- Ðịnh:
Những Ðề Mục Quán Khác Bằng Tùy Niệm
- (Anussati
Kammatthàna- niddesa)
-ooOoo-
Niệm
Chết
1. Bây giờ, ta hãy nói
về sự tu tập niệm chết (tử tưởng) được liệt kê kế
tiếp phần sáu niệm.
Ðịnh
nghĩa
Ở đây, chết (marana)
là sự gián đoạn mạng căn được giới hạn trong một đời
sống. Nhưng chết kể như sự đứt đoạn, nói cách khác sự
chấm dứt cái khổ luân hồi nơi một bậc A-la-hán, thì
không phải là điều muốn nói ở đây, cũng không phải là
cái chết trong chốc lát, cũng không phải cái chết trong nghĩa
thường dùng "như cây chết", "kim loại chết"
v.v...
2. Cái chết muốn nói
ở đây gồm hai loại, nghĩa là cái chết đúng thời hạn
và cái chết phi thời. Ở đây, chết đúng thời xảy đến
cùng sự hết phước đức hoặc hết thọ mạng hoặc hết
cả hai thứ phước và thọ. Chết phi thời là cái chết
xảy ra do cái nghiệp đến gián đoạn sanh nghiệp.
3. Ở đây, cái chết
do hết phước đức là một danh từ để chỉ cái loại chết
xảy đến chỉ do hậu quả của nghiệp đưa đến tái sinh
ở đời trước đã chấm dứt mặc dù những điều kiện
thuận lợi cho sự kéo dài tương tục tính của một đời
có thể đang còn. Cái chết do thọ mạng tận là danh
từ để chỉ loại chết xảy đến do sự chấm dứt thọ mạng
thông thường của con người ngày nay, chỉ gồm một trăm
năm do sự thù thắng về mạng (như Chư Thiên có) hoặc về
thời gian (như đầu một thời kiếp thì có) hoặc về thức
ăn (nhu những Uttarakurù v.v... có). Chết phi thời là
danh từ chỉ cái chết của những người mà tương tục thọ
mạng bị gián đoạn vì nghiệp có khả năng khiến chúng
đoạ (cànava) khỏi vị trí của chúng ngay lúc ấy, như trường
hợp Dùsi- Màra (xem M. i, 337). Kàlaburajà(xem
Jà, iii. 39), v.v... Hoặc chỉ cái chết của những người
mà sự tương tục thọ mạng bị gián đoạn do sự tấn công
bằng khí giới v.v... Vì nghiệp đời trước. Tất cả những
loại chết này được bao gồm dưới sự chấm dứt mạng
căn thuộc loại đã mô tả, Bởi thế Niệm chết là sự nhớ
lại cái chết, nói khác đi, nhớ lại sự gián đoạn mạng
căn.
Tu
Tập
4. Một người muốn tu
tập phép quán này, cần đi vào độc cư và luyện sự tác
ý một cách có trí tuệ như sau: "Chết sẽ xảy đến,
mạng căn sẽ bị gián đoạn", hay: "Chết, chết".
5. Nếu luyện tập sự
tác ý một cách thiếu trí tuệ khi niệm cái chết (có thể
xảy ra) của một người thân thì sầu ưu sẽ sinh khởi,
như khi một người nọ nghĩ đến cái chết của một đứa
con cưng, và niềm hoan hỷ sinh khởi khi nghĩ đến cái chết
c?a một người mình ghét, như khi những người thù nghĩ đến
cái chết của người, và không một ý thức khẩn trương
(sense of urgency) nào khởi lên khi tưởng cái chết của kẻ
không thân không thù, như trường hợp xảy ra nơi một người
thiêu tử thì khi thấy một thấy chết, và sự lo ngại khởi
lên khi tưởng đến cái chết của chính mình, như thường
xảy đến cho một người nhát gan khi thấy một kẻ sát
nhân với cây kiếm.
6. Trong những trường
hợp trên, đều không có chánh niệm, cũng không có ý thức
khẩn trương, cũng không có tri kiến. Bởi thế hành giả
nên nhìn chỗ này chỗ kia, những người đã bị giết hoặc
đã chết, và tác ý đến cái chết của những hữu tình đã
chết mà trước đây mình đã trông thấy chúng hưởng thọ
các lạc, tưởng nghĩ như vậy với chánh niệm, với một
ý thức khẩn trương và với tri kiến, sau đó hành giả có
thể tác ý theo cách đã nói trên: "Cái chết đã xảy
đến" làm như vậy, vi ấy tu tập niệm chết một cách
có trí tuệ. Nghĩa là vị ấy tu tập niệm chết như là một
phương tiện chính đáng.
7. Khi một người tu tập
niệm chết như vậy, thì những triền cái của chúng được
điều phục, niệm được an trú với cái chết làm đối
tượng, và đề mục thiền đạt đến cận hành định.
Tám
Cách Niệm Chết
8. Những người nào nhận
thấy niệm chết không tiến xa đến mức ấy, thì hãy niệm
chết theo tám cách như sau: (1) có sự xuất hiện của một
kẻ sát nhân, (2) sự thành công bị phá sản, (3) So sánh,
(4) Thân thể bị san sẻ với nhiều chúng sinh, (5) Mạng sống
mong manh, (6) Không tướng, (7) sự giới hạn của Không gian,
(8) Sự ngắn ngủi của sát na.
9. 1) Ở đây, "như
thế có sự xuất hiện của một kẻ sát nhân" nghĩa là
vị ấy nên tưởng thế này: "Cũng như một kẻ sát
nhân xuất hiện với cây gươm, nghĩ ta sẽ chặt đầu người
này, rồi kề gươm vào cổ người ấy, cũng vậy, cái chết
xuất hiện như thế". Tại sao? Vì cái chết cùng đến
với sự sinh ra và cái chết đoạt mạng sống.
10. Cũng như những mộc
nhĩ (nấm) luôn luôn mọc lên với bụi trên đầu, các hữu
tình cũng sinh ra mang theo già chết. Vì thức liên hệ đến
tái sinh của chúng đạt đến già ngay khi nó vừa sinh ra, rồi
cũng tan rã với các uẩn liên kết với nó giống như một
tảng đá rơi từ trên đỉnh một mỏm đá. Bởi thế, khởi
dầu là cái chết từng sát na đi liền với sinh. Nhưng cái
chết không thể tránh đối với những gì có sinh, do đó
11. Loại chết muốn
nói ở đây cũng đi liền với sinh. Bởi thế, cũng như mặt
trời mọc di chuyển dần đến lặn và không bao giờ quay trở
lại dù chỉ trong chốc lát, hay như một dòng thác từ núi
cao đổ xuống chảy xiết, luôn luôn tuôn chảy và tiếp tục
đổ tới, không bao giờ quay trở lại dù chỉ trong thoáng
chỗ, cũng vậy, chúng sinh này tuần tự du hành hướng về
cái chết ngay từ khi nó vừa sinh ra không bao giờ quay trở
lại dù chỉ trong chốc lát. Bởi thế có câu:
"Ngay từ lúc một
con người vừa
Tượng hình trong bào thai
Là nó chỉ còn có nước là tiến
Tới trước, không thể dù chỉ một
Lần quay trở lui". (Jà. iv, 494)
Và trong khi nó tiến tới
trước như vậy, cái chết đối với nó càng gần, giống
như dòng sông nhở dần khô cạn dưới nóng mùa hạ, như trái
chín dần đến thời rụng, như bình đất phải vỡ khi lấy
búa đánh vào, như những giọt sương tan biến dưới ánh mặt
trời. Do vậy có câu:
Ngày đêm trôi qua
Mạng sống tàn dần
Cho đến kết thúc
Như sông dần khô
Như trái đã chín
Ðợi kỳ rơi rụng
Cũng thế hữu tình
Khi đã sinh ra
Nơm nớp sợ lo
Cái chết sẽ đến
Như chiếc bình đất
Khi đã nặn ra
Dù lớn dù nhỏ
Dù nung không nung
Ðều phải tan vỡ.
Cũng thế đời người
Dần đến cái chết
Sương đầu ngọn cỏ
Tan dưới mặt trời
Cũng thế đời người
Mong manh hư ảo
Bởi thế, mẹ ơi
Ðừng ngăn cản con (Jà, iv. 122)
13. Bởi vậy cái chết
này, đi kèm với sinh, thật giống như một kẻ sát nhân với
cây kiếm chực sẵn. Và giống như kẻ sát nhân kề gươm vào
cổ, cái chết đoạn mất mạng sống và không bao giờ đem
trở lại mạng sống. Do vậy, cái chết xuất hiện như một
kẻ sát nhân với cây gươm chực sẵn, khi nó đã đi cùng với
sinh và đoạt mất mạng sống, ta phải tưởng đến cái chết
"như dạng một kẻ sát nhân".
14. 2) Như sự thành
công bị phá sản: sự thành công chói sáng bao lâu thất bại
chưa đến thắng lướt nó. Nhưng không có sự thành công
nào mà có thể tồn tại lâu dài không bị thất bại. Do đó:
Vua vui mừng bố thí
một trăm triệu
Sau khi chinh phục toàn cõi đất
Cho đến cuối cùng vương quốc
Của ông chỉ còn
Giá trị không bằng nửa hạt giẻ
Nhưng khi phước đức hết
Xác thân vua thở hơi cuối cùng
Thì vua Asoka mệnh danh là Vô Ưu
Cũng phải thấy ưu sầu khi chạm mặt thần chết".
15. Hơn nữa, mọi sức
khoẻ chấm dứt bằng tật bệnh, mọi tuổi trẻ chấm dứt
bằng già nua, mọi sự sống chấm dứt bằng cái chết. Tất
cả sự tồn sinh trên thế gian đều do sinh mà có, bị già
ám ảnh, bị bệnh tật tấn công thình lình, và bị cái chết
đánh ngã gục.
Như núi đá khổng lồ
Lớn rộng tới trời cao
Tiến đến từ mọi phía
Nghiền nát mọi sinh loài
Già chết nghiền nát hetá
Sát lợi, Bà-la-môn
Thương gia người công nghệ
Tiện dân và hốt rác
Nát hết chẳng chừa ai
Dù tượng quân, xa quân
Bộ quân hay chú thuật
Dù đem cả tài sản
Không đánh được tử thần. (S. i, 102)
Như vậy là cách tưởng
đến cái chết: "như sự phá sản mọi sự nghiệp"
bằng cách định nghĩa cái chết là vố phá sản cuối cùng
của mọi thành công trên đời.
16. 3) Bằng cách so
sánh là so sánh mình với những kẻ khác. Ở đây, chết cần
được tưởng bằng cách so sánh theo 7 hạng: so với hạng
người có danh vọng lớn, công đức lớn, sức mạnh lớn,
thần thông lớn, trí tuệ lớn, với Ðộc giác và với Chư
Phật. So sánh như thế nào?
17. Mặc dù những vị
như Mahàsammata, Mandhàtu, Mahàsudassa, Dakasenki, Nisi v.v...
Thật nổi tiếng vĩ đại có đông đồ chúng, tài sản khổng
lồ, thế mà cuối cùng cái chết cũng tóm lấy họ không thể
tránh thoát, vậy thì làm sao cuối cùng cái chết lại không
đuổi kịp ta?
Cái chết cần được
tưởng niệm như vậy, bằng cách tự ví với những người
có danh vọng lớn.
18. Thế nào là so với
người có công đức lớn?
Jotika, Jotila, Ugga
Nandaka và Punnaka
Cùng với những người khác
Thế gian đều bảo rằng
Họ rất nhiều công đức
Vậy mà họ cũng chết
Huống những kẻ như ta
Như vậy là tưởng cái
chết bằng cách so với những người có công đức lớn.
19. Thế nào là bằng
cách so với người có sức mạnh?
Vàsudava, Baladeva,
Bhìnasona, Yuddhitthila.
Và các Cànura người vật tay
Ðều ở dưới năng lực của tử thần
Họ nổi tiếng khắp thế giới
Là do sức mạnh hùng vĩ
Nhưng họ cũng đi đến cái chết
Huống những người như ta?
Cái chết nên được
tưởng niệm như vậy bằng cách so với những người có sức
mạnh.
20. Thế nào là so sánh
với những người có thần thông?
Vị thứ hai trong số
chư đại đệ tử
Vị thần thông đệ nhứt
Người với đầu ngón chân cái
Lấy được cả lâu vojayanta
Ngay cả người ấy nữa
Với năng lực thần thông
Vẫn rơi hàm thần chết
Như nai vào hàm sư tử
Huống chi đến hạng tôi?
Cái chết nên được
tưởng niệm như vậy bằng cách so với những người có thần
thông lớn.
21. Thế nào là so với
người có trí tuệ lớn?
Thứ nhất trong hai đại
đệ tử
Bậc trí tuệ siêu quần
Mà trừ Ðức Thế tôn ra
Không ai bằng phần mười sáu.
Nhưng dù tuệ căn lớn
Như của Xá lợi phất
Ngài cũng phải rơi vào
Năng lực của tử thần
Nói gì đến như tôi?
Cái chết cần được
tưởng niệm bằng cách so với những bậc có trí tuệ lớn
như trên.
22. Thế nào là bằng
cách so với các bậc Ðộc giác? Ngay các vị nhờ sức mạnh
của tự tri kiến mình và tự tinh tấn lực của mình, phá
tan được tất cả giặc phiền não nhiễm ô và tự mình đạt
giác ngộ, những bậc có thể đứng vững một mình như cái
sừng tê giác, vẫn không thoát khỏi chết. Vậy làm sao ta lại
có thể thoát được?
23. Thế nào là so với
những đức Phật toàn giác? Ngay cả đức Thế tôn, mà sắc
thân được trang hoàng bằng ba mươi hai đại nhân tướng và
tám mươi tướng phụ (xem M. Kinh số 91, và D. Kinh
30), mà pháp thân đã viên mãn về giới uẩn, định uẩn,
tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn, thanh
tịnh về mọi phương diện, đấng siêu việt về danh xưng,
về công đức, về hùng lực, về thần thông, về trí tuệ,
đấng không có ai sánh bằng, đấng ngang bằng với những
đấng không ai sanh bằng, đấng không hai, đấng viên mãn
giác ngộ- ngay đến Ngài cũng thình lình bị dập tắt bởi
trận mưa lũ của cái chết, như một đống lửa lớn bị dập
tắt bởi một trận mưa lũ.
24. Khi hành giả tưởng
niệm cái chết bằng cách tự ví với những người khác,
những người có danh xưng lớn, v.v... Dưới ánh sáng của
tính phổ quát của cái chết, nghĩ rằng "Cái chết sẽ
đến với ta như sẽ đến với những con người đặc biệt
kia", thì khi ấy đề mục quán của hành giả đi đến
cận hành định.
Ðó là cách tưởng niệm
cái chết bằng cách so sánh.
25. 4) Về sự san sẻ
thân xác với nhiều chúng sanh: Cái thân này được nhiều
chúng sinh cộng trú. Trước hết, nó được chia sẻ cho 80
gia đình sâu bọ. Nơi thân này, có các loại chúng sinh sống
bám vào lớp da ngoài, lấy da ngoài làm thức ăn, có những
chúng sinh sống bám vào lớp da trong, lấy da trong làm thức
ăn, những chúng sinh sống bám vào thịt, lấy thịt làm thức
ăn, những chúng sinh sống bám vào gân, lấy gân làm thức
ăn, những chúng sinh sống bám vào xương, lấy xương làm thực
phẩm, những chúng sinh sống bám vào tuỷ, lấy tuỷ làm thực
phẩm. Và tại đấy chúng sinh già, chết, bài tiết phẩn tiểu,
thân thể là nhà bảo sanh của chúng, là dưỡng đường của
chúng, nghĩa địa của chúng, chỗ đại tiện, tiểu tiện của
chúng. Thân thể cũng có thể đi đến chết chóc vì một cuộc
nổi loạn của những sâu bọ này. Không những thân này
được san sẻ với tám mươi gia đình sâu bọ, mà còn san sẻ
với hàng trăm thứ bịnh nội thương và nhiều nguyên nhân
gây ra chết chóc từ bên ngoài như rắn rết, bò cạp,
v.v...
26. Như một cái mục
tiêu dựng lên ở ngã tư đường thì tên nhọn, cọc nhọn,
đá, v.v... Bay tới từ mọi phía và trúng nhằm nó, cũng thế
mọi thứ tai nạn giáng trên thân thể, và nó có thể đi đến
chết chóc do những tai nạn này. Bởi vậy đức Thế tôn
nói: "Ở đây, này các tỷ kheo, khi ngày tàn đêm xuống,
một tỷ kheo suy nghĩ như sau: ta có thể lâm vào chết chóc
bằng nhiều cách. Một con rắn có thể mổ ta, hoặc một
con bò cạp hay con rết có thể đốt ta. Ta có thể chết vì
lý do ấy, hoặc ta có thể vấp ngã, hoặc ta có thể chết
vì trúng thực, vì mật bị đảo lộn, vì đàm bị đảo lộn,
vì phong bị đảo lộn, làm khô những khớp xương của ta
như dao nhọn". (A. iii, 306)
Ðó là cách tưởng niệm
cái chết bằng cách tưởng thân xác là chỗ ở của nhiều
chúng sinh cộng trú.
27. 5) Về sự mong manh
của đời sống: sự sống này bất lực và mong manh. Và đời
sống con người gắn liền với hơi thở, gắn liền với những
uy nghi đi đứng nằm ngồi, gắn liền với lạnh và nóng, gắn
liền với tứ đại, gắn liền với thức ăn.
28. Sự sống chỉ xảy
ra khi hơi thở vào và hơi thở ra có đều đặn. Nhưng khi
hơi gió trong lỗ mũi đã đi ra mà không vào lại, và khi nó
đi vào mà không ra lại, thì khi ấy một con người được
kể là đã chết.
Sự sống cũng chỉ có,
khi bốn uy nghi được điều hoà, khi một trong bốn uy nghi
trội hẳn ba cái kia, thì sự sống bị gián đoạn.
Sự sống cũng chỉ có
khi nóng lạnh điều hoà. Khi quá nóng hoặc quá lạnh thì
con người không thể sống.
Sự sống cũng chỉ xảy
đến khi bốn đại điều hoà. Nhưng với sự rối loạn của
địa đại, ngay cả một người mạnh cũng có thể chết nếu
thân thể trở nên cững đờ, hoặc bị rối loạn một
trong bốn đại khởi từ thuỷ đại, nếu thân thể trở
nên mềm nhũn và thối vì tiêu chảy v.v... Hay nếu thân bị
một cơn sốt hoành hành, hay nếu nó bị cắt đứt những
đường gân nối các khớp xương (xem Ch. XI, 102)
Và sự sống cũng chỉ
xảy ra nơi một người được thực phẩm đúng thời, nếu
không được ăn, thì hết sống.
Ðây là cách tưởng chết
trong sự mong manh của đời sống.
29. 6) Vô tướng: nghĩa
là không định đoạt được (bất định). Nghĩa là cái chết
không thể đoán trước được. Với tất cả chúng sanh
thì:
Tuổi thọ, bệnh tật,
thời gian, nơi chốn
Thân xác này được đặt xuống số phận;
Thế gian không bao giời biết được những điều này
Không có dấu hiệu gì báo trước những sự kiện ấy.
30. Ở đây, trước hết
thọ mạng không có tướng vì không thể định đoạt
những điều sau: phải sống chừng ấy thời gian, không nhiều
hơn. Vì hữu tình chết vào nhiều giai đoạn khi còn là bào
thai, vào giai đoạn như sữa đông (kalala) vào giai đoạn
abbuda, pessi, ghana, vào lúc một tháng, hai tháng, ba
tháng, bốn tháng, năm tháng, mười tháng, và vào lúc ra khỏi
bụng mẹ. Sau đó hoặc chúng chết trước năm mươi tuổi
hoặc sau năm mươi tuổi.
31. Bệnh không
có tướng vì không thể định như sau: các hữu tình chỉ
chết vì bệnh này, không chết vì bệnh nào khác. Chúng sinh
thường chết vì đủ thứ bệnh khởi từ bệnh mắt,
tai.... (xem A. v, 110)
32. Thời gian không
có tướng vì không thể định đoạt rằng ta phải chết vào
lúc này, không vào lúc nào khác. Vì các hữu tình có thể
chết bất cứ vào thời khoảng nào, sáng hay trưa v.v...
33. Nơi chốn thân xác
sẽ được đặt xuống cũng không có tướng, bởi vì không
thể định rằng, khi người ta chết, chúng phải để thây
của chúng nằm xuống tại chỗ này, không chỗ nào khác.
Vì người sinh trong làng có thể chết để thây ở ngoài
làng, người sinh ngoài làng, có thể chết để thây trong
làng. Cũng thế, có kẻ sinh ra trên nước mà chết để thây
trên đất, có kẻ sinh ra trên đất, chết để thân trên nước.
Tương tự nhiều cách.
34. Số phận cũng không
tướng vì không thể định rằng một kẻ chết chỗ kia phải
tái sinh tại chỗ này. Vì có người chết từ thiên giới
mà tái sinh ở cõi người, có người chết ở nhân gian mà
tái sinh ở cõi trời v.v... Và với cách ấy thế giới xoay
vần, chúng sinh xoay chuyển trong năm sanh thú (cõi) như con bò
được gắn vào một cái máy.
Ðây là tưởng đến cái
chết vô tướng
35. 7. Giới hạn của
đời người: cõi người ngày nay có giới hạn ngắn ngủi.
Một người sống lâu cũng chỉ sống trên dưới một trăm
tuổi. Do đó đức Thế tôn nói: "Này các tỷ kheo, đời
người ngắn ngủi. Có đời sống mới phải đi đến, có
các nghiệp thiện phải làm, có đời phạm hạnh phải được
sống. Ðối với cái gì đã sinh ra, không có chuyện không
chết. Người nào sống lâu cũng chỉ sống trên dưới một
trăm năm.
Loài người thọ mạng
ngắn
Bậc trí phải âu lo
Lữa cháy đầu, hãy sống
Tử vong rồi phải đến (S. i. 108)
Ðức Thế tôn lại
nói: "Hỡi các tỷ kheo, ngày xưa có một bậc đạo sư
tên Araka.." (A. iv. 136) toàn thể kinh này cần
được dẫn với bảy ví dụ.
36. Và Phật còn dạy
thêm: "Này có Tỳ kheo, khi một Tỳ kheo tu tập niệm chết
như sau: Mong rằng ta sống ngày và đêm tác ý đến lời dạy
của Thế tôn như vậy ta đã làm nhiều". Một vị
khác: "Mong rằng ta sống trọn ngày tác ý đến lời dạy
của Thế tôn. Như vậy ta đã làm nhiều". Một vị
khác nữa: "Mong rằng trong thời gian một bữa ăn, ta sống
tác ý đến lời dạy của Thế tôn. Như vậy ta đã làm nhiều".
Và một vị nữa tu tập niệm chết như sau: "Mong rằng
ta sống trong khoảng thời gian nhai và nuốt bốn năm miếng,
tác ý đến lời dạy của Thế tôn. Như vậy ta đã làm nhiều".
Ðây là những tỷ kheo trú phóng dật, giải đãi tu tập niệm
chết để phá trừ lậu hoặc.
37 "Và này các tỷ
kheo, khi một tỷ kheo tu tập niệm chết như sau: Mong rằng
ta sống thời gian nhai nuốt một miếng ăn, tác ý đến lời
dạy của Thế tôn, như vậy ta đã làm nhiều". Khi một
tỷ kheo tu tập niệm chết như sau: "Mong rằng ta sống
khoảng thời gian hơi thở vào ra, hay trong khoảng thời gian
hơi thở ra vào, tác ý đến lời dạy của Thế Tôn, như vậy
ta đã làm nhiều". Ðây gọi là những tỷ kheo trú trong
tinh cần, sắc bén tu tập niệm chết để đoạn diệt các
lậu hoặc". (A. iii. 305-6)
38. Cuộc đời quả thật
ngắn ngủi đến độ không chắc nó có kéo dài trong khoảng
kịp nhai nuốt bốn hay năm miếng.
Ðây là niệm chết bằng
cách tưởng đến thời khắc ngắn ngủi.
39. 8) Về tánh cách ngắn
ngủi trong sát-na: Nói cho cùng, đời sống chúng sanh vô
cùng ngắn ngủi chỉ trong khoảng một niệm. Như cái bánh
xe, khi lăn chỉ lăn trên một điểm và khi nghỉ cũng chỉ
nghỉ trên một điểm (điểm tiếp giáp với mặt đất),
cũng thế, đời sống của chúng sinh chỉ kéo dài trong khoảng
một niệm. Khi niệm ấy qua đi, chúng sinh ấy được coi
như đã chấm dứt, như lời trích dẫn sau đây: "Trong một
niệm quá khứ nó đã sống, khi ấy nó không có mặt trong
hiện tại, mà cũng không có trong vị lai. Trong một niệm vị
lai nó sẽ sống, khi ấy nói không có mặt trong hiện tại
hay quá khứ. Và trong niệm hiện tại, nó đang sống, thì
nó không có mặt trong quá khứ hay vị lai.
"Sự sống con người,
lạc khổ,
Chỉ những thứ này
Họp lại trong một niệm thoáng qua
Các uẩn đã diệt của những
Người đã chết hay còn sống
Ðều giống nhau, một đi không trở lại
Không có thế giới sanh
Nếu ý thức không sanh
Khi ý thức có mặt,
Thì thế giới tồn tại
Khi ý thức tan rã,
Thế giới chết;
Theo ý nghĩa tuyệt đối
Là như vậy".
Trên đây là niệm chết
theo nghĩa sự ngắn ngủi trong sát na.
Kết Luận
40. Khi hành giả tưởng
niệm bằng một trong tám cách nói trên, tâm vị ấy đạt
được chánh niệm an trú với chết là đối tượng, những
triền cái bị áp đảo, và những thiền chi xuất hiện.
Nhưng vì đối tượng
ở đây là những trạng thái mang tính chất cá biệt và sẽ
làm khởi dậy ý thức cấp bách, nên thiền này không đạt
đến định an chỉ mà chỉ đến định cần hành. Bây giờ,
với sự tu tập đặc biệt, thiền siêu thế và các thiền
vô sắc thứ hai và thứ tư có thể đạt đến định ngay cả
với những trạng thái có tính chất cá biệt. Vì thiền
siêu thế đạt định nhờ thiền tu dần dần các thanh tịnh,
còn các thiền vô sắc thì đạt định nhờ vượt qua đối
tượng (xem Chương X) vì ở đây, trong hai thiền vô sắc, chỉ
có sự vượt qua đối tượng thiền đã đạt định. Nhưng
ở đây, trong tưởng về cái chết thuộc về thế gian, thì
không cả hai thứ kể trên bởi thế chỉ đạt định cần
hành. Và cần hành định ấy được gọi là "tư tưởng"
vì được khởi lên từ phương pháp ấy.
41. Một tỷ kheo niệm
chết luôn luôn tinh cần tinh tấn. Vị ấy được sự không
tham luyến đối với bất cứ loại hiện hữu nào. Vị ấy
chinh phục được sự bám víu vào đời sống. Vị ấy thống
trách ác pháp và tránh tích trữ nhiều. Vị ấy không bị cấu
uế của lòng tham bốn vật dụng. Vô thường tưởng dần dần
phát triển trong tâm vị ấy, và theo sau đó là tưởng về
khổ và vô ngã. Trong khi những chúng sinh chưa tu tập tư tưởng
thường là nạn nhân của hãi hùng, kinh sợ, bối rối vào
lúc chết, như thể thình lình bị dã thú vồ, bị ma quỷ bắt,
rắn mổ, kẻ cướp hay sát nhân sấn tời, thì người tu tập
niệm chết ngược lại chết một cách tỉnh giác không vọng
tưởng, vô uý, không rơi vào bất cứ một tình trạng nào
như trên. Và cho dù không đạt đến bất tử ngay trong hiện
tại, ít ra vị ấy cũng hướng đến một cõi tốt đẹp
khi thân hoại mạng chung.
Người thực sự có
trí
Thì công việc thường xuyên
Là tưởng niệm cái chết
Có năng lực phi thường
Trên đây là đoạn nói
về niệm chết với giải thích chi tiết.
Thân Hành Niệm
42. Bây giờ đến phần
mô tả sự tu tập thân hành niệm kể như đề mục thiền,
một pháp tu chưa hề được công bố trước khi Ðấng Ðại
Giác xuất hiện, vượt ngoài lãnh vực của ngoại đạo. Pháp
môn ấy đã được đức Thế tôn ca tụng bằng nhiều
cách, trong nhiều kinh như: "Này các tỷ kheo, có một
pháp này, được tu tập, được làm cho sung mãn đưa đến
cảm hứng lớn, lợi ích lớn, an ổn lớn khỏi các khổ
ách, chánh niệm tỉnh giác, đưa đến chứng đắc tri kiến,
đưa đến hiện tại lạc trú, đưa đến chứng ngộ minh và
giải thoát. Một pháp ấy là gì? Chính là thân hành niệm".
(A i, 43). Và: "Hỡi các tỷ kheo, ai thưởng thức
thân hành niệm người ấy nếm vị bất tử, ai không thưởng
thức thân hành niệm người ấy không được nếm vị bất
tử". Trong quá khứ, những ai đã nếm vị bất tử đều
đã thưởng thức thân hành niệm. Những ai đã được pháp
thân hành niệm, chính họ đã tìm thấy bất tử" (A.
i, 45). Pháp này đã được mô tả trong 14 phần trong đoạn
kinh bắt đầu như sau: "Này các tỷ kheo, thế nào là
thân hành niệm được tu tập, được làm cho sung mãn có quả
báo lớn, có lợi lạc lớn? Ở đây, này tỳ kheo, vị tỷ
kheo đi đến khu rừng..." (M. iii, 89) Mười bốn
chương đó là những chương nói về hơi thở, về thế ngồi,
về các loại tỉnh giác, về pháp quán bất tịnh, quán tứ
đại, và về chín pháp quán tử thi trên nghĩa địa.
43. Ở đây, ba đoạn nói
về thế ngồi, về bốn loại tỉnh giác và về quán tứ đại,
thuộc tuệ. Chín đoạn về quán nghĩa địa đề cập đến
giai đoạn đặc biệt của tuệ gọi là quán nguy hiểm. Và
bất cứ sự tu tập định nào đối với thi thể phình trương,
v.v... Bao hàm ở đây, đều được giải thích trong phần
Quán Bất Tịnh (chương VI). Vậy chỉ còn hai đoạn thuộc
định là đoạn nói về hơi thở và sự hướng tâm đến vẻ
gớm ghiếc (quán bất tịnh). Trong hai đoạn này, đoạn nói
về hơi thở là một niệm đề mục thiền định riêng, gọi
là Niệm Hơi Thở.
Kinh Văn
44. Những gì ở đây
muốn nói về thân hành niệm, chính là 32 uế vật. Ðề
này được gọi là sự hướng tâm đến vẻ gớm ghiếc của
thân thể như sau: "Lại nữa, này các tỷ kheo, một vị
tỷ kheo quán sát thân này, từ dưới bàn chân trở lên cho
đến đỉnh tóc, bao bọc bởi da và chứa đầy những vật
bất tịnh sai biệt. Trong thân này, đây là tóc, lông, móng,
răng, da, thịt, gân, xương, thận, tuỷ, tim, gan, hoành cách
mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, phân, mật, đàm, niêm
dịch, mủ, máu, mồ hôi, mỡ nước mắt, mỡ da, nước miếng,
nước mũi, nước ở khớp xương, nước tiểu". (M.
iii, 90). Não dược bao gồm trong tuỷ, nên đây ta chỉ thấy
có 31 vật.
45. Sau đây là mô tả
sự tu tập dần dần bằng một luận giải về bản kinh.
Giải Thích danh từ
Thân này:
là cái thân làm bằng bốn đại chủng này. Dưới từ bàn
chân trở lên: từ các gót chân trở lên. Trên cho đến
đỉnh tóc xuống; từ phần cao nhất của ngọn tóc đi
xuống. Bao bọc bởi da: toàn thể xung quanh được kết
thúc bằng da. Chứa đầy những vật bất tịnh sai biệt:
vị ấy quán sát thân này đầy những bất tịnh thuộc đủ
loại bắt đầu là tóc. Quán như thế nào? "Trong thân
này, có tóc, lông, nước tiểu".
46. Ở đây, có nghĩa là
được tìm thấy ở đấy. Trong thân này, là cái được
diễn tả như sau: "Dưới từ bàn chân trở lên, trên từ
đỉnh tóc trở xuống, và được bao bọc bởi da, là chứa
đầy những vật bất tịnh sai biệt". Thân:
"cái xác. Xác người được gọi là thân (kàaya)
vì đó là nơi tập hợp những dơ uế, vì những vật xấu
xa (kucchita) như tóc, v.v... Và trăm thứ bệnh khởi đầu
là bệnh về mắt, đều do thân làm nguồn gốc (àya).
Tóc, lông: Những vật này khởi đầu bằng tóc, lông
gọi là 32 uế vật. Câu văn ở đây cần được hiểu như
sau: "Trong thân này có tóc, trong thân này có lông".
47. Khắp thần thể hơn
một thước này, từ gót chân trở lên từ đỉnh tóc trở
xuống, và từ khắp nơi trên da, không ai đã từng tìm được
một chút gì đẹp đẽ, dù chỉ bằng hạt bụi, chẳng hạn
chút ngọc trai, ngọc bích, pha lên, xa cừ, trái lại, chỉ
tìm thấy đủ thứ hôi hám ghê tởm bất tịnh là tóc,
lông... Nước tiểu".
Trên đây là luận giải
về kinh văn.
Sự Tu Tập
48. Một thiện nam tử
muốn tu tập đề mục thiền này phải đi đến một thiện
tri thức như đã mô tả (Chương III, đoạn 61-73) để học
pháp môn ấy. Và bậc thầy nào chỉ dẫn cách tu cho vị ấy
cần bảo vị ấy bảy điều thiện xảo trong việc tu học
và mười điều tốt đẹp trong sự chú ý.
Bảy Thiện Xảo
Trong Sự Học
Ở đây, bảy thiện xảo
trong tu học cần được nói rõ như sau: (1) thuộc lòng trên
ngôn từ, (2) thuộc lòng trong tâm, (3) biết rõ màu sắc, (4)
hình dáng, (5) phương hướng, (6) định xứ (7) giới hạn.
49. 1) Ðề mục quán
này cốt chú ý đến khía cạnh ghê tởm. Dù hành giả có
là Tam Tạng pháp sư đi nữa, sự thuộc lòng từ ngữ vẫn
phải học khi bắt đầu chú ý đến đề mục. Vì đề mục
chỉ trở thành rõ rệt cho vị ấy nhờ học thuộc lòng, như
đối với hai vị thượng toạ học đề mục này với trưởng
lão Mahadeeva ở xứ đồi (Malaya). Khi hai vị này
xin Trưởng lão một đề mục thiền quán, Trưởng lão đã
cho bản văn 32 uế vật, bảo: "Hãy học chỉ một cái
này trong bốn tháng". Mặc dù hai vị này người thì
thông hai tạng, người thông ba tạng, vậy mà bốn tháng sau
họ mới chứng quả dự lưu nhờ tụng đọc và hiểu rõ bản
văn. Bởi thế, bậc thầy khi giảng đề mục thiền cần phải
bảo môn đệ tụng đọc cho thuộc trước.
50. Khi học, nên chia từng
nhóm năm "tóc, lông". Và sau khi đọc "tóc,
lông, móng, răng, da". Hãy đọc ngược lại" da,
răng, móng, lông, tóc".
51. Kế đến với nhóm năm kế tiếp, sau khi đọc
"thịt, gân, xương, tuỷ thận" vị ấy phải đọc
ngược lại "thận, tuỷ, xương, gân, thịt".
52. Kế tiếp, với
nhóm năm "phổi v.v... Sau khi đọc tim, gan, hoành cách
mô, lá lách, phổi ", vị ấy phải đọc ngược lại là
" Phổi, lá lách, hoành cách mô, gan, tim, thận, tủy, xương,
gân, thịt, da, răng, móng, lông, tóc".
53. Kế tiếp, với
nhóm năm "não..." sau khi đọc "ruột non, ruột
già, màng ruột, phân, não". Hành giả đọc ngược chiều
"não, phân, màng ruột, ruột già, ruột non, phổi, lá
lách, hoành cách mô, gan, tim, thận, tuỷ, xương, gân, thịt,
da, răng, móng, lông, tóc".
54. Kế tiếp với nhóm
sáu "mỡ.." sau khi đọc: "mật, đàm, mủ, máu,
mồ hôi, mỡ" hành giả đọc ngược chiều: "mỡ, mồ
hôi, máu, mủ, đàm, mật não, phân, màng ruột, ruột già,
ruột non, phổi lá lách, hoành cách mô, gan, tim, thận, tuỷ,
xương, gân, thịt, da, răng, móng, lông, tóc".
55. Kế tiếp, với
nhóm sáu: "nước tiểu..." sau khi đọc: "nước
mắt, nước mũi, nước miếng( bọt), nước mủ, nước khớp
xương, nước tiểu". Hành giả đọc ngược chiều
"nước tiểu, nước khớp xương, nước mủ, nước bọt,
nước mũi, nước mắt, mỡ, mồ hôi, máu, mủ, đàm mật,
não, phân, màng ruột, ruột già, ruột non, phổi, lá lách,
hoành cách mô, gan, tim, thận, tuỷ, xương, gân, thịt, da, răng,
móng lông tóc.
56. Hành giả phải đọc
thuộc lòng như vậy một trăm lần, ngàn lần, hay cả trăm
ngàn lần. Vì chính nhờ đọc như vậy mà đề mục thiền
định thành quen thuộc, tâm khỏi tán loạn, các phần trở
nên rõ rệt như những ngón tay hay như những cọc hàng rào.
57. 2) Sự nhẩm đọc
trong tâm cũng cần thiết như đọc ra tiếng, vì sự đọc
thành tiếng là một điều kiện giúp cho sự thuộc lòng
trong tâm, và sự nhẩm trong tâm là một điều kiện để thâm
nhập tính chất bất tịnh.
58. 3) Về màu sắc:
màu sắc tóc v.v... cần được định rõ.
4) Về hình dáng: hình
dáng các vật ấy cũng thế, cần định rõ.
5) Phương hướng: trong
thân này, từ rốn trở lên gọi là hướng trên, từ rốn
trở xuống gọi là hướng dưới. Bởi thế phương hướng
được định rõ như sau: "Phần này ở về hướng này".
6) Ðịnh xứ: chỗ ở
nhất định của thân phần này hay khác cần định rõ như
sau: phần này được an lập ở chỗ này.
59. 7) Giới hạn: có
hai cách định giới hạn, là định giới hạn của phần
ấy bằng cách nói rõ nó được giới hạn trên dưới, xung
quanh bằng cái này. Hoặc định bằng cái khác với nó như:
tóc không phải là lông, và lông không phải là tóc.
60. Khi dạy về thiện
xảo trong sự học bằng bảy cách như thế, vị thầy nên
biết trong những kinh nào đề mục thiền định này được
giảng giải theo quan điểm bất tịnh, và trong kinh nào được
giảng giải theo quan điểm bốn đại. Vì trong kinh Ðại niệm
xứ (D. 22) các phần được trình bày trên khía cạnh
bất tịnh. Trong kinh Tượng Tích dụ (M. 28), kinh Giáo
giới Rahula (M. 62) và Giới phân biệt (M. 140)
các phần được trình bày dưới khiá cạnh tứ đại. Tuy
nhiên trong kinh Thân hành niệm (M. 119), bốn thiền được
giải thích liên hệ đến một vị mà đề mục thiền này
đã xuất hiện với vị ấy như một Kasina màu
sắc (xem Chương III). Ở đây khi giảng đề mục này là tứ
đại, thì đó là thiền quán và khi giảng là bất tịnh
thì đó là một đề mục về tịnh chỉ. Do đó ở đây
bàn về nó như là một đề mục định.
Mười Thiện Xảo
Về Sự Chú Tâm
61. Sau khi dạy bảy thiện
xảo trong học tập, vị thầy cần nói về mười thiện xảo
trong việc chú tâm như sau (1) về thứ tự, (2) không quá
nhanh, (3) không quá chậm (4) tránh phân tâm, (5) vượt qua khái
niệm, (6) về sự từ bỏ liên tục, (7) về định, (8-10) về
ba bản kinh.
62. 1) Ở đây, về
thứ tự: là từ khi bắt đầu học thuộc, cần phải chú
ý theo dõi thứ tự không bỏ sót. Khi một người không giỏi
leo trèo lên một cái thang có ba mươi hai nấc mà cứ leo hai
nấc một, thì thân thể vị ấy sẽ mệt mỏi và phải té
trước khi tới đỉnh, cũng thế, một người chú tâm trên
32 phần mà bỏ sót thì tâm sẽ mệt mỏi và không hoàn tất
sự tu tập, vì vị ấy không đạt được sự thoả mãn cần
phải đạt nhờ tu tập thành công.
63. 2) Khi chú tâm trên
đề mục thiền này bằng cách theo dõi thứ tự từng nhóm,
hành giả không nên làm quá nhanh. Vì cũng như người
khởi hành cuộc hành trình ba dặm, dù vị ấy đã đi về cả
trăm lần một cách mau chóng song nếu không chú ý những
khúc quanh cần tránh ho?c phải theo, thì vị ấy vẫn cứ phải
hỏi cách làm sao để đến đích. Cũng vậy, khi thiền giả
chú tâm đến đề mục, đề mục vẫn không trở nên rõ rệt
hoặc đem lại sự phân minh nào. Bởi vậy, hành giả không
nên chú tâm đề mục quá nhanh.
64. 3) Ngược lại,
cũng không quá chậm. Ví như một người muốn đi một
cuộc hành trình ba dặm đường trong một ngày, mà dọc đường,
vị ấy cứ lang thang thơ thẩn trong rừng cây, hốc đá, ao
hồ, v.v... Thì không thể hoàn tất cuộc hành trình trong một
ngày mà phải hai ba ngày mới đến đích, cũng vậy, nếu hành
giả chú tâm quá lâu trên đề mục, vị ấy không đến
được cùng đích, và không thể làm cho đề mục trở nên
rõ rệt.
65. 4) Tránh phân tâm:
Hành giả phải tránh đi ra ngoài đề mục thiền và để tâm
bị phân tán trong những đối tượng bên ngoài. Vì cũng
như một người đi trên đường dốc đứng chỉ rông bằng
bàn chân, mà cứ nhìn dáo dác khắp nơi không để ý từng
bước một, thì có thể té xuống vực sâu trăm trượng bên
dưới. Cũng vậy khi hành giả tán tâm ra ngoài đề mục, thì
việc thiền định bị thối thất.
66. 5) Về sự vượt
qua khái niệm: khái niệm danh từ, bắt đầu bằng
"tóc, lông" cần phải được vượt qua, và ý thức
cần được an trú ở khía cạnh "bất tịnh" ghê tởm
của nó. Vì cũng như một người tìm ra lỗ nước trong rừng
vào mùa đại hạn, treo tại đó một cái gì làm dấu như một
tàu dừa, để người ta đến tắm, uống nước nhờ sự chỉ
dẫn của dấu hiệu. Nhưng khi con đường đã trở nên quá
rõ nhờ sự đi lại thường xuyên, thì không cần gì đến
dấu hiệu nữa, người ta cứ đến uống và tắm rửa khi cần.
Cũng thế, tính cách đáng tởm đã hoá ra quá rõ trệt với
hành giả trong lúc vị ấy chú tâm trên đối tượng nhờ
phương tiện danh từ "tóc, lông" thì cuối cùng vị
ấy phải vượt qua khái niệm, danh từ ấy, mà chỉ trú
tâm trên khía cạnh bất tịnh thực sự mà thôi.
67. 6) Về sự lần lượt
loại bỏ: Trong khi chú tâm, hành giả cuối cùng nên bỏ
ra ngoài những phần nào không hiện rõ. Khi một người mới
tu tập chú tâm đến tóc, sự chú ý của vị ấy tiếp tục
đi đến những phần khác cho đến cuối cùng là nước tiểu
rồi ngưng tại đấy, và khi hành giả chú tâm đến nước
tiểu, sự chú tâm của vị ấy tiếp tục cho đến lúc trở
lại tóc và ngưng tại đây. Trong khi vị ấy cứ tiếp tục
chú tâm như vậy, thì một số phần hiện rõ còn một số
không rõ. Hành giả nên tiếp tục chú tâm trên những phần
hiện rõ cho đến khi có một cái rõ nhất, và khơi dậy sự
xác định bằng cách chú tâm nhiều lần trên cùng một phần
đã hiện rõ như thế.
68. Ví như một thợ
săn đang bắt một con khỉ sống trong một cụm rừng có ba
mươi hai cây dừa, và vị ấy bắn mũi tên xuyên qua tàu dừa
của cây đầu tiên và hét lên một tiếng, con khỉ cứ thế
nhảy từ cây này qua cây khác cho tới khi nó tới cây cuối
cùng, và khi thợ săn cũng bắn tên đến đó thì nó chạy
ngược trở lại, đến cây đầu tiên, Sau nhiều lần bị
theo dõi như vậy, cuối cùng con khỉ nhảy đến vịn vào
tàu dừa của cây chặn giữa, và không nhảy nữa dù có bị
tên bắn. Ở đây cũng vậy.
69. Ba mươi hai uế vật
trong thân ví như 32 cây dừa. Con khỉ dụ cho tâm ý. Hành giả
như người thợ săn. Tâm hành giả chú trên đối tượng của
32 phần ấy cũng như sự cư trú của con khỉ trong rừng với
ba mươi hai cây dừa. Sự chú tâm của hành giả trên từng
phần liên tục ví như con khỉ nhảy từ cây này sang cây
khác cho đến cuối và trở lại. Trong khi chú tâm trên các
phần ấy, một số hiện rõ một số không rõ. Hành giả
liên tục hướng sự chú tâm vào những phần hiện rõ và bỏ
ra ngoài những phần không rõ, cũng như con khỉ lúc bị săn
đuổi nhảy lên từ chỗ có tiếng hét. Cuối cùng, hành giả
chú tâm trên phần hiện rõ nhất trong hai phần còn lại,
và nhờ vậy đắc định, cũng như con khỉ cuối cùng dừng
lại trên một tàu dừa, bám lấy nó và không nhảy nữa dù
có bị bắn.
70. Và đây là một ví
dụ khác. Ví như có một người ăn đồ khất thực đi đến
sống gần một khu làng có 32 nhà, và khi vị ấy được hai
phần bố thí tại một nhà đầu tiên, vị ấy bỏ nhà gần
đó, và hôm sau khi được ba phần bố thí tại nhà đầu tiên,
vị ấy bỏ ra hai nhà kế tiếp, và ngày thứ ba vị xin được
đầy bát tại nhà đầu tiên, bèn đi đến nhà ăn để ăn.
71. 32 uế vật cũng
như khu làng có 32 nhà. Hành giả ví như người ăn đồ khất
thực. Công việc chú ý ban sơ của vị ấy ví như hiền giả
đi đến sống gần làng. Vị tiếp tục chú ý hai phần cuối
cùng hiện rõ, bỏ ngoài những phần không rõ, giống như
người khất thực được hai phần ăn tại nhà đầu tiên,
bỏ ra ngoài một nhà, và ngày hôm sau người ấy được ba
phần ăn tại nhà đầu tiên, bỏ ra ngoài hai nhà. Sự khơi
dậy định bằng cách chú ý liên tục trên đối tượng hiện
rõ nhất trong hai cái còn lại, giống như người khất thực
xin được đầy bát tại nhà đầu tiên trong ngày thứ ba, rồi
đến nhà để ăn.
72. 7) Về định: định
từng phần một. Ở đây muốn nói, phải được hiểu là
định phát sinh trong mỗi một phần.
73. 8-10) Về ba bản
kinh: là những kinh về tăng thượng tâm, (chỉ cho thiền), về
sự mát mẻ, và về những thiện xảo trong những giác chi,
mục đích của chúng là liên kết tâm lực và định lực.
74. 8) Ở đây, bản
kinh này nên hiểu là đề cập đến tăng thượng tâm:
"Này các tỷ kheo, một tỷ kheo chuyên tu tập tăng thượng
tâm thỉnh thoảng cần tác ý ba tướng. Thỉnh thoảng vị
ấy nên tác ý tướng định, thỉnh thoảng vị ấy nên tác
ý tướng tinh tấn, thỉnh thoảng nên tác ý tướng xả. Nếu
một tỷ kheo tu tập tăng thượng tâm mà chỉ tác ý tướng
định, thì tâm vị ấy dễ đi đến giải đãi. Nếu một tỷ
kheo tu tập tăng thượng tâm mà chỉ tác ý tướng tinh tấn,
thì khi ấy tâm vị ấy dễ đi đến trạo cử. Nếu một tỷ
kheo tu tập tăng thượng tâm mà chỉ tác ý tướng xả, thì
tâm vị ấy không có thể tập trung đúng mức để diệt trừ
lậu hoặc. Nhưng này các tỷ kheo, một khi tỷ kheo muốn tu
tập tăng thượng tâm mà cứ thỉnh thoảng tác ý tướng định,
thỉnh thoảng tác ý tướng tinh tấn, tỉnh thoảng tác ý tướng
xả, thì tâm vị ấy trở nên nhu nhuyễn, dễ sử dụng,
trong sáng không dễ vỡ tan, đủ tập trung để diệt trừ lậu
hoặc.
75. "Này các tỷ
kheo, như một người thợ vàng thiện xảo hay đệ tử người
thợ vàng sửa soạn lò bệ, đốt lò và đổ vào đấy vàng
thô để luyện, thì vị ấy thỉnh thoảng thụt bể, thỉnh
thoảng rưới nước, thỉnh thoảng ngồi canh chừng. Nếu
người thợ vàng ấy chỉ có một bề thụt ống bệ, thì
vàng sẽ nguội lạnh, và nếu chỉ ngồi nhìn mãi, thì vàng
không được tôi luyện đúng mức. Nhưng nếu vị ấy thỉnh
thoảng thụt bể, thỉnh thoảng rưới nước, thỉnh thoảng
ngồi canh chừng, thì vàng sẽ trở nên nhu nhuyễn, dễ sử
dụng, sáng không dễ vỡ, và vàng ấy trở nên dễ uốn nắn,
muốn làm đồ trang sức như dây chuyền, vòng kiềng cổ đều
làm được.
76 Cũng vậy, này tỷ
kheo, có ba tướng mà tỷ kheo tu tập tăng thượng tâm cần
phải thỉnh thoảng tác ý.. Thì tâm vị ấy trở nên nhu
nhuyễn dễ sử dụng và tập trung đúng mức để diệt trừ
lậu hoặc. Vị ấy đi đến khả năng chứng đắc bất cứ
trạng thái nào có thể chứng đắc nhờ tuệ (direct
knowledge) vị ấy mong muốn" (A. i. 256)
77. 9) Bản kinh này đề
cập đến sự mát mẻ "Này các tỷ kheo, khi một tỷ
kheo có sáu pháp, thì có thể đạt đến sự mát mẻ tối
thượng. Gì là sáu pháp? Ở đây, này các tỷ kheo, khi tâm
cần được chế ngự, vị ấy chế ngự tâm, Khi tâm cần
được nỗi lực, vị ấy tinh tấn, khi tâm cần được khuyến
khích, vị ấy khuyến khích, khi tâm cần được nhìn với xả,
vị ấy nhìn tâm với xả. Vị ấy quyết định đạt đến
tăng thượng tâm, vị ấy ái lạc niết bàn. Có sáu pháp
này, một tỷ kheo có thể đạt được sự mát mẻ tối thượng".
(A. iii, 435)
78. 10) Thiện xảo về
các giác chi: xả được đề cập trong phần giải thích thiện
xảo về định (Ch. IV, 51-57) trong đoạn bắt đầu "Này
các tỷ kheo, khi tâm đang giải đãi, thì không phải lúc để
tu tập khinh an giác chi..." (S.v, 113)
79. Bởi thế thiền giả
cần hiểu rõ bảy thiện xảo này trong việc học và mười
thiện xảo trong việc chú tâm để học đề mục thiền định
một cách thích nghi.
Khởi Sự Tu Tập
80. Nếu người học có
thể ở trong cùng một tu viện với thầy, thì vị ấy
không cần phải xin giải thích chi tiết nhưng sau khi vị ấy
đã nắm vững đề mục và khởi sự tu tập thì có thể
xin giải thích từng giai đoạn một đến khi đạt đến sự
phân biệt rõ (distinction). Một người muốn đi sống
nơi khác để tu tập thì lại khác. Vị ấy cần phải xin
giảng giải đề mục một cách chi tiết như đã nói trên,
và phải đảo qua đảo lại nhiều lần, giải tất cả nghi
vấn. Vị ấy phải từ bỏ một trú xứ thuộc loại không
thích hợp như đã tả ở phần biến xứ đất, để đến
sống tại một trú xứ thích hợp, rồi vị ấy phải từ bỏ
những chướng ngại nhỏ (Chương IV, đoạn 20) và khởi sự
công việc chuẩn bị cho sự tác ý đến tướng bất tịnh.
32 Uế Vật: Bàn về
chi tiết
81. Khi khởi sự, hành
giả trước hết hãy nắm giữ học tướng ở đối tượng
tóc. Cách nào? Màu sắc cần phải được định rõ trước
hết bằng cách nhổ ra một hai sợi tóc đặt trên lòng bàn
tay. Vị ấy cũng có thể nhìn tóc ở nơi chỗ hớt tóc hay
trong một bát nước hay bát cháo. Nếu những sợi tóc vị
ấy thấy là màu đen, trong lúc nhìn thấy, thì hãy nhớ
trong tâm là "đen" nếu màu trắng thì nhớ là
"trắng", nếu màu lẫn lôn, thì hãy nhớ màu nào nổi
nhất. Và cũng như trường hợp tóc, tất cả năm món khởi
từ tóc cần phải được nắm lấy tướng bằng sự nhìn
như vậy.
82. Sau khi học được
tướng như thế rồi, và (a) định rõ tất cả những thân
phần khác theo màu sắc, hình dáng, phương hướng, định
xứ, giới hạn của nó, hành giả kế đó (b) hãy định tính
ghê tởm của nó bằng năm cách, là màu sắc, hình
dáng, xuất xứ và chỗ ở của nó (habitat and location)
83. Sau này là giải
thích về tất cả các thân phần theo thứ tự.
Tóc
(a) Trước hết tóc
bình thường có màu đen, màu của hột aritthaka tươi.
Về hình dáng, hình ống dài. Về phương hướng, chúng ở
phía trên. Về xuất xứ của chúng, chúng ở trong lớp da
sát lớp da bao bọc cái sọ, giới hạn về hai phía bởi hai
vành tai, ở trước bằng cái trán, và ở sau bằng cái gáy.
Về cách định giới ranh của nó, tóc có ranh ở dưới là
bề mặt của chính những chân tóc, được mắc dính vào đầu
bằng cách vào sâu cỡ chừng bằng hạt thóc vào làn da
trong bọc lấy cái sọ. Những sợi tóc có giới ranh phía
trên là hư không, về xung quanh là tóc, không có hai sợi
tóc cùng một nơi. Ðây là định giới hạn của tóc bằng
chính tóc. Tóc không phải là lông, lông không phải là tóc,
cũng vậy tóc không phải lẫn lộn với 31 phần còn lại
trong thân, tóc là một phần riêng biệt. Ðây là cách định
ranh giới bằng sự so sánh với các phần khác. Như vậy gọi
là định nghĩa tóc về phương diện màu sắc v.v...
84. (b) Ðịnh nghĩa tóc
về phương diện bất tịnh, đáng ghê tởm, theo sáu cách
nghĩa là theo màu sắc, v.v... Là như sau. Tóc đáng tởm về
màu sắc cũng như về hình dáng, mùi cũng như xuất xứ và
chỗ ở của nó.
85. Vì khi thấy màu của
một sợi tóc trong một bát cơm, người ta tởm và bảo
"Cơm này có tóc! Hãy vứt sợi tóc đi!" Bởi vậy,
nó đáng tởm về màu sắc. Cũng vậy khi người ta ăn
cơm trong bóng tối ban đêm, người ta cũng lợm nếu có cảm
giác ăn nhằm một sợi tóc, vậy là tóc càng đáng tởm về
hình dáng.
86. Còn cái mùi
tóc, nếu không bôi dầu thơm, tẩm nước hoa, v.v... thì lại
càng tởm hơn, nhất là khi đốt cháy khét. Mặc dù tóc
không đáng tởm một cách trực tiếp về phương diện màu
sắc và hình dáng, thì cái mùi của nó cũng đáng tởm một
cách trực tiếp. Như phân của đứa trẻ có màu vàng như
nghệ, hình dáng như của nghệ, màu sắc và hình dáng này
không có gì đáng tởm nên nói rằng về màu sắc không trực
tiếp đáng tởm, song về cái mùi của phân thì đáng tởm một
cách trực tiếp.
87. Nhưng cũng như rau mọc
ở nương rãnh dơ dáy... Trong một làng đối với người đô
thị văn minh thật đáng tởm và không thể dùng, tóc cũng
đáng tởm vì nó mọc trên mảnh da gồm mủ, máu, phân, tiểu,
mật, đàm v.v... Ðây là khía cạnh đáng tởm của xuất xứ
của tóc.
88. Và tóc mọc trên đống
gồm 31 thứ bất tịnh kia cũng như nấm mọc từ một đống
phân. Do bởi chúng mọc trong chỗ dơ dáy, tóc thật hoàn
toàn khó ngửi cũng như rau mọc trên nghĩa địa, trên đống
phân v.v... Như sen mọc trong lỗ cống. Ðây là khía cạnh đáng
tởm của xuất xứ.
89. Và cũng như trường
hợp tóc, tính chất bất tịnh đáng tởm của tất cả các
phần tử khác cũng cần được định rõ (b) theo năm cách
là màu sắc, hình dáng, mùi, chỗ ở và xuất xứ. Tuy nhiên
tất cả phải được định rõ từng cái một (a) do màu sắc
hình dáng, phương hướng xuất xứ và giới hạn như sau:
Lông
90. Ở đây, trước hết,
về màu sắc tự nhiên, thì lông không hoàn toàn đen như tóc,
mà nâu đen. Về hình dáng, lông có hình rễ cây dừa với
cái đầu cong xuống. Về phương hướng chúng gồm cả hai hướng.
Về xuất xứ, trừ chỗ tóc đã mọc, và trừ lòng bàn tay,
bàn chân, ngoài ra lông mọc ở phần lớn chỗ phần da còn
lai bao bọc thân thể. Về giới hạn, lông được giới hạn
bên dưới là chân lông, trên là hư không, và xung quanh là
những lông khác. Không có hai sợi lông cùng mọc một chỗ.
Ðây là định giới hạn bằng cái đồng, nhưng sự định
giới hạn bằng cái khác với nó, thì giống như trường hợp
tóc.
[Ghi chú: hai câu cuối
này được lập lại ý chót ở cuối đoạn mô tả mỗi
phần. Chúng không được lập lại trong bản dịch Anh ngữ].
Móng
91. Móng là tên gọi chỉ
hai mươi cái móng tay chân. Chúng đều có màu trắng. Về
hình dáng, chúng có hình vảy cá. Về phương hướng thì
móng chân ở hướng dưới, móng tay ở hướng trên. Vậy
móng ở cả hai hướng. Về xuất xứ, chúng được gắn chặt
trên lưng đầu các ngón tay, ngón chân. Về ranh giới, chúng
được giới hạn ở hai phía bởi thịt của đầu ngón,
phía trong bằng thịt của lưng ngón, phía ngoài và đầu ngón
bằng hư không, và xung quanh bằng chính móng. Không có hai
móng cùng nhau.
Răng
92. Có ba mươi hai cái
răng khi một con người đầy đủ răng. Răng cũng màu trắng.
Về hình dáng thì răng có nhiều hình dáng, trước hết, bốn
cái răng giữa ở hàm dưới có hình hột bí sắp thành một
hàng trông rất bén, hai cái răng ở hai bên chúng có một
cái chân răng và một đầu nhọn và có hình hoa lài, và kế
đó mỗi bên là một cái răng có hai chân răng và hai đầu
nhọn và có dáng của cái càng xe (waggon prop) rồi đến
mỗi bên hai cái răng có ba chân răng và ba đầu nhọn, rồi
đến mỗi bên hai cái nữa với bốn cái chân răng và bốn
đầu nhon. Hàm trên cũng thế. Về phương hướng, răng ở
phần trên, Về xuất xứ răng được mắc vào xương hàm, Về
ranh giới, thì rằng được giới hạn bằng bề mặt của
chính những chân răng, những chân này được mắc vào xương
quai hàm. Phía trên răng được giới hạn bằng hư không,
và xung quanh bằng những răng khác.
Da
93. Da trong bao bọc
toàn thân, da ngoài có màu nâu, đen hoặc vàng, nếu toàn thể
da trên thân được gom lại thì chỉ còn bằng một cái hột
xoài. Do trong màu trắng, màu này rõ rệt nhất là khi lớp
da ngoài bị trầy vì bỏng hay vì một cú đấm v.v...
94. Hình dáng của da
chính là hình dáng của chính thân thể, nói gọn. Nhưng nếu
nói chi tiết thì da các ngón chân giống hình cái kém con tằm
trên lưng bàn chân, da có hình chiếc giày bít. Da của bắp
chân có hình mo cau gói cơm bới, da ở trên vế có hình một
đãy dài chứa đầy gạo lúa, da nơi mông đít có hình một
miếng vải lọc nước đang chứa đầy nước, da trên lưng
có hình cái lốt da thứ được căng trên tấm ván, da ở bụng
có hình tấm da thú trải trên một chiếc đàn bầu, da trên
ngực có hình gần như hình vuông, da ở hai cánh tay có hình
tấm da thú trải trên cái đẩy đựng tên, da lưng bàn tay
có hình cái hộp đựng dao cạo hay hộp đựng lược chải
đầu, da các ngón tay có hình một cái cổ kiềng vòng quanh
cuống họng, da mặt có hình dáng một cài tổ sâu bọ đầy
những lỗ hổng, da đầu có hình dáng một cái đãy đựng
bát.
95. Thiền giả khi phân
biệt về da thì trước hết phải định rõ lớp da trong bao
bọc cái mặt, ý thức tuần tự, tác ý ở khắp cái mặt
khởi đầu bằng môi trên, kế đó, làn da trong của xương
trán. Kế tiếp, hành giả cần định rõ da trong của cái đầu,
tách rời da trong với xương sọ bằng cách để ý thức xen
vào giữa xương sọ và da trong của đầu, như thế khi ta thọc
tay vào khe hở giữa cái bao và cái bát đựng trong bao, kế
tiếp, da trong của vai. Kế tiếp là da trong ở cánh tay mặt
phía trước và sau, và tương tợ với da trong của cánh tay
trái. Kế đó sau khi định rõ da trong của lưng, hành giả
nên định rõ da trong của ống chân phải phía trước và
sau, và da trong của ống chân trái cũng như vậy. Kế đó,
da trong của hàm dưới kế tiếp da trong của cổ, hành giả
chấm dứt khi tới môi dưới. Khi hành giả phân biệt một
cách đại cương theo cách ấy, da cũng trở thành rõ rệt đối
với hành giả.
96. Về phương hướng,
da ở cả hai hướng. Về trú xứ, da bao bọc toàn thân. Về
ranh giới, da được giới hạn ở dưới bằng mặt trong dính
với thịt, và ở trên bằng hư không...
Thịt
97. Có chín trăm mảnh
thịt. Về màu sắc, thịt toàn đỏ như màu hoa kimsuka.
Về hình dáng, thịt ở bắp chân giống hình cơm gói trong
mo cau. Thịt ở bắp vế có hình cái chày đá, ở mông thịt
có hình dáng cái đáy lò. Thịt ở lưng có hình dáng một tảng
đường thốt nốt. Thịt giữa hai xương sườn có hình
dáng một lớp vôi hồ trét mỏng. Thịt ở ngực có dáng một
cục đất sét nặn thành một trái banh rồi nén xuống. Thịt
ở hai cánh tay trên giống hình con chuột lớn gầy.
98. Khi phân biệt như vậy,
thịt trở nên rõ rệt đối với hành giả. Về phương hướng,
thịt ở cả hai hướng. Về trú xứ, thịt được trét khắp
trên ba trăm cái xương. Về ranh giới, thịt có giới hạn
ở phía dưới là tiết diện của nó gắn liền với tập
thể xương, ở trên giới hạn bởi da, và xung quanh bởi những
miếng thịt khác.
Gân
99. Có chín trăm cái
gân. Về màu sắc, tất cả gân đều màu trắng. Về hình
dáng, gân có nhiều hình dáng khác nhau. Vì sợi gân lớn
liên kết thân hình lại thì khởi đầu từ phần phái trên
của cái cổ và đi xuống phía trước, và năm sợi nữa đi
xuống sau lưng, năm sợi qua phải và năm sợi qua trái. Và
trong số những sợi gân liên kết bàn tay phải 5 sợi đi xuống
phía trước tay và 5 phía lưng bàn tay. Cũng vậy đối với
bàn tay trái. Trong những sợi gân nối liền bàn chân phải
năm sợi xuống phía trước, năm sợi xuống phía lưng bàn
chân... Cũng vậy với bàn chân trái. Như vậy có sáu mươi
sợi gân lớn gọi là "những đường gân chống đỡ thân
thể" đi từ cổ xuống và liên kết cơ thể lại, tất
cả những gợi gân này đều có hình những đọt rau muống.
Còn có những sợi khác rải rác khắp những thân phần
khác nhưng nhỏ hơn sáu mươi sợi này. Cúng có hình dáng những
sợi dây đàn. Lại có những sợi khác nhỏ hơn, hình dáng
dây leo, và nhỏ hơn nữa hình sợi chỉ thô. Những sợi
trên lưng bàn tay bàn chân có hình dáng những cái móng vuốt
của con chim. Những sợi gân trong dầu có hình dáng cái lưới
bao đầu trẻ. Còn ở lưng có hình dáng một cái lưới ướt
trải ra để phơi. Những sợi gân còn lại, chạy dọc theo
các thân phần, có hình dáng một cái áo bằng lưới mắc vào
cơ thể.
100. Về phương hướng,
gân ở hai hướng. Về trú xứ, gân nối liền tất cả những
cái xương trong cơ thể lại với nhau. Về ranh giới, phía dưới
gân được giới hạn bằng tiết diện của nó, được mắc
vào ba trăm cái xương, và phía trên, gân được giới hạn
bằng những phần tiếp xúc với thịt và da trong, xung quanh
gân được giới hạn bằng những sợi gân khác.
Xương
101. Trừ 32 cái răng,
xương gồm có sáu mươi bốn đốt xương tay, 64 đốt
xương chân, 64 xương sụn phụ thuộc vào thịt, hai xương gót
chân, ở mỗi ống chân có hai xương mắt cá, hai xương ống
chân một xương đầu gối, một xương vế, hai xương háng,
18 xương sống, 24 xương sườn (12 đôi xương sườn), 14
xương ngực, một xương ức, 2 xương cổ, 2 xương bả vai,
2 xương cánh tay, 2 cặp xương cánh tay ngoài, 7 xương cổ, 2
xương hàm, 1 xương mũi, 2 xương mắt, 2 xương tai, 2 xương
trán, 1 xương chẩm, 9 xương sinciput. Như vậy là đúng 300 xương.
Về màu sắc, xương toàn trắng.
102. Về hình dáng, xương
có hình thù khác nhau. Xương cùng của những ngón chân thì
có hình dáng hột kataka. Những đốt xương kế tiếp
những xương cùng ấy có hình hột mít, những xương ở gốc
ngón chân có hình những cái trống nhỏ. Những cái xương
ở trên lưng bàn chân có hình một bó cọng rau bị bầm, xương
gót chân có hình hạt cau.
103. Những xương mắt
cá có hình 2 hòn bi cột lại với nhau. Những xương đùi tại
chỗ tựa của chúng trên xương mắt cá, nếu để cả da thì
có hình chồi cây sindi, xương cùi chỏ có hình cây
cung trẻ con chơi. Xương đùi lớn có hình cái lưng của một
con rắn khô. Xương bánh chè có hình một khối bọt mà một
mặt đã tan ra. Tại chỗ xương đùi tựa vào xương bánh
chè, nó có hình dáng một cái sừng bò bị nhụt. Xương vế
có hình dáng một cái rìu vụng đẽo. Chỗ xương vế dính
liền với xương háng thì có hình dáng một trái banh. Trong
xương háng, ở chỗ xương vế được gắn vào là hình
dáng một trái punnàga bị cắt ở đầu.
104. Hai xương háng nếu
cột lại với nhau, có dáng cái lò của thợ gốm để riêng
từng cái một thì có dáng cái búa thợ rèn. Xương mông ở
đầu mút có hình dáng cái mồng con rắn lật ngược lại.
Nó có 7, 8 lỗ hổng. Những đốt xương sống bên trong có
hình dáng những ống bằng chì chồng lên nhau, bên ngoài cố
dáng một chuổi tràng hạt. Chúng có 2 hay 3 hàng những cái
lòi ra nằm cạnh nhau giống như những cái răng cưa.
105. Trong số 24 xương
sườn, những cái xương bất toàn có hình dáng những cây gươm
cụt, còn những cái xương toàn vẹn có hình dáng những
gây gươm nguyên lành. Nhìn chung cả bộ xương sườn, nó giống
đôi cánh dang ra của một con gà trống màu trắng. 14 cái xương
ngực có hình dáng của một cái khung xe cũ, xương ức có
hình dáng cái muỗng. Những xương cổ có hình dáng những
cán dao nhíp.
106. Những xương bả
vai có hình dạng cái lưỡi cày ở Tích lan bị mòn một
phía. Xương cánh tay trong có hình dáng cái cây dừa sinh đôi.
Xương cườm tay có dáng những ống chì dính liền nhau. Xương
lưng bàn tay có hình dáng một bó rau cọng bị bầm dập. Về
những ngón tay thì xương ở góc ngón có dạng những cái trống
nhỏ, những xương giữa ngón có dáng những hột mít còn xương
ở đầu ngón có dáng những hột kataka.
107. 7 xương cổ có
hình dáng những vòng bằng cây tre xâu lại với nhau trên một
cái gậy. Xương hàm dưới có dáng cái dụng cụ thợ rèn (ring
fastening). Xương hàm trên có dáng cây dao róc mía. Xương
ở 2 lỗ mắt và lỗ mũi có dáng những trái cau đã bỏ hột
Xương trán có hình dáng cái chén làm bằng vỏ sò lật úp.
Xương ở chỗ khăn bịt đầu được quấn ngang qua, ở phía
trên xương bánh cong lên. Xương chẩm có dáng một trái dừa
méo mó với đầu lủng lỗ.
108. Xương sinciput có
dáng một cái dĩa làm bằng trái bầu khô khâu lại bằng những
mũi kim may. Về phương hướng, chúng ở cả hai hướng. Về
trú xứ, chúng ở khắp thân thể. Nhưng dặc biệt ở đây,
xương đầu tựa trên xương cổ, xương cổ tựa trên xương
sống, xương sống tựa trên xương mông, xương mông tựa
trên xương vế, xương vế tựa trên xương đầu gối,
xương đầu gối tựa trên xương ống chân, xương ống chân
tựa trên xương mắt cá, xương mắt cả tựa trên xương bàn
chân. Về ranh giới, xương được giới hạn bên trong bằng
tuỷ, trên bằng thịt, đầu xương và chân xương bằng những
cái xương khác.
Tủy
109. Ðây là chất tuỷ
ở trong xương. Về màu sắc tuỷ có màu trắng. Về hình
dáng, tuỷ ở trong mỗi cái xương có hình dáng một cây
mía thấm ướt độn vào ruột một ống tre. Tuỷ ở trong mỗi
xương nhỏ có hình dáng một cây mía thấm ướt độn trong
một cành tre. Về phương hướng, tuỷ nằm cả hai hướng.
Về trú xứ, nó nằm ở trong xương. Về ranh giới, nó được
giới hạn bởi mặt trong của cái xương...
Thận
110. Ðây là hai miếng
thịt được nối lại bởi một đường duy nhất. Về màu
sắc, thận có màu đỏ sẩm, màu của hột pàlibaddhaka.
Về hình dáng, nó có dáng một cặp banh chơi của trẻ con
hoặc dáng hai trái xoài dính vào một cái cọng duy nhất. Về
phương hướng, nó ở hướng trên. Về trú xứ, nó nằm hai
bên quả tim, được buộc bằng một sợi gân lớn xuất
phát từ dưới cổ và tách ra làm hai sau khi đi một đoạn
ngắn. Về ranh giới, thận được giới hạn bằng cái gì
thuộc về thận...
Tim
111. Ðây là khối thịt
tim. Về màu sắc, nó có màu của cái lưng cuả cánh hoa sen
đỏ. Về hình dáng, nó có hình một cái chồi hoa sen bỏ những
cánh ngoài rồi lật ngược lên. Phía ngoài nó láng, bên
trong giống như mặt của một trái bầu loofah. Ở nơi
người có trí tuệ, trái tim hơi rộng, nơi người không
trí tuệ, nó chỉ mới là một cái chồi. Bên trong có một
lỗ hổng bằng hột punnàga ở đây một lượng
máu bằng nửa pasata được cất chứa, với máu
này làm điểm tựa, tâm đại và thức đại phát sinh.
112. Máu của người có
tánh tham thì màu đỏ, tánh sân thì màu đen, tánh si thì giống
như nước rửa thịt, máu ở nơi người có tánh suy nghĩ
nhiều thì giống canh đậm màu, máu người có tánh tín nhiều
gióng màu vàng hoa kanikàra, máu người tánh tuệ thì
trong sáng, không vẩn đục, thuần tịnh như một viên ngọc
rửa với nước trong sạch, và nó như chói sáng.
113. Về phương hướng,
nó nằm ở hướng trên. Về trú xứ, nó ở giữa hai vú
phía trong thân thể. Về ranh giới, tim được giới hạn bởi
cái gì thuộc về tim...
Gan
114. Ðây là hai lá thịt.
Về màu sắc, nó có màu nâu hơi đỏ. Màu như cái bề lưng
không quá đỏ của những cánh hoa súng trắng. Về hình
dáng, nó có một góc hai đầu giống như hình lá kovitàra.
Nơi người ngu đần, nó chỉ có một lá và lớn, nơi người
có trí tuệ, có hai hay ba lá nhỏ. Về phương hướng, gan
ở phía trên. Về trú xứ gan ở bên mặt, phía trong kể từ
hai vú. Về ranh giới nó được giới hạn bởi cái gì thuộc
về gan.
Hoành Cách Mô
115. Ðây là cái bao của
thịt, gồm hai loại, đóng và không đóng. Về màu sắc, cả
hai loại đều màu trắng, màu như miếng giẻ mosselin. Về hình
dáng, nó có hình dáng của trú xứ nó. Về phương hướng,
hoành cách mô đóng được tìm thấy ở cái bọc
ngoài tim và thận, hoành cách mô không đóng được tìm
thấy bao bọc thịt dưới lớp da trong ở khắp cơ thể. Về
ranh giới, nó được giới hạn ở dưới bởi thịt, trên bởi
da trong và xung quanh bởi cái gì thuộc về hoành cách mô...
Lá Lách
116. Ðây là miếng thịt
giống cái lưỡi ở nơi bụng. Về màu sắc, nó có sắc
xanh của hoa niggundi. Về hình dáng, nó có dáng cái lưỡi
trâu, to bằng bảy ngón tay. Về phương hướng, nó ở phía
trên. Về trú xứ, nó ở gần phía bụng trên, bên trái của
tim, khi bị thương lòi lá lách ra, thì mạng sống của một
sinh vật chấm dứt. Về ranh giới, nó được giới hạn bởi
cái gì thuộc về lá lách.
Phổi
117. Phổi được chia làm
hai hoặc ba mảnh thịt. Về màu sắc, nó có màu đỏ, màu của
trái sung chưa chín lắm. Về hình dáng, nó có hình một lát
bánh dày được cắt không đều. Phía bên trong phổi lạt lẽo
và thiếu chất dinh dưỡng, như một miếng rơm đã nhai rồi,
bởi vì nó bị ảnh hưởng của sức nóng của hoả đại
do nghiệp sanh, hoả này bốc lên mỗi khi có nhu cầu ăn uống.
Về phương hướng, thì nó ở trên. Về trú xứ, nó được
tìm thấy bên trong thân thể giữa hai vú, treo lơ lửng trên
tim và gan, và che khuất hai cái này. Về ranh giới, nó được
giới hạn bởi cái gì thuộc về phổi...
Ruột
118. Ðây là cái ống
ruột được cuộn lại hai mươi mốt khúc dài 32 bàn tay đối
với đàn ông, và 28 bàn tay đối với đàn bà. Về màu sắc,
nó có màu trắng như hồ vôi trộn lẫn cát. Về hình dáng,
nó giống như con rắn đứt đầu cuộn lại đặt trong một
cái máng đầy cả máu. Về phương hướng, ruột ở cả hai
hướng về trú xứ, ở phía trên nó được gắn liền với
ống dẫn thức ăn, và dưới thì gắn liền với ống dẫn
phân (hậu môn), như vậy ruột nằm trong thân thể suốt từ
giới hạn yết hầu đến hậu môn. Về ranh giới, ruột
được giới hạn bởi cái gì thuộc về ruột...
Trực Tràng
119. Ðây là chỗ buộc
chặt tại những nơi ruột cuộn lại. Về màu sắc, nó có
màu trắng như rễ sen ăn được, và hình dáng cũng như những
ngó sen ấy. Về phương hướng, nó ở cả hai hướng. Về
trú xứ, nó được tìm thấy ở trong 21 cuộn ruột, như những
sợi dây kết những vành dây thừng lại với nhau để chùi
chân. Nó buộc những cuộn ruột lại với nhau để chúng khỏi
tuột xuống khi người ta làm việc nặng với cày bừav.v...
Hệt như sợi dây nơi cái máy bừa đất buộc chặt tấm ván
bừa đặt vào cái máy, mỗi khi máy được kéo đi trên ruộng
để bừa đất, trước khi gieo lúa. Về ranh giới, trực
tràng được giới hạn bởi những gì thuộc về trực
tràng.
Bao Tử
120. Ðây là những gì
đã được ăn, uống, nhai, nếm và đang có mặt ở trong dạ
dày. Về màu sắc, nó có màu của thức ăn đã được nuốt
vào. Về hình dáng, nó có dáng một túi vải buộc lơi lỏng
chứa cơm bên trong. Về phương hướng nó nằm hướng trên.
121. Về trú xứ, nó
ở trong dạ dày. Cái được gọi dạ dày là một phần của
màng ruột, nó giống như một tấm vải ướt dài được vặn
hết nước ở hai đầu, ở giữa căng phồng lên với không
khí bên trong. Bên ngoài dạ dày láng lẩy, nhưng bên trong,
nó giống cái bong bóng vải bị dơ vì gói cặn bả thịt,
hoặc là giống bên trong của một cái vỏ trái mít thối.
Ðó là nơi những dòi trùng sống lúc nhúc như rừng: ba
mươi hai gia đình những sán lãi như lãi kìm, lãi đũa
v.v... Khi nào không có ăn uống gì vào, chúng nhảy lên kêu
gào và vồ lấy thịt ở quả tim, còn khi có thức ăn uống
được nuốt vào, thì chúng chờ đợi với những cái mồn
ngóc lên, tranh nau giật lấy hai ba miếng nuốt xuống đầu
tiên. Dạ dày vừa là nhà bảo sanh, vừa là nhà xí. Vừa
là bệnh viện, và nghĩa trang của những con trùng này. Hệt
như vào thời hạn hán, bỗng có một trận mưa, thì những
gì được nước cuốn vào cống rãnh ở cổng của một khu
làng hạ tiện, nghĩa là đủ thứ dơ dáy như nước tiểu,
phân, những mảnh da, xương gân, cũng như đờm, dãi máu
v.v... Những thứ ấy trộn lẫn với nhua cùng với bùn và nước
đã được tụ ở đây, rồi hai ba ngày sau những quyến thuộc
sâu bọ xuất hiện, những thứ ấy lên men, được hâm
nóng bởi sức nóng mặt trời, nên sủi bọt lên trên, đen
ngòm hôi hám và ghê tởm đến nổi người ta không thể
nào tới gần, hay nhìn vào đó, huống chi là ngữi và nếm.
Cũng vậy, dạ dày là nơi mà đủ thứ thức ăn uống lọt
vào sau khi được nghiền bởi cái chày răng, được đảo
qua đảo lại bằng cái bàn tay của lưỡi, được làm dính
vào nhau bằng đờm và nước miếng, lúc đó nó đã mất hết
màu sắc hương vị, để khoát lấy bộ mặt của đống hồ
thợ đệt, và của đồ chó mữa, để rồi được nhúng
trong mật, đàm, phong đã tụ ở đấy, và nó lên men do năng
lực của sức nóng trong bao tử, sôi sục theo bầy sán dòi,
sủi bọt ở trên mặt cho đến khi nó biến thành một thứ
phân uế, hoàn toàn thối tha nôn mửa, chỉ cần nghe nói tới
cũng đủ làm người ta hết muốn ăn uống, chứ đừng nói
gì đến nhìn nó bằng con mắt tuệ. Và khi đồ ăn uống
rơi vào dạ dày, chúng được chia thành năm phần: sán lãi,
vi trùng một phần, lửa bao tử đốt cháy hết một phần,
một phần biến thành nước tiểu, một phần nữa thành
phân, phần cuối cùng mới biến thành dưỡng chất, bồi bổ
máu thịt v.v...
122. Về ranh giới, nó
được giới hạn bằng cái bọc chứa và bởi những gì thuộc
bao tử.
Phân
123. Về màu sắc, phân
có màu của đồ ăn được ăn vào. Về hình dáng, đó là
hình dáng của trú xứ nó. Về phương hướng, nó ở hướng
dưới. Về trú xứ, phân được tìm thấy trong chỗ chứa
các đồ ăn đã tiêu hoá, hậu môn.
124. Hậu môn là phần
thấp nhất ở cuối ruột, nó nằm giữa lỗ rốn, và chỗ
tận cùng của xương sống lưng. Nó có chiều dài 8 đốt
tay và giống như một cái ống tre. Như nước mưa rơi từ
chỗ cao chảy xuống chỗ thấp, và ngừng tại đấy, cũng vậy,
chỗ chứa đồ ăn đã tiêu hoá là nơi mà bất cứ thức
ăn uống gì đã rơi vào chỗ chứa đồ ăn chưa tiêu, đã
được nấu chín và làm cho sôi sục với sức nóng của bao
tử, và đã trở nên mềm nhuyễn như thể được xay trong cối
đá, sẽ chảy xuống qua những lỗ ruột và nó được ép lại
ở đấy cho đến khi trở thành đông đặc như đất sét
nâu tộng vào ống tre, ở đó nó nằm lại.
125. Về ranh giới, nó
được giới hạn bởi chỗ chứa thức ăn đã tiêu hoá và
bởi những gì thuộc về phân...
Não
126. Ðây là những cục
tuỷ được tìm thấy ở trong xương sọ. Về màu sắc, nó
có màu trắng như thịt của một cái nấm (mộc nhĩ) có thể
bảo nó có màu sữa quậy lên, nhưng chưa đông thành ván sữa.
Về hình dáng, nó có hình dáng của trú xứ, nó được tìm
thấy trong sọ như bốn cục bột nhồi sắp gần nhau theo hình
dạng bốn phần ráp của chiếc sọ. Về ranh giới, nó được
giới hạn bởi mặt trong của sọ và những gì thuộc về
não...
Mật
127. Có hai thứ mật: mật
tại chỗ và mật luân lưu. Ở đây về màu sắc, mật trong
túi mật có màu dầu đặc madhuka, mật luân lưu có màu hoa àhulì
đã héo. Về hình dáng, cả hai thứ mật đều có hình dáng
củ trú xứ nó. Về phương hướng, túi mật thuộc hướng
trên, còn mật luân lưu thì cả hai hướng. Về trú xứ, mật
luân lưu rải ra như một giọt dầu trên mặt nước khắp
châu thân trừ tóc, lông, rằng, móng, những nơi không thịt
và những chỗ da khô cứng. Khi mật này bị xáo trộn, thì
mắt vàng, co giật, thân thể run rẩy và ngứa ngáy. Túi mật
nằm cạnh lá gan ở giữa tim và phổi, có hình dáng như trái
Kosàtaki. Khi túi mật bị xáo trộn, sinh vật nổi điên
khùng, mất hết tầm quý và làm những việc bình thường nó
không thể làm, nói lời mà thường nó không nói, suy nghĩ
những điều bình thường nó không nghĩ. Về ranh giới, mật
được giới hạn bởi những gì thuộc về mật...
Ðàm
128. Ðàm ở trong thân
thể ước lượng một tô đầy. Về màu sắc, nó có màu trắng
của nước lá cây nàgabàla vắt ra. Về hình dáng, nó
có hình dáng trú xứ của nó. Về phương hướng, nó ở
trên. Về trú xứ, nó được tìm thấy trên mặt của màng
ruột. Giống như rong rêu màu xanh đọng trên mặt nước rẽ
ra, khi có cái gậy hay que thọc vào trong nước, nhưng rồi dán
lại như cũ. Cũng thế, khi ăn uống vào, lúc thức ăn uống
lọt xuống bao tử, lớp đàm này rẽ ra rồi dán lại. Nếu
đàm yếu, thì bao tử trở nên hôi hám ghê tởm như mùi
phân hay mùi trứng thối miệng ợ ra và toát ra mùi trứng
thối dâng lên từ bao tử, làm cho người ấy phải bị nói:
"Ði đi miệng thối lắm". Nhưng khi đàm này nhiều,
thì nó giữ cho mùi thối ấy nằm dưới mặt bao tử, giống
như cái nắp đậy một thùng phân. Về ranh giới, nó được
giới hạn bởi những gì thuộc về đàm...
Mủ
129. Mủ được phát
sinh do máu bị thối. Về màu sắc nó có màu của lá trở
màu trắng bạc, nhưng ở thây chết, nó có màu cháo đặc bị
thiu. Về hình dáng, nó có hình dáng chỗ ở của nó. Về
trú xứ, thì mủ không có chỗ ở nhất định, nó được tìm
thấy ở chỗ nào nó tu lại. Mỗi khi máu bị đọng ứ lại,
và thối tại một thân phần nào do bị thương tích, bị
gai đâm hay bị cháy v.v... Hay chỗ có mụt nhọt xuất hiện,
thì có thể tìm thấy mủ tại đấy. Về ranh giới, nó được
giới hạn bởi cái gì thuộc về mủ...
Máu
130. Có hai loại máu:
máu được tích trữ và máu lưu động. Về màu sắc, máu
tích trữ có màu dùng dịch lạc (sữa) đông đặc đã nấu,
máu lưu động có màu dung dịch lạc trong sáng. Về hình
dáng, cả hai thứ đều có dáng của trú xứ máu. Về phương
hướng, máu tích trữ thuộc về hướng trên, máu lưu động
thuộc cả hai hướng. Về trú xứ, trừ tóc, lông, móng ra,
những nơi không có thịt và những chỗ da khô cứng, còn
thì máu lưu thông khắp toàn thân ngũ thủ uẩn bằng cách
chạy theo một mạng lưới tĩnh mạch (đường gân máu).
Máu tích trữ chứa đầy phần dưới lá gan khoảng một
chén đầy và bằng cách toé ra từng lúc khi một ít lên
tim, thận và phổi, nó giữ cho thận, tim, gan, và phổi thấm
ướt. Khi nó không thấm ướt thận, tim v.v... thì sinh vật
đâm ra khát nước. Về ranh giới, nó được giới hạn bởi
những gì thuộc về máu...
Mồ Hôi
131. Ðây là thuỷ đại,
chất nước rỉ ra từ những lỗ chân lông. Về màu sắc,
nó có màu của dầu mè trong. Về hình dáng, nó có dáng của
trú xứ nó. Về phương hướng, nó thuộc cả hai hướng. Về
trú xứ, không có trú xứ nhất định cho mồ hôi, nó được
tìm thấy khắp nơi cũng như máu. Nhưng nếu thân thể bị
nóng, do sức nóng của lửa hay mặt trời hay bởi sự thay
đổi nhiệt độ v.v... Thì mồ hôi tiết ra từ tất cả những
lỗ chân lông và chân tóc, như khi cắt những cọng sen hoặc
bông súng lôi ra khỏi nước, chúng rỉ nước ra. Bởi thế
hình dáng của mồ hôi nên được hiểu là tương đương với
lỗ chân tóc và lỗ chân lông. Hành giả khi phân định mồ
hôi chỉ nên chú ý đến mồ hôi như khi nó đang nằm đầy
cả lỗ chân lông và chân tóc. Về ranh giới, nó được giới
hạn bởi cái gì thuộc về mồ hôi...
Mỡ
132. Ðây là một chất
dầu bóng dày đặc. Về màu sắc, nó có màu của gừng cắt
ra từng lát mỏng. Về hình dáng, ở nơi người to béo nó
có dáng như những miếng giẻ màu vàng nhạt đặt giữa da
trong và thịt. Ở thân thể người gầy, mỡ có hình dáng
những miếng giẻ đặt hai ba lớp trên tịt đùi, thịt bắp
vế, thịt lưng cạnh xương sống và thịt bao quanh bụng. Về
hướng, nó ở cả hai hướng. Về trú xứ, mỡ tràn lan khắp
thân thể một người béo mập. Ở người gầy, mỡ được
tìm thấy nơi bắp chân.... Mặc dù ở trên, nó được mô tả
là "láng bóng" nhưng nó cũng không được sử dụng
làm dầu xức đầu hay xức mũi gì cả, vì tính chất ghê tởm
tột bực của nó. Về ranh giới, nó có giới hạn ở phía
dưới bởi thịt trên bởi lớp da trong và xung quanh bởi
cái gì thuộc về mỡ...
Nước Mắt
133. Ðây là chất nước
rỉ ra từ con mắt. Về màu sắc có màu dầu mè trong. Về
hình dáng, nó có hình dáng của trú xứ nó. Về phương hướng,
nó ở hướng trên. Về trú xứ, nó được tìm thấy trong
những lỗ mắt, nhưng không phải luôn luôn nước mắt được
tìm thấy trong lỗ mắt, như mật trong túi mật mà khi người
ta cảm thấy vui mà cười thật lớn hay khi khi cảm thấy buồn
mà khóc hoặc khi ăn những thứ cay nồng, khi mắt bị ảnh
hưởng bởi khói bụi, chất dơ v.v... Thì do những nguyên
nhân này phát sinh ra nước mắt tràn đầy trong lỗ mắt hay
tiết ra ngoài. Hành giả khi quán nước mắt, chỉ nên quán
nó đang đầy lỗ mắt. Về ranh giới, chúng có giới hạn bởi
cái gì thuộc về nước mắt...
Mỡ Nước
134. Ðây là chất dầu
bóng đã tan ra. Nó có màu dầu dừa. Cũng có thể bảo nó
có màu dầu rưới trên cháo. Về hình dáng, nó như một màng
trong, hình dạng một giọt dầu loang ra tro nước lắng, khi
người ta tắm. Về phương hướng, nó ở cả hai hướng. Về
trú xứ, nó được tìm thấy nhiều nhất là ở trong lòng
bàn tay, lưng bàn tay, gót chân, lưng bàn chân, chót mũi, trán,
chỗ vai nhô lên. Và nó không luôn luôn được tìm thấy
trong tình trạng tan ra tại những chỗ ấy, nhưng khi những
thân phần này nóng lên vì sức nóng của lửa, của mặt trời,
của sự xáo trộn thời tiết, hay xáo trộn tứ đại, thì
mỡ nước này lan ra đó đây, tại những chỗ kia, như cái
màng tạo nên bởi một giọt dầu loang trên mặt nước đứng,
lúc người ta tắm. Về ranh giới, nó được giới hạn bởi
cái gì thuộc về mỡ nước...
Nước Bọt
135. Ðây là chất nước
trộn lẫn bọt ở trong miệng. Về màu sắc, nó màu trắng
màu của bọt. Về hình dáng, nó có hình dáng trú xứ nó,
hoặc có thể nói là hình dáng của bọt. Về phương hướng,
thì nó ở hướng trên. Về trú xứ, nó được tìm thấy
trên lưỡi sau khi ở hai bên má chảy xuống. Và không phải
rằng luôn luôn nước bọt tụ lại ở đây, mà khi sinh vật
trông thấy một thức ăn đặc biệt nào đó, hay nhớ lại
thức ăn ấy, hay bỏ vào miệng một cái gì hoặc cay, hoặc
đắng, hoặc mặn, hoặc chát, hoặc chua, hay khi bị ngất xỉu,
hay cơn buồn nôn nổi lên vì một cớ gì, thì khi ấy nước
bọt xuất hiện chảy xuống hai má trong rồi đậu lại trên
lưỡi. Nó đọng ít ở đầu lưỡi và nhiều ở gốc lưỡi.
Nó có thể làm thấm ướt lúa hay gạo hoặc bất cứ thứ
gì nhai được, khi được đưa vào miệng. Nó giống như nước
mà không bị khô cạn từ trong một cái hố nước múc đổ
tới nơi bờ cát bên sông. Về ranh giới nó hạn bởi những
gì thuộc về nước bọt
Nước Mũi
136. Ðây là chất dơ
tiết ra từ não. Về màu sắc nó có màu của hạt cau non. Về
hình dáng, nó có hình dáng của trú xứ nó. Về phương hướng,
nó ở phía trên. Về trú xứ, nó được tìm thấy làm đầy
hai lỗ mũi. Nhưng nước mũi không phải luôn luôn được tích
tụ ở đấy, đúng hơn, khi sinh vật khóc hay bị xáo trộn
tứ đại vì thức ăn hay nhiệt độ thì não trong đầu biến
thành đàm nhạt và phun ra, chảy xuống theo vòm miệng (palate)
đầy hai lỗ mũi và đọng ở đó hoặc chảy ra hệt như một
người bọc váng sữa trong một lá sen cột lại rồi đâm
thủng ở đáy thì sữa cũng chảy ra theo cách ấy. Hành giả
quán về nước mũi chỉ nên quán nó đầy hai lỗ mũi. Về
ranh giới, nó được giới hạn bởi cái gì thuộc về nước
mũi...
Nước Khớp Xương
137. Ðây là chất nhờn
ở trong những khớp xương trong thân thể. Về màu sắc, nó
có màu của chất nhựa kanikàra. Về hình dáng, nó có
hình dáng trú xứ của nó. Về phương hướng, nó ở cả
hai hướng. Về trú xứ, nó được tìm thấy bên trong 180
cái khớp xương, có nhiệm vụ làm cho trơn khớp. Nếu chất
nước này thiếu hụt thì một người đứng lên ngồi xuống,
chuyển thân ra trước sau hay qua lại, hay có duỗi, những
cái xương của nó kêu răn rắc như tiếng búng tay, và mới
đi bộ vài dặm, phong đại của người ấy đã xáo trộn
đau nhức tứ chi. Nhưng nếu một người có nhiều nước
ở khớp xương, thì xương nó không kêu răn rắc khi ngồi
xuống đứng dậy v.v... Và dù đi một quãng đường thật
xa, phong đại của nó cũng không bị đảo lộn và tứ chi
không đau nhức. Về ranh giới, nó được giới hạn bởi những
gì thuộc về nước ở khớp xương...
Nước Tiểu
138. Ðây là dung dịch
nước tiểu. Về màu sắc, nó có màu của nước dưa giá. Về
hình dáng, nó có hình dáng của nước chứa trong một bình
nước chúc vòi xuống. Về phương hướng, nó ở hướng dưới.
Về trú xứ nó được tìm thấy trong bàng quang (bong bóng).
Như một cái bình có nhiều lỗ nhỏ mà không có miệng,
được đặt trong một một hố phân, dung dịch trong hố
phân đó thấm vào trong bình, mặc dù không có cái miệng. Cũng
vậy, nước tiểu tiết từ trong thân đi vào bàng quang mặc
dù không có lối vào rõ rệt. Tuy thế, lối ra của nó thì
rõ.
Khi bàng quang đầy nước
tiểu thì sinh vật có nhu cầu tiểu tiện. Về ranh giới,
nó được giới hạn bởi bên trong của bàng quang và bởi
những gì thuộc nước tiểu. Ðấy là định giới hạn bằng
cấu đồng. Ðịnh giới bằng cái dị thì như trong trường
hợp tóc (đoạn 90)
Ðịnh
Tướng Khởi
139. Khi hành giả đã
định rõ các phần khởi đầu bằng tóc như trên qua màu sắc,
hình dáng, phương hướng, trú xứ và ranh giới, và chú tâm
theo cách đã chỉ dẫn khởi từ Đoạn 61 (theo thứ tự) không
quá nhanh... (tác ý tưởng bất tịnh) theo 5 khía cạnh màu sắc,
hình dáng, mùi, trú xứ, gốc gác (đoạn 84 và kế tiếp)
và cuối cùng vượt qua khái niệm danh từ (đoạn 66). Khi
ấy, cũng như một người có mắt tốt đang quan sát một
tràng hoa 32 màu cột trên một sợi chỉ xâu duy nhất, tất
cả hoa đồng thời hiện rõ cho vị ấy, cũng vậy, khi hành
giả quan sát thân này như sau: Ở trong thân này, có tóc
v.v... Thì tất cả những vật ấy đồng thời hiện rõ cho
hành giả. Do đó ở trên trong phần giải thích về thiện xảo
trong sự tác ý, có nói rằng: "Bởi khi một người sơ
cơ tác ý tóc, sự chú ý của vị ấy tiếp tục cho đến
khi nó đạt đến phần cuối cùng là nước tiểu và dừng
lại ở đấy". (đoạn 67)
140. Nếu khi tất cả
32 phần đã hiện rõ với hành giả, nếu vị ấy cũng tác
ý như trên đối với ngoại vật (như đã chú tâm trên 32
thể ở nội thân) thì khi ấy những người, súc vật v.v...
Di động trước mắt bấy giờ bỗng tuột hết cái tướng
chúng sanh, và chỉ như là tổng hợp các phần tử. Và khi
chúng nuốt vào những thức ăn uống, thì trông như thể thức
ăn uống đang được đặt vào trong một tập hợp những phần
tử ấy.
141. Khi hành giả tiếp
tục tác ý đến những phần tử ấy (là ghê tởm), tuần tự
bỏ ra những phần không rõ như đã nói ở đoạn 67 thì cuối
cùng định tướng xuất hiện nơi hành giả. Ở đây sự xuất
hiện của tóc v.v... Về màu sắc, hình dáng, trú xứ và
ranh giới là học tướng, khía cạnh ghê tởm của nó về mọi
phương diện là tợ tướng. Khi hành giả phát triển tợ tướng
thì định tướng sẽ khởi lên, nhưng đây chỉ thuộc sơ
thiền, như đã được tả dưới đề mục "bất tịnh
kể như một đề mục thiền" (Chương IV, đoạn 74 và kế).
Và chỉ có một đinh tuớng sơ thiền xuất hiện nơi người
mà đối với họ chỉ có một phần tử (trong 32 phần) được
hiện rõ hoặc là người đã đạt được đinh tướng trong
một phần và không nỗ lực gì thêm.
142. Về một phần
khác. Nhưng nhiều sơ thiền, tùy theo số lượng các phần,
được phát sinh nơi một người mà đối với vị ấy nhiều
phần đã hiện rõ, hoặc nơi một người đã đạt định
tướng với một phần nhưng còn nỗ lực thêm về các phần
khác. Ðó là trưởng lão Mallaka.
Vị trưởng lão này cầm
tay trưởng lão Abhaya, người tụng đọc kinh Trường
bộ và sau khi nói: "Thiền giả Abhaya trước hết
hãy học vấn đề này", ông nói tiếp: Mallaka là
vị trưởng lão đã đắc 32 thiền về 32 uế vật. Nếu nhập
sơ thiền mỗi ngày một thể, và mỗi đêm một thể, thì vị
tiếp tục nhập trong hơn nửa tháng. Nếu chỉ nhập mỗi
ngày một thể, thì vị ấy tiếp tục trong hơn một tháng.
143. Và mặc dù thiền
này có thể thành công như trên với sơ thiền, tuy vậy nó
được gọi là "thân hành niệm" vì nó thành công
nhờ ảnh hưởng của sự tưởng niệm về màu sắc, hình
dáng...
144. Và vị tỷ kheo tu
tập thân hành niệm này là người chinh phục được sự chán
ghét và ưa thích "ưa chán không chinh phục được vị
ấy, vị ấy sống vượt qua được sự ưa chán khi nó khởi
lên. Vị ấy là người chinh phục được sợ hãi và khiếp
đãm không chinh phục được vị ấy, vị ấy sống vượt
qua s? hãi khiếp đãm khi nó nổi lên. Vị ấy là người chịu
đựng nóng lạnh... Chịu đựng các cảm thọ về thân... Chết
điếng người" (M. iii, 97) Vị ấy trở thành người
đạt được bốn thiền dựa trên khía cạnh màu sắc của
tóc v.v... Và đạt đến các thần thông (xem M., kinh thứ
6)
Bởi thế, người có
trí
Hãy tinh cần ngày đêm
Tu tập thân hành niệm
Ðem lại nhiều lợi ích
==>Xem tiếp
---o0o---
Mục lục
| 01 | 02
| 03 | 04
| 05 | 06
| 07 | 08
| 09 | 10
11 |
12
| 13 | 14
| 15 | 16
| 17 | 18
| 19 | 20
| 21 | 22
| 23
---o0o---
|
Thư
Mục Tác Giả |
---o0o---
Source: BuddhaSasana (www.budsas.org)
---o0o---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật ngày: 01-09-2002