi của nó
rõ rệt do thấy đạo lộ, vì đạo lộ chưa từng thấy
trước đây trong vòng vô thỉ sanh tử, tuy vậy đạo lộ
cũng còn là hữu vi, vì là duyên sinh. Và bởi thế tính vô
vi của cái vô điều kiện trở nên hoàn toàn rõ rệt. Ý
nghĩa bất tử của nó trở thành hiển nhiên do thấy khổ,
vì khổ là độc dược có Niết bàn thì bất tử.
102. Cũng vậy khi đạo
được lấy làm đối tượng, thì nó có đặc tính là lối
ra. Nhưng ý nghĩa nguyên nhân của nó trở nên rõ rệt do thấy
tập như sau: "Ðó không phải nguyên nhân, mà trái lại,
đây mới là nhân, để đạt Niết bàn. Ý nghĩa thấy của
nó rõ rệt do thấy Diệt, như tính sáng của mắt trở nên
rõ rệt khi một người thấy được sắc vi tế và nghĩ rằng,
mắt ta tỏ thật. Ý nghĩa siêu việt rõ rệt do thấy khổ,
cũng như tính thù thắng của những ông lớn càng nổi bật
khi thấy những kẻ khốn cùng bị nhiều bệnh tật bức
não.
103. Vậy trong đoạn
văn trên bốn nghĩa được kể cho mỗi chân lý, bởi vì kể
riêng từng cái, thì có một nghĩa rõ rệt, còn ba nghĩa kia
rõ rệt nhờ thấy ba chân lý còn lại.
Tuy nhiên, vào sát-na
thuộc Ðạo, thì tất cả ý nghĩa này được thâm nhập đồng
thời bởi một tri duy nhất có bốn nhiệm vụ tương ưng với
khổ, tập, diệt, đạo (là tri khổ đoạn tập chứng diệt
tu đạo). Nhưng về những người chủ trương rằng bốn chân
lý được thâm nhập riêng rẻ, thì có nhiều điều nữa
được nói trong Abhidhamma trong bộ Kathàvatthu (Kv.
212 - 20).
Bốn
Nhiệm Vụ - Mô Tả Riêng rẽ.
104.
(7). Bây giờ về bốn
nhiệm vụ liễu tri, v. v. được nói trong đoạn 92
ở trên:
Liễu tri gồm có ba,
Cũng vậy đoạn và chứng
Tu tập thì có hai
Sự trình bày cần biết.
105. (a). Liễu tri có
ba, đó là (i) Liễu tri kể như sở tri. (ii) Liễu tri kể
như siêu đạt (investigating), và (iii) Liễu tri kể như từ bỏ,
đoạn trừ (xem Ch. XX, 3)
106. (a). (i). Ở đây,
liễu tri kể như sở tri được tóm tắt như sau: "Tuệ
kể như thắng trí là trí theo nghĩa sở tri". (Ps. i,
87) "Bất cứ những pháp nào được thắng trí gọi
là sở tri" (Ps. i, 87). Nó được trình bày chi tiết
như sau: "Này các tỷ kheo, tất cả phải được thắng
trí. Và tất cả đó là gì? Con mắt phải được thắng
tri... " (Ps.i, 5). Phạm vi đặc biệt của nó là thắng
tri danh sắc cùng với các duyên của nó.
107. (ii) Liễu tri kể
như suy đạt được tóm tắt như sau: "Tuệ với tư cách
liễu tri gọi là trí trong ý nghĩa suy đạt (phê phán).
"Bất cứ những pháp nào được liễu tri đều được
suy đạt" (Ps. i, 87). Nó được trình bày chi tiết
như sau: "Này các tỷ kheo, tất cả phải được liễu
tri. Và những gì là tất cả? Con mắt phải được liễu
tri... " (Ps. i,22). Phạm vi đặc biệt của nó khởi
từ Quán theo nhóm, và sanh khởi với tư cách suy đạt vô thường,
khổ, vô ngã, nó trải rộng cho đến thuận thứ (xem Ch. XX,
41)
108. (iii) Liễu tri kể
như đoạn trừ: "Liễu tri với nghĩa đoạn trừ, là
trí theo nghĩa từ bỏ" (Ps. i,87). Ðược nói chi tiết:
"Bất cứ pháp nào được đoạn trừ đều được từ
bỏ. Nó xảy đến như sau: Do quán vô thường, vị ấy từ
bỏ thường tưởng. Phạm vi của nó trải từ quán diệt
cho đến đạo trí. Ðấy là điều muốn nói ở đây.
109. Hoặc, liễu tri kể
như sở tri và suy đạt còn có loại thứ ba làm mục đích,
vì bất cứ pháp nào được đoạn thì chắc chắn phải
được biết (sở tri) và được suy đạt, vậy cả ba loại
liễu tri có thể hiểu theo cách ấy, kể như nhiệm vụ của
đạo trí.
110. (b) Ðoạn cũng có
ba: (i) Ðoạn bằng cách ức chế. (ii) bằng cách thay vào một
pháp ngược lại, (iii) bằng cách cắt đứt.
111. (i). Khi bất cứ một
loại định thế gian nào ức chế một pháp đối lập, như
triền cái, thì hành vi ức chế ấy như đè áp cây lau bằng
cách đặt trên ngọn cây một cái bình đầy nước có lỗ.
Ðó là đoạn trừ bằng cách ức chế. Nhưng sự đàn áp những
triền cái được nói trong Kinh như sau: "Có sự đoạn
trừ các triền cái bằng cách đàn áp vào lúc đó. Vì ngay
cả trước và sau sơ thiền, những triền cái cũng không
xâm chiếm tâm một cách đột ngột; nhưng tầm, v.v.. chỉ
được đàn áp vào sát-na an chỉ ở thiền thứ hai, v.v. và
như vậy sự đàn áp những triền cái là rõ rệt vào lúc
ấy.
112. (ii) Ðoạn trừ bằng
cách thay thế một pháp đối lập: Là đoạn một pháp nào
bằng phương tiện một chi phần đặc biệt của trí, mà với
tư cách một thành phần của tuệ, nó đối lập với pháp
ấy, như sự từ bỏ bóng tối nhờ một bó đuốc. Kỳ thực
đó là trước hết đoạn trừ thân kiến nhờ Phân biệt
danh sắc, đoạn trừ cả hai kiến chấp vô nhân và nhân tưởng
tượng, và cả cấu uế hoài nghi nhờ quán các duyên, đoạn
trừ sự chấp thủ hợp tướng gọi là "tôi" và
"của tôi" nhờ quán theo nhóm, đoạn trừ tưởng là
đạo cái phi đạo nhờ định rõ cái gì là đạo, gì là chấp
thường nhờ thấy diệt; đoạn trừ cái tưởng không đáng
sợ ở trong cái đáng sợ nhờ bố úy trí; đoạn trừ tưởng
lạc nhờ quá hoạn trí; đoạn trừ sự thiếu ưa thích giải
thoát bằng dục thoát trí; đoạn trừ không tư duy bằng tư
duy trí; đoạn trừ sự không nhìn với xả bằng xả: đoạn
trừ tà giải bằng trí thuận thứ.
113. Lại nữa trong trường
hợp mười tám tuệ quán, sự đoạn trừ bằng cách thay thế
pháp đối lập là: (1) Ðoạn thường tưởng bằng quán vô
thường, (2) đoạn lạc tưởng bằng quán khổ, (3) đoạn ngã
tưởng bằng quán vô ngã, (4) đoạn thích thú bằng quán ly
dục (5) đoạn tham bằng quán ly tham, (6) đoạn sinh bằng quán
diệt, (7) đoạn chấp thủ bằng quán từ bỏ, (8) đoạn cái
tưởng nguyên vẹn bằng quán hoại, (9) đoạn tích lũy bằng
quán diệt, (10) Ðoạn tưởng bền bĩ bằng quán biến đổi,
(11) đoạn tướng bằng quán vô tướng, (12) đoạn dục bằng
quán vô dục, (13) đoạn tà giải bằng quán không, (14) đoạn
tà giải do chấp thủ vào một cái lõi bằng tuệ quán đi sâu
vào các pháp thuộc tăng thượng tuệ, (15) đoạn tà giải
do mê mờ bằng chánh tri kiến, (16) đoạn tà giải do y cứ
các hành bằng quán nguy hiểm trong các hành, (17) đoạn phải
tư duy bằng quán tư duy, (18) đoạn tà giải do trói buộc bằng
quán "quay đi". (Ps. i,47)
114. (1-7) Bảy pháp
quán khởi từ quán vô thường, đã được giải thích ở
chương XXI, đ, đoạn 15 trở đi.
(8) Quán hoại là trí nơi
một người phân tích cái toàn vẹn, và như vậy thấy được
vô thường theo nghĩa tan rã. Nhờ phương tiện trí này, mà
có được sự từ bỏ tưởng về sự nguyên vẹn.
115. (9) Quán diệt được nói như sau:
"Ðịnh nghĩa cả
hai đều giống nhau
Bằng cách suy diễn chính vật ấy
Chú tâm trên diệt - đây
là tuệ theo nghĩa quán diệt. (Ps. i,58)
Ðó là sự chú mục
vào diệt, nói cách khác, vào ngay sự tan rã, sau khi thấy sự
tan rã, của cả hai thứ hành được thấy và không thấy,
do kinh nghiệm bản thân và do suy diễn. Nhờ phép quán ấy,
chấm dứt tích lũy. Khi một người thấy với tuệ rằng
"Những pháp vì chúng mà ta có thể tích lũy nghiệp đều
phải diệt", thì tâm vị ấy không còn khuynh hướng tích
lũy.
116. (10) Quán biến đổi
là sự thấy rõ, theo Sắc bảy pháp, v.v. rằng những gì có
sanh tương tục đổi khác như thế nào, bằng cách tuần tự
dời khỏi bất cứ định nghĩa nào về nó. Hoặc đó là sự
thấy rõ biến dịch trong hai khía cạnh già và chết của
cái gì đã sinh ra. Bằng phép quán ấy, bỏ được tưởng về
lâu bền.
117. (11) Quán vô tướng
cũng giống như quán vô thường, qua đó thường tưởng bị
từ bỏ.
(12) Quán vô dục cũng như quán khổ. Nhờ đó
sự tham cầu dục lạc được từ bỏ.
(13) Quán không cũng
như quán vô ngã. Nhờ phép quán này mà sự cố chấp có
ngã được từ bỏ.
118. (14) Tuệ quán đi sâu
vào các pháp thuộc tăng thượng tuệ được nói đến như
sau:
Sau khi tư duy trên đối
tượng
vị ấy quán hoại diệt
tướng khi ấy thành trống rỗng
đây là quán thuộc tăng thượng tuệ. (Ps. i, 58)
Tuệ được mô tả như
vậy xảy đến sau khi biết rõ sắc kể như đối tượng, bằng
cách thấy sự hoại diệt của cả hai, đối tượng lẫn tâm
năng quán, và bằng cách nắm giữ cái tướng trống rỗng
qua sự hoại diệt như sau: "Chỉ có các hành tan rã.
Ðó là sự chết của các hành, ngoài ra không có gì
khác". Lấy tuệ làm tăng thượng tuệ và làm tuệ quán
các pháp, tín gọi là "tuệ quán đi sâu về vào các
pháp thuộc tăng thượng tuệ". Nhờ phương tiện đó,
tà giải (cố chấp), do chấp thủ một cái lõi được đoạn
trừ, vì đã thấy rõ ràng, không có cái trung tâm của sự
trường cửu và trung tâm của bản ngã.
119. (15) Chánh tri kiến
là sự phân biệt rõ danh sắc với các duyên của nó. Nhờ
phương tiện này, tà giải do mê mờ xảy ra như sau: "Ta
có mặt hay không có mặt trong quá khứ". (M. i,8)
và như sau: "Thế giới này do một thượng đế tạo
ra" là giải ấy được từ bỏ.
120. (16) Quán nguy hiểm
(Quá hoạn trí) là trí thấy nguy hiểm trong tất cả loại hữu,
sanh, thú, trú, v.v... khởi lên do tướng kinh khủng. Nhờ
phương tiện này, sự tà giải do nương tựa các hành được
từ bỏ, vì hành giả không còn thấy có hành nào đáng nương
tựa để trú ẩn.
(17) Quán tư duy là tư
duy về một phương tiện giải thoát, nhờ đó sự không tư
duy được từ bỏ.
121. (18) Quán "quay
đi" là trí hành xả và trí thuận thứ. Vì ở điểm này,
tâm vị ấy được nói là rút lui, lùi lại, co rút lại trước
toàn diện, lĩnh vực các hành, như giọt nước co lại trên
một ngọn lá sen. Bởi thế nhờ quán này, tà giải do trói
buộc, được đoạn trừ, có nghĩa là, từ bỏ sanh khởi cấu
uế, và cấu uế này là tà giải bị ô nhiễm vì trói buộc
của dục tham v.v...
Sự đoạn trừ bằng cách
thay thế những pháp đối lập cần hiểu chi tiết như vậy.
Nhưng trong các bản kinh nó được đề cập vắn tắt như
sau: "Sự trừ đoạn các kiến chấp bằng cách thay thế
các pháp đối lập phát sinh nơi một người tu tập định
dự phần vào thể nhập". (Ps. i,27).
122. (iii) Sự đoạn trừ
các pháp khởi từ kiết sử trở đi, nhờ thánh đạo trí
làm cho chúng không bao giờ sinh lại, như vậy bị sét đánh,
thì gọi là đoạn trừ bằng cách tận diệt. Về điểm này,
được nói: "Ðoạn trừ bằng cách tận diệt phát sinh
nơi một người tu tập đạo lộ siêu thế đưa đến sự
phá hủy cấu uế". (Ps. i,27)
123. Vậy, trong ba loại
từ bỏ này, chỉ có loại từ bỏ bằng cách tận diệt là
muốn nói ở đây.
Nhưng vì hai loại từ
bỏ trước đấy của hành giả (bằng sự ức chế và bằng
thay thế các pháp đối lập) đã có loại thứ ba làm mục
tiêu, nên cả ba loại đều có thể xem nhiệm vụ của đạo
trí. Như khi một người đã chinh phục được một đế quốc
bằng cách giết hết các ông vua đối nghịch, thì bất cứ
gì được người ấy thực hiện trước đấy cũng được
gọi là "do vua làm".
124. (c) Chứng có hai
là (i) chứng thế gian, và (ii) siêu thế. Và nó cũng còn
được chia ra ba loại, khi sự chứng ngộ thuộc siêu thế lại
chia làm "thấy" và "tu tập" (kiến đạo và
tu).
125. (i) Ở đây, xúc
thuộc sơ thiền, v.v. như khi một người nói: "Tôi là
người đắc sơ thiền, làm chủ sơ thiền, sơ thiền đã
được chứng với tôi" (Vin. iii, 93) gọi là
"chứng thế gian". "Xúc" là sự tiếp chạm
bởi xúc của trí, bằng kinh nghiệm cá nhân khi đạt đến.
Về ý nghĩa này, chứng ngộ được tóm tắt như sau:
"Liễu tri kể như thực chứng là trí theo nghĩa xúc chạm"
(Ps. i, 87)
[Chú thích: "Bằng
kinh nghiệm cá nhân" có nghĩa là không phải do suy luận]
Và sau đó cũng nói:
"Bất cứ gì thực chứng đều được chạm xúc" (với
trí).
126. Lại nữa, những
pháp nào không được khơi dậy trong tâm tương tục của một
người, mà được biết nhờ trí tùy thuộc một người khác,
cũng được gọi là được thắng trí. Như nói: "Này
các tỷ kheo, tất cả cần phải thắng trí. Và tất cả đó
là gì? Con mắt cần được thắng trí... (Ps. i, 35)
v.v. và sau đó lại nói: "Người nào thấy sắc thắng
trí sắc, người thấy thọ.. tưởng hành.. thức.. thắng
trí thọ tưởng hành thức, người thấy con mắt... già chết
sầu bi... (xem đ 9, Ch.XX) Người thấy khổ... người thấy
Niết bàn bất tử thắng tri Niết bàn. Bất cứ pháp nào
được thắng trí đều được chạm xúc". (Ps. i,35)
127. (ii) Sự thấy Niết
bàn vào sát-na đạo lộ khác, là chứng kể như tu tập. Và
ở đây muốn nói cả hai. Bởi vậy sự thực chứng (thắng
tri) Niết bàn kể như thấy và tu, cần được hiểu là một
nhiệm vụ của trí này.
128. (d) Và hai sự tu tập
được kể: Nhưng sự tu tập lại chia làm hai, là một, thế
gian, hai xuất thế.
(i) Ở đây, sự khơi dậy
giới định tuệ thế gian và ảnh hưởng vào tương mục (tâm)
nhờ cách ấy, là tu tập thuộc thế gian. Và (ii) Sự khơi dậy
giới định tuệ xuất thế và tác động trên tương tục bằng
những pháp ấy, gọi là tu tập xuất thế. Chính sự tu tập
xuất thế là điều muốn nói ở đây. Vì bốn trí này khơi
dậy giới định tuệ siêu thế, là câu sanh duyên cho chúng,
và qua chúng, ảnh hưởng đến tướng tục (tâm). Bởi thế,
chỉ có tu tập siêu thế mới là một nhiệm vụ của trí
ấy. Do vậy, đây là
Các nhiệm vụ liễu
tri, đoạn, chứng tu
được nói khi các chân lý được thâm nhập
mỗi nhiệm vụ cần được nhận rõ
theo tự tánh của nó.
129. Bây giờ, về câu
kệ "Người trú giới có trí, tu tập tâm và tuệ"
(Ch. I, đ.1) trên đây đã nói: "Sau khi đã viên mãn hai
thanh tịnh làm gốc, hành giả có thể tu tập năm thanh tịnh
tức "thân cây" (Ch. XIV, đ 32). Ðến đây chấm dứt
trình bày chi tiết về tu tập tuệ, đúng như cổ nhân đã
lưu truyền.
Như vậy, câu hỏi:
"Tuệ cần được tu tập như thế nào?" đã được
trả lời.
Chương thứ 22 này, gọi
là "Thanh tịnh tri kiến", trong luận về tu tập, thuộc
Luận Thanh tịnh đạo, được soạn thảo với mục đích
làm hoan hỉ các bậc hiền thiện.
---o0o---
Mục lục
| 01 | 02
| 03 | 04
| 05 | 06
| 07 | 08
| 09 | 10
11 |
12
| 13 | 14
| 15 | 16
| 17 | 18
| 19 | 20
| 21 | 22
| 23
---o0o---
|
Thư
Mục Tác Giả |
---o0o---
Source: BuddhaSasana (www.budsas.org)
---o0o---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật ngày: 01-09-2002