---o0o---
Chương
XIV
Mô
Tả Về Các Uẩn
(Khandha-Niddesa)
A.
TUỆ
1. Ðịnh được mô tả
dưới đề mục Tâm trong bài kệ:
Người trú giới có
trí
Tu tập tâm và tuệ (Ch. I, đ. 1)
Và tâm đó đã được
tu tập trong mọi khía cạnh bởi vị tỷ kheo đã tu tập đến
mức phát huy định lực đưa tới thần thông (Ch. XII-XIII).
Nhưng tiếp theo đó, vị ấy cần phải tu tập tuệ. Mà tuệ
không dễ gì biết được, huống nữa là tu tập, nếu nó
được dạy quá vắn tắt. Bởi thế muốn đề cập chi tiết
phương pháp tu tập tuệ, có loạt vấn đề sau đây:
Gì là tuệ?
Tuệ có nghĩa gì?
Thế nào là đặc tính, nhiệm vụ, thể hiện và nhân gần
của tuệ?
Có bao nhiêu thứ tuệ?
Tuệ đươc tu tập như thế nào?
Gì là những lợi ích của việc tu tuệ?
2. Ðây là những giải
đáp:
Tuệ (pannà) có
nhiều loại và nhiều khía cạnh. Một câu trả lời nhằm
giải thích mọi sự sẽ không hoàn tất được ý định của
nó mà cũng khó đạt đến mục tiêu, lại còn đưa đến tán
loạn. Bởi thế chúng ta sẽ chỉ giới hạn vào loại tuệ
muốn đề cập ở đây, là tuệ với nghĩa là quán
trí đưa đến thiện tâm.
3. Tuệ có nghĩa gì?
Ðó là hành vi hiểu biết (pajànana) khác với những
kiểu tưởng tri (sanjànana) và thức tri (vijànana).
Vì mặc dù trạng thái biết cũng có mặt trong tưởng,
trong thức, và trong tuệ, song tưởng chỉ
là sự nhận biết một đối tượng, như xanh hay vàng, nó
không đem lại sự thấu hiểu sâu xa bản chất của đối
tượng ấy là vô thường, khổ, vô ngã. Thức biết
được đối tượng là xanh, vàng, vv. và cũng phát sinh được
sự thấu hiểu bản chất, nhưng không phát sinh do tinh cần,
sự xuất hiện đạo lộ siêu thế. Tuệ vừa biết đối
tượng theo cách đã nói, vừa phát sinh sự thấu hiểu sâu
xa, mà vừa đem lại sự thể hiện đạo lộ siêu thế do
tinh cần tinh tấn.
4. Giả sử có ba người,
một đứa trẻ không biết gì, một người nhà quê, và một
người đổi tiền, cùng thấy một đồng tiền kim loại nằm
trên quày của người đổi tiền.Ðứa trẻ chỉ biết đồng
tiền là có hình vẽ, trang trí, hình dài, vuông hay tròn,
song nó không biết những đồng tiền ấy được xem là có
giá trị cho con người xử dụng, hưởng thụ. Người nhà
quê thì biết chúng có hình, có trang trí, có giá trị cho người
hưởng dụng, nhưng không biết phân biệt đồng này thật,
đồng này giả, đồng này bằng nửa giá trị, vv. Còn người
đổi tiền thì biết tất cả những điều trên bằng cách
nhìn đồng tiền, nghe tiếng kêu của nó khi gõ, ngửi, nếm,
thử trọng lượng nó trong lòng tay, và biết nó được chế
tạo tại làng nào, thành phố, đô thị nào, trên đỉnh núi
hay bên bờ sông, do bậc thầy nào làm ra.
5. Tưởng tri là
giống như đứa trẻ không biết gì khi trông thấg đồng tiền,
vì nó chỉ thấy cái tướng của đối tư?ng như màu xanh,
vv. Thức tri là như người nhà quê trông thấy đồng
tiền biết được nó màu gì, và còn đi xa hơn, thấu hiểu
những đặc tính của nó. Còn tuệ tri là như người
đổi tiền thấy đồng tiền biết được màu sắc, vv. mà
còn đi xa hơn, đạt đến sự thể hiện đ?o lộ.
Ðó là lý do hành vi hiểu
biết này cần được hiểu là "sự thấy biết ở dưới
một hình thát đặc biệt, tách rời với những hình thái tưởng
tri và thức tri" Ðây là ý nghĩa mà câu "đó là
trí tuệ trong nghĩa hành vi hiểu biết" ám chỉ.
6.Tuy nhiên, tuệ
không phải luôn luôn được tìm thấy chỗ nào có tưởng
tri và thức tri.
[Chú thích: Trong những
khởi tâm có hai nhân, là vô tham, vô sân chứ không vô si,
thì tuệ không sanh khởi. (Pm.432) ].
"Cũng như lạc thú
không phải luôn đi đôi với hạnh phúc, tưởng tri và thức
tri không phải luôn luôn bất ly với tuệ. Nhưng hạnh phúc
thì luôn luôn kèm theo lạc thú, cũng vậy, tuệ luôn luôn
có thể tách rời tưởng và thức tri."(Pm. 432).
Nhưng khi tuệ có mặt
(trong tưởng tri và thức tri) thì nó không phải tách rời rời
tưởng tri, thức tri. Và bởi vì không thể tách rời "đây
là tưởng, đây là thức, đây là tuệ", cho nên sự
khác nhau giữa chúng rất tế nhị khó nhận ra. Do vậy, tôn
giả Nagasena nói:" Ðại vương, đức Thế tôn
đã làm được một việc
rất khó, là phân biệt những pháp vô sắc như tâm và tâm
sở khi chúng khởi lên với một đối tượng duy nhất, rồi
tuyên bố: "Ðây là xúc, đây là thọ, tưởng, hành, thức."
(Miln.87)
7. Gì là đặc tính,
nhiệm vụ, thể hiện và nhân gần của tuệ? Tuệ
có đặc tính là đi sâu vào bản chất của sự vật. Nhiệm
vụ nó là từ bỏ bóng tối của si che đậy tự tính của
sự vật. Tuệ có biểu hiện là vô si. Do câu "Một
người tâm định tĩnh thì biết và thấy đúng" (A. v,
3), nhân gần của tuệ là định.
8. Có bao nhiêu loại tuệ?
Trước hết, vì có đặc
tính là đi sâu vào tự tính các pháp, tuệ chỉ có một loại.
Nếu kể tuệ thế
gian và xuất thế, nó thuộc hai loại. Hoặc hai loại
là hữu lậu, vô lậu. Hai loại, là phân biệt danh
và phân biệt sắc. Hai loại, là câu hữu hỉ và câu hữu xả.
Hai loại, là tuệ ở bình diện kiến đạo và tuệ
ở bình diện tu đạo.
Tuệ thuộc ba loại là
tuệ do suy luận (tư tuệ) do học hỏi ( văn tuệ), và
do tu tập (tu tuệ). Ba loại, là tuệ có một đối tượng hữu
hạn, đại hành và vô lượng. Ba loại, là tuệ thiện xảo
về tăng ích, thiện xảo về tổn giảm và thiện
xảo về phương tiện. Ba loại, là tuệ
giản biệt nội thân, ngoại sắc và cả nội thân lẫn ngoại
sắc.
Tuệ thuộc bốn loại,
là trí về bốn chân lý, và bốn vô ngại biện.
9. Tuệ một loại ý
nghĩa đã rõ.
Tuệ hai loại: Tuệ thế
gian là tuệ liên hệ đạo lộ thế gian, còn tuệ xuất
thế gian là tuệ liên hệ đạo lộ siêu thế.
10. Tuệ hữu lậu
là tuệ làm mục tiêu cho ô nhiễm, và tuệ vô lậu
là không làm mục tiêu cho ô nhiễm. Hữu lậu vô lậu đồng
mục tiêu cho ô nhiễm, đồng nghĩa với thế gian và xuất
thế.
11. Khi một người muốn
khởi sự tu tuệ, thì sự hiểu biết do phân biệt bốn uẩn
vô sắc gọi là tuệ phân biệt danh, và sự hiểu về
tâm gọi là tuệ phân biệt danh, biết do phân biệt sắc uẩn
gọi là tuệ phân biệt sắc.
12. Tuệ thuộc hai loại
trong những loại thiện tâm dục giới, và tuệ thuộc đạo
lộ bốn thiền trong 5 thiền, là câu hữu hỉ, còn lại
với thiền thứ năm thì câu hữu với xả. lộ gồm 16 loại
với 4 trong 5 thiền, là câu hữu hỉ. Tuệ hai loại
thiện dục giới, và tuệ thuộc 4 đạo tâm còn lại trong 5
thiền, là câu hữu xả.
[Chú thích: 16 loại
là 4 đạo lộ với sơ thiền, và với nhị, tam, tứ trong
5 thiền.]
13. Tuệ thuộc về đạo
thứ nhất (dự lưu) là bình diện kiến đạo, tuệ
thuộc ba đạo còn lại là bình diện tu tập.
14. Tuệ có được không
do nghe người khác thì gọi là tư tuệ (tuệ
do suy luận) vì nó được phát sinh do chính sự suy luận
của mình. Tuệ có được do nghe người khác gọi là văn
tuệ. Tuệ đã đạt đến an chỉ, đã được
phát sinh nhờ tu thiền định, gọi là tu tuệ.
Và điều này được nói: "Ở đây, thế nào là tuệ do
suy luận? Trong những phạm vi công việc được phát minh nhờ
trí thông minh, hoăc trong những phạm vi công nghệ được phát
minh nhờ trí thông minh, hoặc trong những thứ khoa học được
phát minh nhờ trí thông minh, bất cứ sự ưa thích quan điểm,
chọn lựa, quan niệm, phán đoán, tính ưa suy tư về sự vật
nào mà liên hệ đến sở hữu của nghiệp (hành động) hay
phù hợp với chân lý, hay có tính cách thích hợp với định
lý "sắc là vô thường" hay "thọ, tưởng, hành,
thức là vô thường", mà người ta có được không do
nghe người khác, thì gọi là tư tuệ hay tuệ do suy luận.
"Trong những phạm
vi (như trên) mà người ta có được do nghe người khác,
thì gọi là văn tuệ." Và tất cả tuệ nơi một
người đã đắc thiền, gọi là tuệ do tu tập hay tu
tuệ." (Vbh. 324)
Do đó, tuệ thuộc ba
loại đầu tiên là văn tuệ, tư tuệ và tu tuệ.
15. Tuệ khởi lên liên
hệ các pháp dục giới là tuệ với đối tượng hữu hạn.
Tuệ sinh khởi liên hệ các pháp sắc giới hay vô sắc giới
có một đối tượng đại hành. Ðó là quán
trí thế gian (minh sát tuệ). Tuệ sinh khởi liên hệ Niết
bàn, thì gọi là tuệ có một đối tượng vô lượng.
Ðấy là quán trí xuất thế. Vậy tuệ ba loại thứ hai là
tuệ có một đối tượng hữu hạn, đại hành
và vô lượng.
16. Sự tốt hơn được
gọi là tăng ích. Có hai:bỏ điều hại và phát sinh
điều lợi. Thiện xảo về tăng ích là thiện xảo trong những
điều này, như Luận nói: "Gì là thiện xảo về tăng
ích? Khi một người tác ý đến những pháp này, thì những
bất thiện pháp chưa sinh không sinh, những bất thiện pháp
đã sinh được từ bỏ nơi vị ấy, hoặc khi vị ấy tác
ý những pháp này, thì những thiện pháp chưa sinh được
sinh, những thiện pháp đã sinh càng tăng trưởng, lớn mạnh,
phát triển, viên mãn nơi vị ấy. Bất cứ gì thuộc tuệ,
thuộc hành vi hiểu biết, ... (xem Dhs. 16)... thuộc vô
si, thuộc trạch pháp, chánh kiến, gọi là thiện xảo về tăng
ích. (Vbh. 325-6)
17. Không tăng ích gọi
là tổn giảm, cũng có hai: giảm điều lợi ích mà
sinh khởi điều hại. Thiện xảo về tổn giảm là thiện xảo
về hai việc này, như Luận nói " Gì là thiện xảo về
tổn giảm? Khi một người tác ý các pháp này, những thiện
pháp chưa sinh không sinh, vv".(Vbh. 326)
18. Nhưng trong bất cứ
trường hợp nào trong hai trường hợp trên, thiện xảo nào
về phương tiện làm phát sinh các pháp này nọ, thiện xảo
phát sinh vào lúc ấy được khởi lên vào lúc ấy, gọi là
thiện xảo về phương tiện, như được nói:"Và
tất cả trí tuệ về phương tiện làm phát sinh tuệ gọi
là thiện xảo về phương
tiện." (Vbh. 326)
Vậy tuệ thuộc ba loại
là thiện xảo về tăng ích, thiện xảo về tổn giảm, và
thiện xảo về phương tiện.
19. Về tuệ ba loại,
thứ tư: tuệ khởi sinh do quán sát ngũ uẩn nơi chính bản
thân gọi là tuệ giản biệt nội thân, do quán sát ngũ
uẩn người khác hoặc các sắc pháp ở ngoài không liên hệ
đến các căn (tức thân thể) thì gọi là tuệ giản biệt
ngoại sắc, do quán cả hai thì gọi là tuệ giản
biệt nội thân và ngoại sắc.
20. Về tuệ bốn loại,
đầu tiên là trí phátsinh liên hệ đến chân lý về khổ gọi
là khổ trí, liên hệ nguồn gốc khổ là khổ tập
trí, liên hệ đến diệt khổ là khổ diệt trí,
liên hệ đến đạo lộ đưa đến diệt khổ là khổ
diệt đạo trí.
21. Nhóm bốn loại thứ
hai: bốn trí liên hệ đến nghĩa, vv. gọi là bốn biện
tài (patisambhidà). Luận nói: " Trí về nghĩa, gọi là
biện tài về nghĩa (attha-patisambhidà). Trí biết về
pháp gọi là biện tài về pháp (dhamma-patisambhida) Trí
biết về sự trình bày ngôn ngữ nói đến pháp và nghĩa, gọi
là biện tài về từ (nirutti-patisambhidà). Trí biết
về các loại trí gọi là biện tài về trí
(patibhàna- patisambhidà - Vbh. 293)
22. "Nghĩa" nói
gọn là danh từ chỉ kết quả của một nhân(hetu).
Vì phù hợp với nhân, nó được đạt đến, được phục
vụ (arìyati) nên gọi là nghĩa hay mục đích
(attha). Nhưng đặc biệt năm thứ: một bất cứ gì do
duyên sinh, hai Niết bàn, ba ý nghĩa những gì được nói, bốn
nghiệp quả và năm, tâm duy tác - năm thứ ấy cần được
hiểu là nghĩa. Khi một người quán sát nghĩa này, bất
cứ hiểu biết nào của vị ấy thuộc về phạm trù liên hệ
đến ý nghĩa, gọi là biện
tài về nghĩa.
23. Pháp nói gọn,
là danh từ chỉ điều kiện hay duyên (paccaya). Vì điều
kiện thì cần đến (dahati) một cái khác làm cho nó
phát sinh, khiến nó xảy ra, nên gọi là pháp, dhamma.
Nhưng đặc biệt năm thứ, một bất cứ nhân nào phát sinh
quả, hai thánh đạo, ba cái gì đươc nói lên, bốn cái gì
thiện, năm, cái gì bất thiện, năm thứ này cần hiểu là pháp.
Khi một người quán sát pháp ấy thì bất cứ hiểu biết
nào của vị ấy về pháp gọi là biện
tài về pháp.
24. Cùng ý nghĩa này
được nêu trong Abhidhamma với sự phân tích như sau:
"Trí biết khổ là
biện tài về nghĩa.Trí biết tập khởi của khổ là
biện tài về pháp. Trí biết về khổ diệt là biện tài về
nghĩa. Trí biết về đạo diệt khổ là biện tài về
pháp...
"Trí biết nhân là
biện tài về pháp. Trí biết quả của nhân là biện tài về
nghĩa.
"Trí biết về bất
cứ gì được sinh ra, trở thành, đưa đến sự sinh khởi,
phát xuất, viên mãn,, làm cho hiển lộ cái gì thì gọi là
biện tài về pháp.
"Trí biết già chết
là biện tài về nghĩa. Trí biết về nguồn gốc già chết
là biệntài về pháp. Trí biết về sự chấm dứt già chết
là biện tài về nghĩa.
"Trí biết về con
đường chấm dứt già chết là biện tài về pháp. Trí biết
về sanh... hữu... thủ... ái... thọ... xúc... sáu xứ... danh
sắc... thức... trí biết về hành là biện tài về nghĩa.Trí
biết về nguồn gốc của hành là biện tài về pháp. Trí
biết về sự chấm dứt các hành là biện tài về nghĩa. Tr
íbiết về con đường đưa đến ái... thọ... xúc... 6 xứ...
danh sắc... thức... trí biết vế hành là biện tài về nghĩa.
Trí biết về nguồn gốc của hành là biện tài về pháp.
Trí biết về sự diệt các hành là biện tài về nghĩa. Trí
biết về con đường đưa đến hành diệt là biện tài về
pháp...
"Ở đây, một tỷ
kheo biết pháp - kinh trường hàng, kệ tụng, luận thuyết,
kệ tán, pháp cú, bổn sanh, vị tằng hữu, vấn đáp, gọi
là biện tài về pháp. Biết ý nghĩa của những gì được
nói, gọi là biện tài về nghĩa...
"Những pháp nào
là thiện? Vào khi thiện tâm dục giới đã sinh khởi, câu hữu
với hỉ, liên hệ đến trí, có một sắc pháp hay tâm pháp
làm đối tượng, hay liên hệ đến vấn đề gì, vào lúc
đó có xúc... (xem Dhs. 1)... có sự không giao động,,
thì những pháp ấy là thiện. Trí biết về những pháp ấy
là biện tài về pháp. Trí biết về kết quả của chúng
là biệntài về nghĩa."
(Vbh. 293-5)
25. Trí về sự truyền
đạt ngôn ngữ đề cập đến nghĩa và pháp (đ. 21):
Có ngôn ngữ "tự tánh", nghĩa là cách xử dụng nó
không có ngoại lệ, chỉ đề cập đến nghĩa ấy, pháp ấy.
Bất cứ trí gì thuộc phạm trù liên hệ đến sự nói lên
ngôn ngữ ấy, thốt ra, phát ngôn nó, liên hệ đến ngữ ngôn
căn để của mọi loài, ngôn ngữ Magadha tự tính,
nói cách khác, ngôn ngữ của pháp, bất cứ trí gì biết
được, - vừa khi nghe ngôn ngữ ấy được nói lên - rằng
đây là ngôn ngữ có tự tính, đây không phải ngôn ngữ
có tự tính - trí như vậy gọi là biện tài về ngôn ngữ.
Một người đã đạt biện tài về ngôn ngữ (từ vô ngại
biện) thì khi nghe những chữ phasso, vedanà sẽ biết
ngay rằng đó là ngôn ngữ có tự tính (đúng), và khi
nghe phassà, vedano, biết đó không phải ngôn ngữ có tự
tính (sai).
26. Trí biết về các
loại trí (đ. 21): Khi một người xét lại và lấy bất
cứ loại nào trong các loại trí trên, làm đối tượng cho
sự hiểu biết của mình, thì bất cứ sự hiểu biết nào
của vị ấy có đối tượng là trí thì gọi là biện
tài về trí.
27. Và bốn loại biện
tài trên đây có thể xếp vào hai bình dịện: hữu học
và vô học. Bốn biện tài của chư đại đệ tử và
của những đệ tử xuất sắc thuộc bình diện vô học.
Biện tài của tôn giả Ananda, gia chủ Citta, cư
sĩ Dhammika, gia chủ Upali, tín nữ Khujjuttara...
thuộc bình diện hữu học.
28. Mặc dù thuộc hai
bình diện chúng vẫn có thể phân biệt theo năm khía cạnh
là thành tựu, nắm vững kinh điển, nghe, hỏi, và tiền nỗ
lực. Ở đây, thành tựu nghĩa là đắc quả A-la-hán.
nắm vững kinh điển là thiện xảo về lời dạy của
đức Phật. Nghe là học pháp một cách chăm chú. Hỏi
là thảo luận về những đoạn khúc mắc và những giải
thích trong kinh luận. Tiền nỗ lực là chuyên tu quán
trong giáo lý của chư phật trước kia, cho đến gần giai
đoạn thuận thứ và chuyển tánh nơi một người đã thực
hành khất thực và trở về với một đề mục thiền.
29. Những người khác
lại nói:
Tiền nỗ lực, trí lớn
Biết ngôn ngữ, kinh điển,
Học hỏi và thành tựu
Phục vụ một bậc thầy
Thành công về bạn hữu
Ðấy là những điều kiện
Phát sinh những biện tài.
30. Ở đây, tiền nỗ
lực là như đã nói. Trí lớn là thiện xảo về một
môn học hay lãnh vực công nghệ nào đó. Ngôn ngữ
là 101 loại thổ ngữ, nhất là tiếng nói xứ Magadha.
Kinh điển là lời dạy của Phật, dù chỉ là lời dạy
trong kinh Pháp cú, chương Thí dụ (Phẩm Song đối). Hỏi
có nghĩa là hỏi về sự định nghĩa dù chỉ một bài kệ.
Thành tựu là quả dự lưu cho đến A-la-hán. Phục vụ một
bậc thầy là cư trú với những bậc thầy thông minh uyên
bác. Thành công về bạn hữu là có những người bạn thông
minh uyên bác.
31. Chư Phật và những
vị độc giác đạt đến biện tài nhờ tiền nỗ lực và
nhờ thành tựu. Chư đệ tử thanh văn đạt đến biện tài
nhờ tất cả những phương tiện trên. Và không có một
cách đặc biệt nào để tu tập một đề mục thiền để
đạt đến biện tài. Nhưng với những bậc hữu học, sự
đạt đến biện tài phát sinh kế tiếp quả giải thoát của
hữu học, và với bậc vô học, nó phát sinh tiếp theo quả
giải thoát vô học. Vì những biện tài chỉ đi đến thành
công nơi các bậc thánh nhờ thánh quả, cũng như mười lực
đối với chư Phật.
Ðấy là những biện
tài được ám chỉ khi đoạn 8 trên đây nói: " Nó thuộc
bốn loại ... là bốn biện tài."
32. Tuệ được tu tập
như thế nào? Những pháp được phân loại thành uẩn, xứ,
giới, căn, đế, duyên khởi vv. là đất của tuệ này,
và hai thanh tịnh đầu tiên tức Giới thanh tịnh và tâm
thanh tịnh, là những gốc rễ của tuệ, trong khi năm
thanh tịnh kia, tức kiến tịnh, đoạn nghi tịnh, đạo phi
đạo tri kiến tịnh, đạo tri kiến tịnh, và tri kiến tịnh,
là thân cây. Do vậy, một người muốn kiện toàn những điều
này trước hết cần phải tăng cường trí mình bằng cách
học hỏi về những điều làm đất cho tuệ sau khi đã
viên mãn hai thanh tịnh kia là thân của tuệ. Ðấy là tóm tắt.
Chi tiết như sau.
B.
Mô Tả Về Năm Uẩn
Sắc Uẩn
33. Khi nói rằng
"những pháp được xếp loại là uẩn, xứ, giới, căn,
đế, duyên khởi vv. là đất" cho tuệ, thì uẩn chính
là năm uẩn sắc, thọ, tưởng, hành và thức.
34. Bất cứ pháp nào
có đặc tính bị quấy nhiễu (ruppana) bởi lạnh
nóng, vv. đều được bao gồm trong sắc uẩn. Sắc thuộc một
loại duy nhất nếu kể về đặc tính " bị quấy nhiễu".
Nó thuộc hai loại khi phân thành đại chủng (bhùta)
và sở tạo sắc do chấp thủ (upàdàya).
35. Ở đây, đại chủng
sắc gồm bốn loại là địa giới thủy giới hỏa
giới và phong giới. Ðặc tính nhiệm vụ biểu hiện
của chúng đã dược đề cập trong phần Ðịnh nghĩa
Bốn đại ở chương XI, đoạn 87 và 93. Nhưng về nhân
gần, thì mỗi đại đều có ba đại kia làm nhân gần.
36. Sở tạo sắc có 24
loại là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, sắc, thanh, hương, vị,
nữ căn, nam căn, mạng căn, tâm cơ, thân biểu, ngữ biểu,
không giới, khinh khoái, nhu nhuyến, kham nhậm, sanh, trú,
lão, vô thường, và đoàn thực.
37. Ðặc tính của mắt
là sự nhạy cảm của tứ đại trước sự va chạm với sắc
pháp, hoăc tính nhạy cảm của tứ đại phát sinh bởi nghiệp
bắt nguồn từ dục vọng muốn thấy. Nhiệm vụ nó là chọn
lấy một đối tượng trong số những sắc pháp. Nó được
biểu hiện là đất đứng cho nhãn thức. Nhân gần của nó
là tứ đại sinh từ nghiệp bắt nguồn từ dục vọng muốn
nhìn.
38. Ðặc tính lỗ tai
là sự nhạy cảm của tứ đại trước sự tiếp xúc với
âm thanh, hoặc nhạy cảm của tứ đại sinh từ nghiệp có
nguồn gốc ở dục vọng muốn nghe.Nhiệm vụ nó là chọn lấy
một đối tượng giữa những âm thanh. Nó được biểu hiện
là chỗ đứng cho nhĩ thức.Nhân gần của nó là tứ đại
sinh từ nghiệp, nghiệp ấy bắt nguồn từ dục vọng nghe.
39. Ðặc tính của mũi
là nhạy cảm của tứ đại đối với sự xúc chạm của mũi,
hoăc nhạy cảm của tứ đại phát sinh từ nghiệp muốn ngửi.Nhiệm
vụ nó là chọn lấy một đối tượng giữa các mùi. Nó
được biểu hiện bằng căn cứ của tỉ thức. Nhân gần của
nó nó là tứ đại sinh từ nghiệp muốn ngửi.
40. Ðặc tính của lưỡi
là nhạy cảm của tứ đại trước xúc cham với vị. Hoặc
đặc tính của lưỡi là nhạy cảm của bốn đại phát
sinh từ nghiệp muốn nếm. Nhiệm vụ nó là chọn lấy một
đối tượng giữa các vị. Nó được biểu hiện là căn cứ
cho thiệt thức. Nhân gần của nó là tứ đại phát sinh từ
nghiệp muốn nếm.
41. Ðặc tính của
thân là tính nhạy cảm của tứ đại trước xúc chạm với
những vật sờ được. Hoặc dặc tính nó là tính nhạy cảm
của tứ đại phát sinh từ nghiệp muốn sờ.
42. Tuy nhiên, một số
người nói rằng con mắt là cảm tính của tứ đại có hỏa
thịnh, lỗ mũi là cảm tính của tứ đại có địa thịnh,
lỗ tai là cảm tính tứ đại có phong thịnh, lưỡi là cảm
tính tứ đại có thủy thịnh, và thân là cảm tính của tất
cả bốn đại quân bình .
[Chú thích: "một
số người"chỉ bộ phái Mahàsanghika, vì Vasudhamma thuộc
bộ phái này bảo:"Trong con mắt, lửa thạnh, trong lỗ
tai phong thạnh, trong lỗ mũi địa thạnh, trên lưỡi thủy
thạnh, trong thân thì bốn đại đồng đều."-- Pm.
444]
Một số khác nói rằng
con mắt là tính nhạy cảm của những người có hỏa tăng
thạnh, còn tai mũi lưỡi thân là tính nhạy cảm của những
người có không, phong, thủy, địa tăng thạnh. Những người
chủ trương điều này đáng được yêu cầu trích dẫn
kinh. Chắc chắn họ không tìm thấy một kinh nào nói thế.
43. Nhưng một số đưa
ra lý lẽ rằng, chính vì những cảm tính này tuần tự được
trợ lực bởi sắc pháp vv. kể như những tính chất của lửa
vv.
[Chú thích: được
trợ lực bởi những sắc pháp như tính soi sáng của hơi
nóng, bởi âm thanh kể như tính của phong, bởi mùi kể như
tính của địa, bởi vị kể như tính của thủy gọi là
nước miếng, đó là theo lý thuyết đầu.Nó có thể được
điều chỉnh cho phù hợp với thuyết thứ hai, vì những cảm
tính này cần được giúp đỡ bởi những đặc tính của
tứ đại, nghĩa là chúng cần có sự giúp đỡ mới thấy
được sắc, vv. Thuyết này cho rằng đặc tính chính là
khả năng của mắt để thắp sáng sắc pháp, vv. chỉ khi
liên hệ những lý do phụ thuộc như ánh sáng, vv và khoảng
trống cần thiết cho nhĩ thức. Khoảng không được kể
như hỏa vì nó là sự vắng mặt của bốn đại. Hoặc
khi những người khác ấn định rằng khoảng trống là một
tính chất của bốn đại, như sắc, thì khi ấy những
tính của bốn đại có thể phân tích theo thứ tự sau:được
trợ giúp bởi sắc pháp và ánh sáng kể như tính của hỏa,
bởi thanh kể như tính của khoảng trống gọi là hư không,
bởi mùi kể như tính của phong, bơỉ vị kể như tính của
thủy, bởi xúc kể như tính của đất.-- Pm. 445]
Nên hỏi lại họ:
"Ai bảo sắc pháp là đặc tính của hỏa đại, vv.? Vì
không thể nói về bốn đại, vốn luôn luôn bất khả
phân, rằng đây là đặc tính của đại này, đó là đặc
tính của đại kia... "
44. Khi ấy họ có thể
bảo: "Ðúng như ông nói, do sự tăng thịnh của một đại
chủng trong các s?c pháp này khác, mà những nhiệm vụ nâng
đỡ, vv.của địa, vv. được nói đến, cũng vậy, do tính
chất "dễ thấy" vv. trong tình trạng tăng thịnh ở
nơi vật có hỏa thịnh, mà người ta có thể cho rằng sắc
pháp, vv. là đặc tính của đại này". Hãy nói lại với
họ: "Chúng ta có thể cho như vậy, nếu có nhiều mùi
trong bông vải (cái có địa thịnh) hơn trong rượu men, cái
có thủy thịnh, và nếu màu của nước lạnh là yếu hơn màu
của nước nóng, cái có hỏa thịnh."
45. Nhưng vì không có
chuyện như thế trong cả hai thí dụ trên, vậy ông hãy bỏ
chuyện đoán mò cho rằng sự khác nhau là do tứ đại làm nền
tảng nâng đỡ. Cũng như những bản chất của sắc pháp
vv. là khác nhau mặc dù không có khác nhau giữa các đại chủng
tạo nên một nhóm, cũng thế tính nhạy ở mắt, vv. không
giống nhau mặc dù không có nguyên nhân nào về sự khác
nhau của chúng. Ðây là cách nên hiểu.
Nhưng nếu vậy thì
cái không chung trong tất cả các cảm tính của năm căn là
gì? Chính nghiệp là lý do làm nên sự sai khác ấy, chứ
không phải bốn đại, vì nếu có sự khác nhau của tứ đại,
cảm tính sẽ không sinh, như được nói: "Cảm tính là
của những người quân bình, không phải thuộc những ngưòi
không quân bình."
46. Trong những cảm
tính có sự khác biệt do nghiệp khác biệt ấy, thì con mắt
và lỗ tai nhận biết những đối tượng không ở gần sát
chúng, vì thức vẫn sanh khởi dù tứ đại làm nền tảng
cho trần không liên kết với tứ đại làm nền cho căn.
Mũi lưỡi và thân thì nhận biết những đối tượng sát kề
chúng, vì thức chỉ sanh khởi nếu bốn đại của trần liên
kết với bốn đại của căn.
47. Có cái thế gian gọi
là con mắt. Nó giống như một cánh hoa sen xanh được bao
quanh bằng những lông mi đen, có hai vòng tròn tối, sáng.
Con mắt đích thực, nhãn tinh, được tìm thấy ngay giữa
vòng tròn đen được bao quanh bởi vòng tròn trắng, trong
nhãn tinh (đồng tử hay con ngươi) xuất hiện hình ảnh những
người đứng trước nó. Nó thấm khắp bảy lớp của mắt
giống như dầu rưới trên bảy lớp vải. Nó được trợ
giúp bởi bốn đại chủng có nhiệm vụ nâng đỡ, tắm rửa,
băng bó và quạt. Nó được củng cố bởi thời tiết, tâm,
đoàn thực. Nó được duy trì bởi mạng căn, được cung cấp
màu, mùi, vị, vv. (xem Ch. XVIII, đoạn 5), nó chỉ bằng cái
đầu con rận, mà vừa là căn cứ vật lý vừa cửa ngỏ
cho nhãn thức và những tâm còn lại của lộ trình tâm.
48. Ðiều này được nói
bởi vị tướng quân chánh pháp: "Nhãn tinh nhờ đó người
ta trông thấy sắc thì rất nhỏ và vi tế, không lớn hơn
đầu con rận."
49. Nhĩ tinh (cảm
tính của tai) được tìm thấy bên trong cái dạng của tai với
những phụ tùng của nó, ở nơi có hình dạng cái bịt đầu
ngón tay, được vây quanh bởi những lông mịn màu nâu.Nó
được trợ giúp bởi tứ đại như đã nói, được củng cố
bởi thời tiết, tâm và đoàn thực, được duy trì bởi mạng
căn, được trang bị với màu, vv. và nó vừa làm căn cứ vật
lý vừa làm căn môn cho nhĩ thức và những tâm còn lại
trong lộ trình tâm.
50. Tỉ tinh được
tìm thấy bên trong cái dạng của lỗ mũi với những phụ tùng
của nó, tại chỗ có hình dạng một cái móng dê. Nó được
trợ giúp, củng cố, duy trì theo cách đã nói, và nó vừa
làm căn cứ vật lý vừa là cửa ngỏ cho tỉ thức, vv.
51. Thiệt tinh được
tìm thấy ở giữa cái lưỡi với những phụ tùng của nó,
tại chỗ có hình dạng cái đầu của một cánh sen. Nó được
trợ giúp, củng cố duy trì theo cách đã nói, và vừa làm căn
cứ vật lý vừa là cửa ngõ cho thiệt thức và những tâm
còn lại trong tâm lộ trình.
52. Thân tinh được
tìm thấy khắp nơi như nước thấm bông vải, trong thânxác
vật lý này, chỗ mà sắc bị chấp thủ. Nó được trợ giúp
củng cố duy trì theo cách đã nói, vừa làm căncứ vật lý
vừa là cửa ngõ cho thân thức và các tâm còn lại trong lộ
trình tâm.
53. Như những con rắn,
cá sấu, chim, chó, chồn hoang tiến về hướng những nơi chúng
thường lui tới, là tổ kiến (rắn bò tới), nước (cá sấu),
không gian (chim), làng mạc (chó), nghĩa địa (chồn hoang),
cũng thế, mắt tai... hướng đến những hành xứ riêng của
chúng là sắc thanh...
54. Sắc có đặc
tính là đập vào mắt. Nhiệm vụ nó là làm đối tượng
cho nhãn thức. Biểu hiện (tướng) của nó là hành xứ
cho nhãn thức.Nhân gần của nó là bốn đại chủng.Và tất
cả các sở tạo sắc kế tiếp (thanh, hương, vị... ) đều
giống như ở đây, trừ chỗ khác biệt sẽ được nói. Sắc
pháp có nhiều màu như xanh vàng..
55. Thanh có đặc
tính là đập vào tai. Nhiệm vụ nó là làm đối tượng cho
nhĩ thức. Nó được biểu hiện là sở hành của nhĩ thức.Thanh
có nhiều loại như tiếng trống lớn, trống nhỏ...
56. Mùi có đặc
tính là đập vào mũi, nhiệm vụ nó là làm đối tượng
cho tỉ thức. Nó được biểu hiện là sở hành của tỉ thức.
Mùi thuộc nhiều loại, như mùi rễ cây, mùi gỗ cây...
57. Vị có đặc
tính là đập vào lưỡi. Nó có nhiệm vụ làm đối tượng
cho thiệt thức, có biểu hiện là sở hành của thiệt thức.
Nó có nhiều loại, như vị của rễcây, của thâncây.
58. Nữ căn có đặc
tính là nữ tánh, có nhiệm vụ chỉ ra "đây là phụ nữ".
Nó được biểu hiện là căn do cho đặc điểm, tướng trạng,
công việc và cách xử sự của phái nữ. nữ. Nam căn
có đặc tính là nam tánh.Nhiệm vụ nó là chỉ ra "đây
là một nam nhân". Nó được biểu hiện làm lý do cho đặc
điểm, tướng, công việc, và cách xử sự của phái nam. Cả
hai căn sau cùng đều đồng hiện hữu với toàn diện thân
thể, cũng như thân tính. Nhưng không phải vì vậy mà có thể
nói "chúng ở khoảng không gian mà thân tính ở" hoặc
"chúng ở khoảng không gian mà thân tính không ở".
Như bản chất của sắc, vv. những thứ này không lẫn lộn
với nhau.
59. Mạng căn có
đặc tính là duy trì các loại sắc cu sanh. Nhiệm vụ nó
là làm cho các sắc ấy sinh ra. Nó được biểu hiện là tướng
trú của sắc. Nó có nhân gần là các đại chủng phải duy
trì. Và mặc dù nó có khả năng duy trì, song nó chỉ duy
trì các sắc cusanh vào lúc trú, như nước duy trì hoa sen . Mặc
dù các pháp sinh khởi tùy theo các duyên (điều kiện), mạng
căn duy trì chúng, như bà vú bảo dưỡng một em bé. Chính mạng
căn thì chỉ sinh khởi theo các pháp sinh khởi, như một thủy
thủ; nó không gây ra sự sanh sau khi diệt, vì khi ấy chính
nó cũng vắng mặt, mà những gì cần làm cho sanh cũng vắng
mặt. Nó không kéo dài sự trú vào lúc diệt, bởi vì
chínhnó đang diệt, như ngọn đèn của một cây đèn khi bấc
và dầu đã hết. Nhưng không nên xem nó không có năng lực
duy trì, làm sinh ra, làm an trú, bởi vì quả thực nó có những
năng lực này vào lúc đã nói.
60. Tâm cơ có đặc
tính làm điểm tựa vật chất cho ýgiới và ý thức giới.
Nhiệmvụ nó là làm phương tiện cho chúng. Nó được biểu
hiên là sự mang chở chúng. Nóđược tìm thấy phụ thuộc
vào máu, môtả trong phần thân hành niệm (Ch. VIII) bên trong
trái tim. Nó được trợ giúp bởi bốn đại với nhiệm vụ
nâng đỡ, vv. Nó được củng cố bởi thời tiết, tâm và
đoàn thực, được duy trì bởi mạngcăn, và nó làm cơ sở
vật lý cho ý giới và ý thức giới và cho các pháp liên hệ.
61. Thân biểu là
hình thái thích ứng và sự thay đổi hình dạng trong phong
giới do tâm sanh, chính nó làm nhân cho sự di chuyển tới
lui, vv. hình thái và sự biến đổi này là điều kiện cho
sự cứng đờ, sự nâng đỡ và sự chuyển động của sắc
thân cu sanh. Nhiệm vụ nó là bày tỏ ý định. Nó được
biểu hiện là nhân của sự kích động thânthể. Nhân gần
nó là phong giới do tâm sanh. Nhưng nó được gọi là thân
biểu (kàyavinnatti) vì nó là nhân của sự biểu trưng ý
định ngang qua sự chuyển động của thân thể. Sự di chuyển
tới lui, vv. cần được hiểu là phát sinh do chuyển động
của các loại sắc do thời sanh, vv. liên kết với những loại
sắc do tâm sanh, được điều động bởi thân biểu ấy.
62. Ngữ biểu là
hình thái thích ứng và biến đổi hình dạng trong địa giới
do tâm sinh làm nhân cho sự phát ngôn. Sự thích ứng và biến
đổi này là một điều kiện cho sự gõ lại với nhau cái
sắc bị chấp thủ. Nhiệm vụ nó là bày tỏ ý định. Nó
được biểu hiện là nhân cho tiếng nói. Nhân gần của nó
là địa giới do tâm sanh.Nhưng nó được gọi là ngữ biểu
vì nó là nhân của sự biểu trưng ý định ngang qua lời nói,
nói cách khác là ngang qua âm thanh của lời. Như khi thấy một
cái sọ bò treo trên cây rừng, dấu hiệu ấy ám chỉ "ở
đây có nước", cũng vậy, khi thấy thân tướng lay động,
hoặc nghe âm thanh của lời, ta biết chúng ám chỉ một sự
việc.
63. Không giới
có đặc tính là định giới hạn cho sắc. Nhiệm vụ nó
là bày ra những ranh giới của sắc. Nó được biểu hiện
là những giới hạn của sắc, hoặc biểu hiện bằng tính
không thể sờ chạm, bằng tình trạng những khe hở và những
chỗ mở ra.Nhân gần của nó là sắc được phân giới hạn.Và
nhờ nó mà người ta có thể nói về các sắc pháp là
"cái này ở trên, dưới, hay xung quanh cái kia".
64. Khinh khoái của
sắc có đặc tính là không chậm chạp. Nhiệm vụ nó là
xua tan tính cách nặng nề của sắc. Nó được biểu hiện
là tính dễ biến đổi, nhẹ nhàng. Nó có nhân gần là vật
chất nhẹ (sắc khinh khoái).
Nhu nhuyến
của sắc có đặc tính là không cứng đờ. Nhiệm vụ nó
là xua tan tính cứng đờ của sắc. Nó được biểu hiện bằng
sự không chống đối bất cứ loại hoạt động nào. Nhân
gần của nó là sắc nhu nhuyến.
Kham nhậm
của sắc có đặc tính là dễ sử dụng thuận tiện cho
hành động của thân. Nó có nhiệm vụ là xua đuổi tính
khó sử dụng. Nó được biểu hiện là tính không yếu ớt.
Nhân gần nó là sắc dễ sử dụng.
65. Ba đặc tính sau
cùng này, tuy vậy, không tách rời nhau. Nhưng sự khác biệt
giữa chúng có thể được hiểu như sau. Khinh khoái là sự
thay đổi của sắc như tình trạng nhẹ nhàng trong thân thể
người khỏe mạnh, tìnhtrạng không chậm chạp, tình trạng
dễ biến đổi nơi sự vật, nhờ có những điều kiện
ngăn sự rối loạn tứ đại đưa đến tính uể oải chậm
chạp c?a sắc. Nhu nhuyến của sắc là sự thay đổi của
sắc như bất cứ tình trạng mềm mại nào trong sắc pháp,
như trong một tấm da thuộc khéo đập, bất cứ tính dễ uốn
nào, dễ sử dụng vào mọi công việc. Tính ấy phát sinh do
những tình trạng ngăn chận sự xáo trộn tứ đại có thể
gây ra tính cứng đờ của sắc. Kham nhậm của sắc là
sự thay đổi của sắc như bất cứ tình trạng dễ sử dụng
nào của sắc pháp, như vàng khéo luyện. Ðó là sự thuận
tiện cho công việc của thân xác, nhờ có điều kiện ngăn
chận xáo trộn tứ đại gây bất tiện cho công việc.
66. Sanh của sắc
có đặc tính là dựng nên. Nhiệm vụ nó là làm cho các sắc
pháp nổi lên đầu tiên. Nó được biểu hiện là sự tung
ra, khởi đầu, hoặc tình trạng đã hoàn thành. Nhân gần
nó là sắc sanh.
Tương tục
của sắc có dặc tính là sinh khởi. Nhiệm vụ nó là neo lại.
Nó được bieuå hiện bằng sự không gián đoạn. Nhân gần
nó là vật chất cần được neo lại. Cả hai từ ngữ này
đều chỉ sắc vào lúc sanh ra, nhưng do sự khác nhau về
hình thái, và do giáo hóa những hạng người khác nhau, mà
giáo lý trong Uddesa và trong Dhammasangani nói
"sanh và tương tục". Nhưng vì ở đây không có gì
khác nhau về ý nghĩa, nên trong phần mô tả (niddesa) về
những tiếng này, nói "Sự lập thành các căn là sự
sanh của sắc, và sự sanh ra của sắc là sự tương tục của
nó".
67. Và trong luận, sau
khi nói "Chính nguồn gốc gọi là lập thành, và tăng
trưởng gọi là sanh, phát sinh gọi là tương tục", có
cho một ví dụ: "Lập thành là như thơì gian nước vào
một lỗ đào bên bờ sông, tăng trưởng là như thời gian
nước đầy lỗ, tương tục là thời gian nước tràn
ra", và cuối ví dụ nói: "Vậy muốn nói cái gì? Lập
thành là căn, căn dụ cho sự lập thành". Chính sự sanh
ra đầu tiên của sắc pháp gọi là thành lập, sự
sinh ra những thứ khác thêm vào sắc này gọi là tăng
trưởng, sự sinh thêm các pháp sau nữa là tương tục,
vì nó xuất hiện trong khía cạnh neo lại. Ðấy là điều cần
hiểu.
68. Già có đặc
tính là làm chín mùi sắc pháp. Nhiệm vụ nó là tiếp tục
dẫn đến sự chấm dứt. Nó được biểu hiện là sự mất
tính cách mới mẻ mà không mất tự tính, như cái già của
lúa. Nhân gần nó là sắc đang chín mùi. Ðây là nói đến
loại già rõ rệt do thấy thay đổi về răng, vv. như gãy, rụng.
Nhưng cái già của vô sắc pháp thì không có những đổi
thay rõ rệt như vậy, gọi là già ngấm ngầm. Và sự già
ở trong đất, đá, trăng, trời... gọi là già không ngừng.
69. Vô thường của
sắc có đặc tính là tan rã hoàn toàn. Nhiệm vụ nó là
làm cho sắc pháp chìm xuống. Nó được biểu hiện bằng sự
hoại diệt rụng rơi, nhân gần nó là sắc hoàn toàn tan
rã.
70. Ðoàn thực
có đặc tính làm dưỡng chất. Nhiệm vụ nó là nuôi dưỡng
những loại sắc. Nó được biểu hiện bằng sự làm cho rắn
chắc. Nhân gần nó là một thân căn cần được nuôi dưỡng
bằng đoàn thực. Ðấy là một danh từ chỉ dưỡng chất
nhờ đó hữu tình sống được.
71. Trên đây là những
sắc pháp đã được truyền tụng qua kinh điển. Nhưng trong
Luận, có những pháp khác đã được thêm vào như sau: sắc
kể như năng lực, sắc kể như sự sinh sản, sắc kể như
sự sanh ra, và sắc kể như bệnh, và một số người kể
thêm, sắc kể như sự hôn trầm. Trước tiên, "sắc kể
như hôn trầm" bị bác bỏ vì câu: "Chắc chắn khi
ông là bậc thánh đã giác ngộ, thì không có triền cái
nào nơi ông." Những cái còn lại, thì "sắc kể như
bệnh" được bao gồm trong lão và vô thường,
"sắc kể như sự sanh ra" gồm trong tăng trưởng và
tương tục, "sắc kể như sinh sản" gồm trong thủy
giới, và "sắc kể như năng lực" gồm trong phong giới.
Vậy xét từng pháp riêng rẻ thì không một pháp nào trong
đây thực hữu. Ðây là điểm đã được đồng ý. Vậy sở
tạo sắc gồm trong 24 món trên, và đại chủng sắc gồm bốn,
tất cả cọng thành 28 thứ không hơn không kém.
72. Và tất cả sắc
pháp gồm 28 loại trên đều thuộc một loại là vô nhân,
phi nhân, tách rời nhân, hữu duyên, thuộc thế gian, hữu lậu,
vv. Nó thuộc hai loại, là nội sắc và ngoại sắc, thô tế,
xa gần, sở tạo phi sở tạo, tịnh sắc phi tịnh sắc, căn
sắc phi căn sắc, hữu chấp thủ phi hữu chấp thủ vv...
73. Năm thứ mắt tai
mũi lưỡi thân gọi là nội sắc vì chúng sinh ra như
một phần của toàn thể con người, những gì còn lại là ngoại
sắc vì ở ngoài con người. Chín thứ gồm năm thứ trên,
cộng thêm sắc thanh hương vị, và địa hỏa phong ba giới,
làm thành 12 thứ được xem là sắc thô vì có sự tiếp
xúc, còn lại là tế vì ngược lại. Cái gì tế gọi
là viễn sắc vì khó vào sâu, thô là cận sắc
vì dễ vào. Mười tám thứ gồm bốn đại, đoàn thực và
13 thứ khởi từ mắt, gọi là tịnh sắc vì chúng là
điều kiện để nhận biết các pháp sắc, vv., vì chúng
sáng như mặt gương. Còn lại là phi tịnh sắc vì ngược
với tịnh sắc. Tịnh sắc, nam, nữ căn và mạng căn gọi là
căn sắc vì tính nổi bật, còn lại là phi căn sắc
vì ngược lại với căn sắc. Những thứ đề cập sau đây,
kể như nghiệp sanh, gọi là hữu chấp thủ, còn lại
là phi hữu chấp thủ.
74. Lại nữa, tất cả
sắc đều thuộc ba loại theo bộ ba hữu kiến, vv. bộ ba
nghiệp sanh, vv. Ở đây, về sắc thô, thì một vật có thể
thấy được gọi là sắc hữu kiến, hữu đối, còn
lại là vô kiến, hữu đối. Tất cả tế sắc là vô
kiến vô đối.
75. Theo bộ ba nghiệp
sanh vv. thì sắc do nghiệp sinh gọi là nghiệp sanh, do
duyên nào khác gọi là phi nghiệp sanh, không do cái gì
sanh cả gọi là phi nghiệp sanh, phi phi nghiệp sanh. Sắc
do tâm sinh gọi là tâm sanh, do duyên ngoài tâm gọi là
phi tâm sanh, không do cái gì trong tâm ngoài tâm gọi
là phi tâm sanh phi phi tâm sanh.
Sắc do đồ ăn sanh gọi
là thực sanh, ngoài đồ ăn là phi thực sanh,
không thuộc hai loại này gọi là phi thực, phi phi thực
sanh.
Sắc do thời tiết sanh
gọi là thời sanh, ngoài thời tiết là phi thời
sanh, loại thứ ba là phi
thời sanh, phi phi thời sanh
76. Lại nữa sắc thuộc
bốn loại là kiến văn giác tri; là sắc sắc, hạn giới sắc,
biến hóa sắc, tướng sắc; là căn sắc, môn sắc, căn môn
sắc, phi căn phi môn sắc. Sắc xứ là được thấy vì là
đối tượng của sự thấy (kiến). Thanh xứ là được nghe
vì là đối tượng của nghe (văn); hương vị xúc xứ là
được biết (giác) vì là đối tượng cảm giác. Còn lại
là được nhận thức (tri) vì là đối tượng của tâm mà
thôi.
77. Sở tạo sắc gọi
là sắc sắc, không giới là hạn giới sắc. Sắc
kể từ thân biểu cho đến kham nhậm gọi là biến hóa sắc,
sanh già chết là tự tánh sắc.
78. Cái được gọi là
sắc của nhục đoàn tâm là căn sắc, phi môn sắc,
hai biểu sắc là môn, phi căn. Tịnh sắc vừa là căn
vừa là môn. Còn lại là phi căn phi môn.
79. Sắc thuộc năm loại
là sanh từ 1 pháp, từ 2, 3, 4 pháp, và không sanh từ pháp
nào. Từ 1 pháp là chỉ do nghiệp sanh hoặc chỉ do tâm sanh.
Như sắc của các căn, cùng tâm cơ, là chỉ do nghiệp
sanh. Hai biểu sắc là chỉ do tâm sanh. Còn cái gì
khi do thời tiết sanh, khi do tâm sanh, gọi là sanh từ hai
pháp. Ðây chỉ cho thanh xứ. Sắc sanh từ thời tiết,
tâm và thực tố, gọi là sanh từ ba pháp: gồm ba thứ
kể từ khinh khoái. Sắc sanh từ bốn pháp (nghiệp, tâm, thời,
thực) gọi là sanh từ bốn pháp, chỉ cho tất cả loại sắc
còn lại ngoại trừ tướng sắc.
80. Nhưng tướng sắc
thì gọi là không do gì sanh. Tại sao? Vì không có sự
sinh khởi của sinh, còn già và chết chỉ là sự chín mùi
và tan rã của cái đã sanh. Mặc dù có đoạn nói: "Sắc,
thanh, hương, vị, xúc, không giới, thủy giới, khinh khoái,
nhu nhuyến, kham nhậm, sanh, tương tục, thực sắc: những
pháp này là do tâm sanh" điều muốn nói trong đoạn
này (Dhs. 667) là cái sát-na trong đó những duyên sinh
ra các loại sắc đang làm nhiệm vụ.
Trên đây là giải
thích chi tiết về sắc uẩn.
Tâm
Uẩn
81. Trong những uẩn
còn lại, cái gì có đặc tính cảm thọ cần được hiểu
là thọ uẩn. Cái gì có đặc tính nhận thức,
cần được hiểu là tưởng uẩn, có đặc tính
tạo tác là hành uẩn, có đặc tính phân biệt
là thức uẩn. Vì những cái khác sẽ trở nên dễ
hiểu khi đã hiểu thức uẩn, nên ở đây ta sẽ bàn thức
uẩn trước hết.
82. "Bất cứ gì
có đặc tính biết, nói chung đều gọi là thức uẩn",
trên đây dã nói. Và cái gì có đặc tính nhận biết?
Chính là tâm thức. Những danh từ thức, tâm
và ý đều có cùng một nghĩa.
89
Loại Tâm
Tâm thức ấy mặc dù
chỉ là một trong tự tánh với đặc tính là nhận biết,
song có ba loại là thiện, bất thiện và bất định.
83. Thiện tâm gồm
bốn loại theo cõi là dục, sắc, vô sắc và siêu thế.
Tám tâm thuộc dục giới
được xếp loại theo hỉ, xả, trí, và nhắc bảo,
nghĩa là:
(1) Khi câu hữu với
hỉ, tâm ấy hoặc tương ưng với trí, cần nhắc bảo hoặc
(2) không cần nhắc bảo.
(3) câu hữu hỉ, không tương ưng trí, cần nhắc bảo
(4) câu hữu hỉ, không tương ưng trí, không cần nhắc bảo
(5) câu hữu xả, tương ưng trí, cần nhắc bảo
(6) câu hữu xả, tương ưng trí, không cần nhắc bảo
(7) câu hữu xả, không tương ưng trí, cần nhắc bảo
(8) câu hữu xả, không tương ưng trí, không cần nhắc bảo.
84.
(1) Khi một người sung
sướng vì gặp được một tặng phẩm tuyệt hảo để làm
quà, hay vì gặp được một người nhận, vv. hay một nguyên
nhân nào tương tự làm phát sinh hỉ, và đặt chánh kiến
lên hàng đầu, như nghĩ rằng "bố thí có công đức lớn",
người ấy không do dự, không cần nhắc bảo khi làm những
công đức bố thí, vv.thì tâm ấy là câu hữu với hỉ, tương
ưng trí, không cần nhắc bảo.
(2) Khi một người sung
sướng hài lòng như trên, và cũng đặt chánh kiến hàng đầu
nhưng làm với sự do dự vì tâm không rộng rãi, hoặc cần
được người khác nhắc bảo, thì tâm vị ấy thuộc loại
thứ hai. "Nhắc bảo" là một nỗ lực của chính người
ấy hay người khác.
85. (3) Khi những em bé
có thói quen tự nhiên do bắt chước người lớn, khi gặp tỷ
kheo thì cúng dường bất cứ gì đang cầm trong tay, hoặc đảnh
lễ, thì đó là loại tâm thứ ba.
(4) Khi các em ấy chỉ
xử sự như thế vì người lớn bảo "cúng đi, đảnh lễ
đi", đó là loại tâm thứ tư.
(5) - (8) Khi không có hỉ
trong bốn trường hợp trên, thì những tâm này gọilà câu
hữu xả.
86. Tâm sắc giới có năm,
xếp loại theo thiền chi. Ðó là
(9) tương ưng với cả
năm thiền chi (tâm sơ thiền)
(10) tương ưng tứ, hỉ, lạc, nhất tâm.
(11) tương ưng hỉ, lạc, nhất tâm
(12) tương ưng lạc, nhất tâm.
(13) tương ưng xả và nhất tâm, vì lạc đã lắng xuống.
87. Tâm vô sắc giới
có bốn, tương ưng bốn vô sắc là
(14) tâm tương ưng với
Không vô biên xứ
(15) - (17) tương ưng Thức
vô biên, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
88. Tâm siêu thế có bốn,
là:
(18-21) tương ưng với bốn đạo lộ.
Vậy thiện tâm có 21
loại.
89. Bất thiện tâm
có một loại theo cõi, vì chỉ thuộc dục giới. Nó có ba
loại nếu kể theo nhân, là tham, sân, si.
90. Tâm bất thiện do tham
có 8 loại, theo hỉ, xả, tà kiến và nhắc bảo. Ðó là:
(22) câu hữu vơí hỉ,
tương ưng tà kiến, không cần nhắc bảo
(23) câu hữu vơí hỉ, tương ưng tà kiến, cần nhắc bảo.
(24) câu hữu vơí hỉ, không tương ưng tà kiến, không cần
nhắc bảo
(25) câu hữu vơí hỉ, không tương ưng tà kiến, cần nhắc
bảo.
(26) câu hữu với xả, tương ưng tà kiến, không cần nhắc
bảo
(27) câu hữu với xả, tương ưng tà kiến, cần nhắc bảo
(28) câu hữu với xả, không tương ưng tà kiến, không cần
nhắc bảo
(29) câu hữu với xả, không tương ưng tà kiến, cần nhắc
bảo.
91. Khi một người sung
sướng hài lòng, đặt tà kiến lên hàng đầu, như bảo:
"Dục lạc không nguy hiểm gì", và hưởng dục với
tâm trạng hăng hái không cần nhắc bảo, hoặc tin vào những
điềm triệu, vv. đấy là loại tâm thứ nhất (22). Khi làm
thế với tâm yếu ớt cần được nhắc bảo, đó là loại
tâm thứ hai(23). Nhưng khi một người hài lòng sung sướng,
mà không đặt tà kiến lên hàng đầu, thọ hưởng nhục dục
hay sự may mắn của người, trộm cắp của người với tâm
hăng hái không cần nhắc bảo, thì đó là loại tâm thứ ba
(24). Khi làm thế với tâm uể oải cần nhắc bảo, đó là
loại tâm thứ tư (25). Khi tâm không có hỉ đi kèm trong cả
bốn trường hợp nói trên, do không thấy gì tuyệt hảo
trong dục lạc, hoặc thiếu cái nhân để gợi hoan hỉ, thì
bốn loại tâm câu hữu xả sinh khởi.
Vậy bất thiện tâm
có nhân là tham, gồm có tám loại như trên.
92. Tâm có nhân sân
thuộc hai loại:
(30) câu hữu với ưu,
tương ưng với hận, cần nhắc bảo
(31) câu hữu với ưu, tương ưng với hận, không cần nhắc
bảo. Ðó là loại tâm khởi lên khi giết chúng sinh, vv. với
tâm nhanh nhẹn (không cần nhắc bảo) hoặc uể oải (cần
nhắc bảo).
93. Tâm có nhân si
thuộc hai loại:
(32) câu hữu với xả,
tương ưng với nghi, và
(33) câu hữu với xả, tương ưng với trạo cử. Ðó là loại
tâm khởi lên vào những lúc không quyết định (nghi) hoặc
lúc bị chia trí (tán loạn). Như vậy, bất thiện tâm gồm
12 loại như trên.
94. Tâm bất định
có hai loại, là dị thục và duy tác. Dị thục có bốn
loại phân theo cõi, là dục giới, sắc giới, vô sắc giới
và siêu thế.
Tâm thuộc dục giới
có hai loại là thiện dị thục và bất thiện dị thục.
Thiện dị thục có hai
loại là vô nhân và hữu nhân.
95. Thiện dị thục
vô nhân là tâm không có vô tham, vv. làm nhân cho quả dị
thục. Có tám loại, là
(34)-(38) nhãn thức, nhĩ,
tỉ, thiệt, thân thức.
(39) ý giới với nhiệm vụ tiếp thọ.
(40)-(41) hai ý thức giới với nhiệm vụ suy đạt, vv.
96. Nhãn thức
(34) có đặc tính được hỗ trợ bởi con mắt, và nhận biết
sắc pháp. Nhiệm vụ nó là chỉ có sắc pháp làm đối tượng.
Nó được biểu hiện là sự quan tâm đến sắc pháp. Nhân
gần nó là sự ra đi của ý giới duy tác (70) lấy sắc
pháp làm đối tượng. Tai, mũi, lưỡi, thân thức (35-38) có
các đặc tính được trợ giúp b?i tai, mũi, lưỡi, thân,
và nhận biết các đối tượng tiếng, mùi, vị, xúc. Chúng
có nhiệm vụ đặc trách về tiếng, mùi, vị, xúc. Biểu hiện
của chúng là sự quan tâm đến các đối tượng này, và
nhân gần của chúng là sự ra đi của duy tác ý giới (70)
có đối tượng là thanh, hương, vị, xúc.
97. Dị thục ý giới
(39) có đặc tính là nhận biết sắc, vv. kế tiếp nhãn
thức, vv. vụ nó là nhận biết sắc, vv.Nó được biểu hiện
bằng tình trạng thu nhận sắc, vv. Nhân gần nó là sự ra
đi của nhãn thức, vv. Nhiệm vụ nó là nhận biết sắc,
vv. Nó được biểu hiện bằng tình trạng thu nhận sắc,
vv. Nhân gần nó là sự ra đi của nhãn thức, vv.
Dị thục ý thức giới
vô nhân (40-41), với nhiệm vụ suy đạt cũng thế, có đặc
tính là tính nhận biết sáu loại đối tượng. Nhiệm vụ
nó là suy đạt, nó được biểu hiện là trạng thái suy đạt
tương đương với nhiệm vụ trên. Nhân gần nó là tâm cơ.
98. Nhưng nó được phân
loại tùy theo tương ưng với hỉ hay với xả, và tùy theo
nó được chia thành lộ trình tâm với hai vị trí hay với
năm vị trí. Vì trong hai tâm dị thục vô nhân này thì một
tâm (40) tương ưng với hỉ, hiện diện khi có những đối
tượng hoàn toàn đáng ưa khởi lên, và có hai vị trí trong
lộ trình tâm: khởi lên ở năm căn môn (ngũ môn hướng tâm)
gọi là tâm suy đạt (santirana), khởi cuối tốc hành
tâm gọi là đồng sở duyên (tad-àrammana). Tâm kia (41)
tương ưng với xả vì nó hiện diện khi có những đối tượng
khả ý và trung tính khởi lên, và có năm vị trí: ở tâm
suy đạt, đồng sở duyên, kiết sanh, hữu phần và tử
tâm.
99. Tám tâm dị thục
vô nhân nói trên thuộc hai loại, tùy đối tượng bất biến
hay hằng biến. Nó thuộc ba loại nếu xếp theo thân lạc,
tâm hỉ, và xả. Năm tâm từ số (34) đến (38) mỗi thứ có
một đối tượng bất biến. Những tâm khác, từ (39) đến
(41), thì có một đối tượng hằng biến, vì ý giới (39)
sinh khởi tương ưng với cả năm đối tượng (sắc, vv.) và
hai ý thức giới (40), (41), có hai vị trí như đã nói trên,
tương ưng với hỉ và xả.
Như vậy, tâm thiện dị
thục vô nhân có tám loại.
100. Thiện dị thục hữu
nhân:
(42) đến (49) là những
tâm tương ưng vô tham vô sân vô si làm nhân cho quả dị thục.
Nó thuộc tám loại vì xếp theo hỉ, xả, trí và nhắc bảo,
y như thiện tâm dục giới (1) đến (8). Nhưng nó không khởi
tương ưng sáu đối tượng (sáu đối tượng được xếp
loại thành hữu hạn, vv. quá khứ, vv.nội, vv.-Pm.474) qua sự
bố thí, vv. như thiện tâm, vì nó chỉ khởi lên tương ưng
với sáu đối tượng được gồm trong những tâm hữu hạn,
như kiết sanh, hữu phần, tử tâm và đồng sở duyên tâm.
Nhưng những tâm cần nhắc bảo và không cần nhắc bảo ở
đây là do nguồn gốc nó từ đâu đến.
[Chú thích: "nguồn
gốc nó từ đâu đến" có nghĩa là nguồn gốc và điều
kiện của nó. Theo quan điểm vài vị thầy, thì quả dị
thục của thiện không cần nhắc bảo là không cần nhắc
bảo, còn dị thục của cần nhắc bảo là có cần nhắc
bảo. Như sự di động của cái bóng phản chiếu trong gương
khi mặt di động, nên nói "do nguồn gốc từ đâu đến".Nhưng
theo quan điểm vài vị khác, thì tâm không cần nhắc bảo
khởi lên khi có nghiệp cường thịnh làm duyên, và tâm cần
nhắc bảo là do nghiệp yếu kém, nên nói là "do điều
kiện của nó". -- Pm. 474]
Và trong khi không có sự
dị biệt nào trong những trạng thái tương ưng, "dị thục"
cần hiểu là thụ động, như ảnh trong gương, còn "thiện"
là chủ động, như cái mặt.
101. Bất thiện dị
thục chỉ có vô nhân mà thôi, gồm bảy loại:
(50) nhãn thức
(51)-(54) nhĩ, tỉ, thiệt thân thức.
(55) ý giới với nhiệm vụ tiếp thọ
(56) ý thức giới với nhiệm vụ suy đạt, vv. và có năm vị
trí. Về đặc tính, vv. tương tự thiện dị thục vô nhân,
(34-41).
102. Nhưng thiện dị
thục thì chỉ có những đối tượng khả ý hoặc khả
ý trung tính mà thôi, trong khi bất thiện dị thục chỉ có
những đối tượng bất khả ý hoặc bất khả ý trungtính
mà thôi. Thiện dị thục thì có ba loại, được xếp theo xả,
thân lạc và tâm hỉ, còn bất thiện dị thục thì có hai
loại, xếp theo thân khổ và xả. Vì ở đây chỉ có thân
thức là câu hữu với thân khổ, những thức khác câu hữu
với xả. Và xả trong những thức này thấp kém, không sắc
mạnh như khổ, trong khi ở thiện dị thục, xả cao độ
hơn và không sắc mạnh như lạc.
Như vậy, với bảy loại
bất thiện dị thục này và 16 thiện dị thục trước, tâm
dị thục dục giới có 23 loại.
103. Tâm sắc giới
thuộc năm loại;
(57)-(61) giống như tâm
thiền (9-13), nhưng thiền phát khởi ở một lộ trình tâm với
những tốc hành tâm kể như sự chứng thiền, trong khi tâm
này khởi lên ở một hiện hữu trong sắc giới kể như kiết
sanh, hữu phần và tử tâm.
104. Và cũng như tâm sắc
giới giống như thiền tâm thuộc giới ấy, tâm vô sắc giới
cũng có bốn:
(62)-(65) là tâm thuộc
về không vô biên xứ, vv. như (14-17). Sự sanh khởi của nó
cũng được xếp loại như đã nói về tâm sắc giới.
105. Tâm dị thục siêu
thế có bốn:
(66-69), đó là quả của
những tâm tương ưng bốn đạo lộ, (18-21). Nó sanh khởi
theo hai cách, kể như quả trong tâm lộ trình thuộc đạo, và
kể như sự chứng quả (sẽ đề cập ở Ch. 22). Như vậy,
tâm dị thục trong cả bốn phạm vi gồm có 36 loại.
106. Duy tác tâm
thuộc ba loại theo cõi: dục giới, sắc giới, vô sắc giới.
Dục giới gồm hai loại, vô nhân và hữu nhân. Vô nhân
là tâm không có vô tham, vv. làm nhân cho quả dị thục. Có
hai loại là ý giới và ý thức giới.
107.
(70) Ý giới có đặc tính
làm tiền đạo cho nhãn thức, vv. và nhận biết các đối
tượng sắc thanh vv. Nhiệm vụ nó là hướng tâm đến sắc
pháp, vv. Nó được biểu hiện là sự chạm xúc với các đối
tượng ấy. Nhân gần của nó là sự gián đoạn dòng hữu
phần tương tục. Nó chỉ tương ưng với xả.
108. Nhưng ý thức giới
thì có hai loại, chung và không chung (cộng, bất cộng):
(71) Chung là ý thức
giới duy tác vô nhân câu hữu với xả. Nó có đặc tính
nhận biết sáu loại đối tượng. Nhiệm vụ nó là xác
định ở ngũ môn và hướng tâm ở ý môn. Nó được
biểu hiện bằng trạng thái xác định và trạng thái hướng
tâm ấy. Nhân gần nó là sự ra đi của ý thức giới dị
thục vô nhân(40-41) trong trường hợp đầu, hoặc của một
trong các loại hữu phần trong trường hợp sau. (72) Không
chung là ý thức giới duy tác vô nhân câu hữu với hỉ.
Nó có đặc tính nhận biết sáu loại đối tượng. Nhiệm
vụ nó là làm phát sinh nụ cười nơi vị La hán về những
chuyện không có gì cao siêu. Nó được biểu hiện bằng trạng
thái tương ưng với nhiệm vụ ấy. Nhân gần nó là tâm cơ.
Vậy, tâm duy tác vô
nhân thuộc dục giới có ba loại.
109. Tâm duy tác hữu
nhân ở dục giới có tám loại:
(73)-(80): giống như thiện
tâm dục giới (1-8) được xếp theo câu hữu với hỉ, vv.
Nhưng trong khi thiện tâm chỉ khởi lên ở bậc phàm phu hữu
học, thì tâm duy tác hữu nhân chỉ khởi lên nơi vi A-la-hán.
Ðó là sự khác biệt.
Như vậy tâm duy tác dục
giới có 11 loại.
Tâm duy tác sắc giới có năm loại:
(81)-(85) và vô sắc giới
có bốn:
(86)-(89), cả hai loại đều giống thiền tâm sắc giới và
vô sắc, nhưng tâm duy tác thì chỉ khởi lên nơi vị A-la-hán.
Tóm lại, tâm duy tác
ở cả ba cõi gồm 20 loại.
110. Như thế, 21 loại
thiện tâm, 12 bất thiện, 36 dị thục và 20 duy tác cộng
thành 89 loại tâm. Tất cả tâm này sanh khởi theo 14 kiểu
là: kiết sanh, hữu phần, tác ý (hướng tâm), thấy, nghe,
ngửi, nếm, sờ, tiếp thọ, suy đạt, xác định, tốc hành,
đồng sở duyên, và tử tâm.
Mười bốn
hình thái khởi tâm
111. Khi chúng sinh được
tái sinh ở loài người và chư thiên do ảnh hưởng của tám
loại thiện tâm dục giới (1-8), vào lúc ấy tám loại tâm
dục giới dị thục hữu nhân (42-49) phát sinh, đồng thời
cũng phát sinh ý thức giới vô nhân tương ưng với xả
(41), tâm này là quả thiện yếu ớt với hai nhân (nghĩa là
chỉ có vô tham vô sân) nơi những người đang đi vào tình
trạng những kẻ bán nam bán nữ trong loài người. Như vậy
tất cả có chín loại tâm dị thục sanh, kể như kiết
sanh và chúng khởi lên với bất cứ gì làm đối tượng
trong ba thứ nghiệp, nghiệp tướng hay thú tướng xuất hiện
vào lúc chết (xem đoạn 120, Ch. 17).
[Chú thích: Nghiệp
là thiện nghiệp tích lũy ở dục giới đã được cơ hội
chín mùi, nên nói "xuất hiện". Nghiệp tướng là
của bố thí đã cho, làm duyên cho ý hành vào lúc tích lũy
nghiệp. Thú tướng là sắc xứ ở trong cõi (thú) mà người
ấy sắp tái sanh vào. -- Pm. 477]
112. Khi hữu tình được
sanh vào các cõi sắc và vô sắc do ảnh hưởng của thiện
tâm thuộc sắc (tức là năm thiền tâm, 9-13) và vô sắc
(14-17), vào lúc ấy chín loại tâm dị thục thuộc sắc giới
(57-61) và vô sắc giới (62-65) khởi lên kể như kiết sanh,
với đối tượng là nghiệp tướng xuất hiện vào lúc chết.
["Nghiệp tướng"
ở đây là như một kasina đất, vv. xuất hiện trong tâm
thức người tu thiền biến xứ.]
113. Khi hữu tình tái
sanh vào đọa xứ do ảnh hưởng của 12 tâm bất thiện
(22-33), thì lúc ấy một loại tâm dị thục bất thiện là
ý thức giới vô nhân (56) sanh khởi kể như kiết sanh, lấy
đối tượng là một trong ba thứ nghiệp, nghiệp tướng, thú
tướng xuất hiện vào lúc chết.
Trên đây là sự sanh
khởi 19 loại tâm dị thục vào lúc kiết sanh, kể như tâm
kiết sanh.
114. Khi tâm kiết sanh
đã ngưng, thì lúc đó, tiếp theo bất cứ loại kiết sanh
nào có thể xảy đến, xuất hiện những loại tâm tương tự,
vì là hậu quả của cùng một nghiệp, những tâm này được
kể như tâm hữu phần với cùng đối tượng, và lại tiếp
theo cùng những loại ấy.
[Chú thích: "Với
cùng một đối tượng": nếu nghiệp là đối tượng
của hưũ phần, thì đối tượng là nghiệp ấy, nếu nghiệp
tướng hay thú tướng là đối tượng, cũng vậy]
Và bao lâu không có loại
tâm nào khác khởi lên ngăn dòng tương tục, thì chúng cứ
sanh khởi bất tận trong những thời gian ngủ không mộng mị,
vv. như dòng nước ngầm của một con sông. Trên đây là sự
sanh khởi của 19 loại tâm hữu phần.
115. Với sự tương tục
hữu phần sanh khởi như vậy, khi các căn của hữu tình đã
đủ khả năng nắm lấy một đối tượng, thì khi đó, tỉ
dụ có một sắc pháp đi vào tầm mắt, tức thì nó sẽ đập
vào tịnh sắc của mắt. Lập tức, do ảnh hưởng sự xúc
chạm này, sẽ có một xáo trộn trong dòng tương tục hữu
phần. Rồi khi hữu phần ngưng, thì ý giới duy tác (70) sanh
khởi, lấy chính sắc pháp ấy làm đối tượng, gián đoạn
dòng hữu phần và hoàn tất nhiệm vụ tác ý. Trường
hợp ở các căn môn khác cũng thế.
116. Khi một đối tượng
thuộc bất cứ loại nào trong sáu loại, đi vào ý môn, thì
kế tiếp sự xáo trộn hữu phần, ý thức giới duy tác vô
nhân (71) khởi lên câu hữu với xả, gián đoạn dòng hữu
phần hoàn tất nhiệm vụ tác ý.
Trên đây là sự sanh
khởi hai loại tâm duy tác được hiểu là sự tác ý.
117. Kế tiếp sự tác
ý, lấy nhãn môn trước, nhãn thức khởi lên hoàn tất
nhiệm vụ "thấy" trong nhãn môn, với mắt tịnh sắc
làm cơ sở vật lý. Cũng vậy tai, mũi, lưỡi và thân thức
sanh, hoàn tất nhiệm vụ nghe, ngửi, vv. ở nhĩ môn, vv. Những
loại này bao gồm các tâm thiện dị thục (34-38) tương ưng
với các cảnh khả ý và khả ý trung tính, cùng những bất
thiện dị thục (50-54) tương ưng với các cảnh bất khả
ý và bất khả ý trung tính. Ðấy là sự sanh khởi mười
loại tâm dị thục thấy, nghe, ngửi, nếm, sờ.
118. Do câu "Sau
khi nhãn thức khởi và diệt, liền đó khởilên ý thức,
ý, tâm... nghĩa là ý giới thích ứng" (Vbh. 88), ý giới
tiếp liền sau nhãn thức, vv. tiếp thọ những đối tượng
của năm thức trước. Nó được gọi là thiện dị thục
ý giới (39) nếu kế tiếp thiện dị thục nhãn thức,
và bất thiện dị thục ý giới (55) nếu kế tiếp bất
thiện dị thục nhãn thức, vv.
Trên đây là sự sanh
khởi hai loại dị thục tâm kể như tiếp thọ tâm.
119. Do câu "Sau khi
ý giới khởi và diệt, kế tiếp lại khởi lên ý thức,
ý, tâm... tức là ý thức giới thích ứng (Vbh. 89)",
khi ấy ý thức giới dị thục vô nhân khởi lên, suy đạt
cái đối tượng đã được ý giới tiếp thọ. Nếu nó tiếp
theo sau dị thục ý giới bất thiện (55) thì nó là dị
thục ý thức giới bất thiện (56), và khi nó tiếp theo
thiện dị thục ý giới (39) thì nó là thiện dị thục ý
thức giới câu hữu với hỉ (40) nếu đối tượng là khả
ý, hoặc nó là thiện di thục ý thức giới câu hữu với xả
(41) nếu đối tượng là khả ý trung tính. Ðấy là sự
sanh khởi ba loại tâm dị thục được hiểu là suy đạt
tâm.
120. Tiếp theo suy đạt,
ý thức giới duy tác vô nhân (71) khởi lên câu hữu xả,
xác định đối tượng ấy. Ðây là sự sanh khởi của
một loại dị thục tâm kể như xác định tâm.
121. Tiếp theo xác định,
nếu đối tượng là sống động, thì khi ấy có sáu bảy tốc
hành tâm khởi lên tương ưng với đối tượng được xác
định.
[Chú thích:"sống
động" có nghĩa là nó kéo dài 14 tâm sát-na, và cần
hiểu rằng đối tượng đã đi vào hai hoặc ba sát-na rồi
tâm mới sanh khởi.-- Pm. 479]
Những tốc hành tâm
này là một trong tám loại thiện tâm dục giới (1-8), hoặc
12 bất thiện tâm dục giới (22-33), hoặc chín tâm duy tác dục
giới (72-80). Ðấy là trường hợp đối với ngũ môn. Nhưng
trong trường hợp ý môn, thì cũng những tốc hành tâm ấy
sanh khởi kế tiếp ý môn hướng tâm (71).
Sau giai đoạn chuyển tánh,
bất cứ loại nào trong 26 loại tốc hành tâm sau đây - loại
nào đủ duyên để sanh khởi kế tiếp chuyển tánh - sẽ
sanh:đó là một trong 5 thiện tâm (9-13), 5 duy tác tâm (81-85)
thuộc sắc giới, bốn thiện tâm vô sắc (14-17), 4 duy tác
vô sắc (86-89), 4 đạo tâm (18-21) và 4 quả tâm (66-69) thuộc
siêu thế.
Trên đây là sự sanh
khởi của 55 loại tâm thiện, bất thiện, dị thục và duy
tác kể như tốc hành tâm.
122. Cuối những tốc
hành tâm, nếu đối tượng là rất sống đống động ở
ngũ môn, hoặc rất rõ rệt ở ý môn, thì khi ấy, nơi loài
hữu tình dục giới, dị thục tâm khởi lên do bất cứ
duyên nào có được, như nghiệp về trước, hoặc tốc hành
tâm, vv. với đối tượng khả ý hoặc bất khả ý.
[Chú thích: Một đối
tương rất sống động là đối tượng có đời sống dài
16 tâm sát-na. Vì tâm 'đồng sở duyên' chỉ khởi lên tương
ưng với đối tượng này mà thôi. -- Pm. 479]
Vậy dị thục tâm khởi
lên kể như một trong tám loại (42-49) dị thục vô nhân thuộc
dục giới, hoặc ba loại (40, 41, 56) ý thức giới dị thục
vô nhân, khởi lên hai lần hoặc một lần, tiếp theo sau những
tốc hành tâm đã khởi, và tương ưng với một đối tượng
khác với đối tượng của hữu phần, như một ít nước
đi theo một lát sau đuôi một con thuyền đi ngược dòng. Mặc
dù sẵn sàng để sanh khởi với đối tượng của hữu phần
sau khi những tốc hành tâm đã chấm dứt, nó lại sanh khởi
với đối tượng là đối tượng của những tốc hành
tâm, nên nó được gọi là "đồng sở duyên" tâm
(nghĩa là, có cùng một đối tượng). Ðấy là sự sanh khởi
của 11 loại dị thục tâm được hiểu là đồng sở duyên
tâm.
123. Ở cuối tâm đồng
sở duyên, hữu phần trở lại sự sanh khởi của nó. Khi hữu
phần tâm lại bị gián đoạn, thì sự tác ý (hướng tâm)
lại khởi lên, và nếu đủ điều kiện (duyên), tính tương
tục của tâm lại sanh khởi kể như hướng tâm, thấy nghe,
vv., theo quy luật lộ trình tâm, mãi mãi như vậy cho đến
khi hữu phần của một hữu tình kiệt quệ. Tâm hữu phần
cuối cùng nơi một hữu tình gọi là "tử tâm" do
vì nó rơi khỏi hữu ấy ("tử tâm" tiếng Pàli là cuticitta,
chữ cuti do chữ cavati là rơi). Tử tâm cũng thuộc
vào 19 loại như kiết sanh và hữu phần. Ðấy là sự sanh
khởi của 19 loại dị thục tâm kể như tử tâm.
124. Và sau khi chết,
có kiết sanh trở lại, sau kiết sanh là hữu phần. Cứ thế
dòng tâm tương tục của các hữu tình vội vã chảy qua
các loại hữu, thú, thức trú, hữu tình cư, tiếp tục sanh
khởi không gián đoạn. Nhưng khi một người chứng quả
A-la-hán, thì dòng tương tục ấy chấm dứt với sự chấm
dứt của tử tâm nơi vị ấy.
Trên đây là giải
thích chi tiết về thức uẩn.
Thọ
Uẩn
125. Ở trên có nói:
"Bất cứ gì có đặc tính được cảm thấy, cần được
hiểu là thọ uẩn."(đ.81). Và đây cũng vậy, cái gì
có đặc tính dược cảm giác, chính là cảm giác, như kinh
dạy, "Này chư hiền, vì nó được cảm nhận, nên gọi
nó là thọ" (M. i, 293).
126. Mặc dù nó chỉ
có một, xét theo tự tính nó là "được cảm nhận",
thọ vẫn có ba loại là thiện, bất thiện và bất dịnh.
Ở đây, khi tương ưng với thiện tâm được kể trong Đoạn
83: "Tâm dục giới có 8 (1-8), được xếp theo hỉ, trí
và sự nhắc bảo", thì nó là thiện, thọ tương ưng với
bất thiện tâm là bất thiện, và thọ tương ưng với tâm
bất định là bất định.
127. Thọ có năm loại
phân tích theo tự tánh nó là thân lạc, thân khổ, tâm hỉ,
tâm ưu và xả. Lạc tương ưng với thiện dị thục
thân thức(38) và khổ tương ưng với bất thiện dị
thục thân thức (54). Hỉ tương ưng với 62 loại tâm
là: dục giới 4 thiện tâm (1-4), 4 dị thục vô nhân
(42-45), 1 dị thục vô nhân (40), 4 duy tác hữu nhân(73-76), 1
duy tác vô nhân (72), và 4 bất thiện (22-25); sắc giới
4 thiện tâm (9-12), 4 dị thục (57-60), và 4 duy tác (81-84), để
ra ngoài tâm của thiền thứ năm trong mỗi trường hợp.
Nhưng không có tâm siêu thế nếu không có thiền, do đó
tám loại tâm siêu thế (18-21 và 66-69) nhân cho năm thiền thành
ra 40, bỏ ra ngoài 8 tương ưng với thiền thứ năm, thì hỉ
tương ưng với 32 loại thiện dị thục còn lại. Ưu
tương ưng với hai loại bất thiện tâm (30-31). Xả tương
ưng với 55 loại tâm còn lại.
128. Lạc có đặc
tính là cảm nhận một xúc pháp khả ý. Nhiệm vụ nó là tăng
cường những tâm sở tương ưng. Nó được biểu hiện bằng
sự vui sướng của thân. Nhân gần nó là thân căn. Khổ
có đặc tính là cảm thọ một xúc pháp không đáng ưa. Nhiệm
vụ nó là làm héo tàn những trạng thái tương ưng. Nó có
biểu hiện là sự đau đớn của thân. Nhân gần nó là
thân căn. Hỉ có đặc tính là cảm thọ một đối
tượng khả ý. Nhiệm vụ nó là khai thác bằng cách này hay
khác, những khía cạnh đáng ưa. Nó được biểu hiện bằng
sự vui mừng trong tâm. Nhân gần nó là khinh an. Ưu có
đặc tính là cảm thọ một đối tượng không đáng ưa.
Nhiệm vụ nó là khai thác cách này hay khác, những khía cạnh
đáng ghét. Nó được biểu hiện bằng sự đau khổ về tâm.
Nhân gần nó là tâm cơ. Xả có đặc tính là cảm thọ
không vui không khổ. Nó có nhiệm vụ không tăng cường
cũng không giảm bớt những trạng thái tương ưng. Nó được
biểu hiện bằng sự an tĩnh. Nhân gần nó là tâm không có
hỉ.
Trên đây là chi tiết
về thọ uẩn.
Tưởng
Uẩn
129. Trên đây đã nói:
"Bất cứ gì có đặc tính nhận thức, nói chung cần hiểu
là tưởng uẩn" (đoạn 81). Mặc dù chỉ có một xét
theo tự tánh là nhận thức, tưởng gồm ba loại là thiện,
bất thiện và bất định. Cái gì tương ưng với thiện tâm
gọi là thiện, tương ưng với bất thiện tâm là bất thiện.
Vì không có tâm tách rời với tưởng, nên tưởng có cùng
một cách phân loại như tâm, nghĩa là gồm 89 loại.
130. Nhưng mặc dù được
phân thành 89 loại như tâm thức, song về đặc tính, vv. tưởng
chỉ có một, là nhận biết. Nhiệm vụ nó là làm một dấu
hiệu trở thành điều kiện để lần sau có thể nhận ra
"đây là một thứ như trước", như khi thợ mộc nhận
ra gỗ. Nó được biểu hiện bằng hành động giải thích
nhờ phương tiện các tướng đã nhận được, như người
mù "thấy" một con voi. Nhân gần nó là một đối
tượng khách quan xuất hiện bất cứ cách nào, như tưởng
khởi lên nơi một con diều hâu khi trông thấy "người"
bù nhìn.
Trên đây là giải
thích về tưởng uẩn.
Hành
Uẩn
131. Ở một đoạn trước
đã nói: "Bất cứ gì có đặc tính tạo tác, nói chung
gọi là hành uẩn" (đoạn 81). Cái gì có đặc tính tạo
tác, chính là cái có đặc tính tích tụ. Cái gì có đặc tính
tích tụ? Chính là các hành, như kinh dạy: "Này
các tỷ kheo, vì chúng tạo tác ra các pháp hữu vi, nên
chúng được gọi là các hành." (S. iii, 87).
132. Chúng có đặc tính
tạo tác. Nhiệm vụ chúng là tích tụ. Chúng được biểu
hiện bằng sự can dự vào. Nhân gần chúng là ba uẩn vô sắc
kia (thọ, tưởng, thức). Vậy, theo đặc tính, các hành là
một, nhưng theo loại thì có ba là thiện, bất thiện và bất
định. Khi tương ưng với thiện tâm thì hành ấy là thiện,
tương ưng bất thiện tâm là bất thiện và khi tương ưng với
tâm bất định thì hành là bất định.
Hành
Tương Ưng Với 89 Loại Tâm
133. Ðầu tiên, tương
ưng với thiện tâm dục giới có 36 hành, gồm 27 biến
hành tâm sở, bốn bất định và năm không thường.
27 tâm sở biến
hành là: xúc (phasso), tư (cetanà), tầm (vitakko),
tứ (vicàca), hỉ (pìti), tinh tấn (viriyam),
mạng căn (jìvitindriyam), định (samàdhi), tín (saddhà),
niệm (sati), tàm (hiri), quí (ottappam), vô
tham (alobho), vô sân (adoso), vô si (amoha),
tâm sở thư thái (kàyapassaddhi), tâm thư thái (cittapassaddhi),
tâm sở khinh an (cittalahutà), tâm khinh an (cittalahutà),
tâm sở nhu nhuyến (kàyamudutà), tâm nhu nhuyến (cittamudutà),
tâm sở kham nhậm (kàyakammannatà), tâm kham nhậm (cittakammannatà),
tâm sở tinh luyện (kày-apàgunnatà), tâm tinh luyện (ciàtapàgunnatà),
tâm sở chánh trực (kàyujjukatà), tâm chánh trực (cittujjukatà).
Bốn bất định là: dục
(chanda), thắng giải (adhimokkha), tác ý (manikàra),
trung tánh (tatramajjattatà).
Năm tâm sở không thường
(inconstant) là: bi (karunà), vui vẻ (mudità),
vô thân ác hành, vô ngữ ác hành, vô tà mạng. Năm tâm sở
này thỉnh thoảng khởi lên (không phải luôn luôn), và
không khởi cùng lúc.
134. Xúc là chạm
đến. Nó có đặc tính xúc chạm. Nhiệm vụ nó là tác động.
Nó được biểu hiện bằng sự gặp gỡ. Nhân gần nó là một
ngoại trần đi vào sự chú ý.
Về đặc tính, thì mặc
dù đây là một pháp vô sắc, tâm sở này khởi lên tương
ưng với một đối tượng, kể như hành vi chạm xúc (mặc
dù không có sự chạm xúc thực, như miệng chảy nước bọt
khi thấy người khác cắt một trái xoài). Về nhiệm vụ
thì, mặc dù nó không liênkết phía nào như mắt liên kết
với sắc, tai với tiếng, xúc vẫn là yếu tố làm nên tác
động giữa tâm và đối tượng. Xúc biểu hiện bằng sự
gặp gỡ của ba thứ là mắt, sắc và nhãn thức (xem M.
i, 111). Nhân gần nó là một ngoại trần đã đi vào sự
chú ý, vì nó khởi lên một cách tự nhiên qua phản ứng
tâm thức thích hợp, và với một cảm quan, khi ngoại trần
có mặt. Nhưng xúc nên xem như con bò bị lột da (S. ii, 99)
vì đó là trú xứ của cảm thọ.
135. Tư là mong muốn,
suy nghiệm. Ðặc tính nó là trạng thái mong muốn. Nhiệm vụ
nó là tích lũy. Nó được biểu hiện bằng sự phối hợp.
Nó hoàn thành nhiệm vụ của nó và những tâm sở khác, như
một học sinh trưởng lớp hay thợ chính. Nhưng tâm sở này
rõ rệt nhất khi nó khởi lên điều động những tâm sở tương
ưng để làm môt côngviệc cấp bách như nhớ lại, vv.
136. Về tầm, tứ,
hỉ, đã đưọc nói trong phần Biến xứ Ðất, sơ thiền.
(Ch. IV, đoạn 88-98).
137. Tinh tấn là
trạng thái của một người mạnh (virà). Ðặc tính
nó là điều động. Nhiệm vụ nó là củng cố những pháp
cu sanh. Nó được biểu hiện bằng sự không sụp đổ. Do câu:
"Bị kích động, vị ấy nỗ lực với trí tuệ"
(A. ii, 115), nhân gần nó là một ý thức về tình trạng
khẩn trương, hoặc lý do để nỗ lực.Khi được hướng dẫn
một các thích đáng, tinh tấn đáng được xem là căn nguyên
của mọi sự thành tựu.
138. Mạng căn là
cái nhờ đó người ta sống, hay chính nó sống. Ðặc tính
nó cần được hiểu như đã nói dưới mục Mạng căn đoạn
59, bởi đoạn ấy nói đến đời sống của sắc pháp còn
đoạn này nói về đời sống của vô sắc, chỉ khác nhau
có chừng ấy.
139. Ðịnh gọi
là samadhi vì nó đặt tâm (àdhiyatu) một cách
bình thản, bằng phẳng (samam) trên đối tượng, hay
đặt tâm một cách chân chánh (sammà) trên đối tượng.
Hoặc nó là sự tập ttrung (samàdhàna) của tâm. Ðặc
tánh nó là không lang thang, không phân tán. Nhiệm vụ nó là
hòa hợp những pháp cu sanh như nước hòa bột tắm. Nó được
biểu hiện là sự bình an. Thông thường, nhân gần của định
là lạc. Ðịnh cần được hiểu là sự vữngchải của
tâm, như sự vững chải của ngọn đèn khi không có gió lay
động.
140. Tín là tâm sở
qua đó chúng ta tin tưởng, hoặc đó là lòng tin, hành vi tin
tưởng. Ðặc tính nó là có lòng tin, tin cậy. Nhiệm vụ
nó là làm sáng tỏ, như viên ngọc làm nước trong, hoặc
nhiệm vụ nó là đi vào, như sự khởi hành vượt qua bộc
lưu (xem M., Sn.184). Nó được biểu hiện bằng sự không mù
mờ, hay sự quyết định. Nhân gần nó là một điều gì đáng
để tin tưởng, hoặc do lắng nghe Diệu pháp, vv. các yếu tố
tạo nên quả Dự lưu.
[Chú thích: Bốn yếu
tố của quả Dự lưu là: thân cận thiện tri thức, nghe
diệu pháp, khéo tác ý và thực hành pháp. Hoặc: có lòng
tin tuyệt đối vào Phật, Pháp, Tăng và có giới. -- S. v,
343].
Tín nên xem như một bàn
tay, vì nó nắm giữ thiện pháp được xem như là tài sản
(Sn. 182), và như hạt giống (Sn. 77).
141. Niệm là tâm
sở nhờ đó ta nhớ lại, hoặc chính nó nhớ lại. Hoặc,
niệm là sự nhớ lại. Nó có đặc tính là không tuột mất.
Nhiệm vụ nó là không quên. Nó được biểu hiện là sự
duy trì hay trạng thái xúc tiếp một đối tượng. Nhân gần
nó là tưởng mạnh, hoặc các niệm trú về thân hành, vv.
Tuy nhiên, niệm cần xem như cột vì nó có nền tảng vững
chắc, hoặc như người giữ cửa vì nó giữ gìn căn môn như
nhãn môn vv.
142. Tàm là dè dặt
về thân ác hành, vv. Ðấy là danh từ chỉ sự khiêm tốn. Qúy
là hổ thẹn về những ác hành này. Ðó là danh từ chỉ sự
áy náy về tội lỗi. Tàm có đặc tính chán ghét tội lỗi,
qúy có đặc tính sợ hãi đối với sự vi phạm. Tàm có
nhiệm vụ không làm ác, dưới hình thức sự khiêm cung,
quý có nhiệm vụ không làm ác dưới hình thức sợ hãi.
Chúng được biểu hiện bằng sự tránh né tội lỗi theo
cách đã nói. Nhân gần của chúng là tự trọng (tàm) và
khính trọng người khác (quý). Một người từ bỏ tội ác
do tàm như con gái nhà lành từ bỏ điều quấy, và từ
bỏ điều quấy do quý thì như dâm nữ khước từ việc
xấu xa (giữa côngchúng). Nhưng hai tâm sở này đều đáng
được xem là những vị hộ trì thế gian. (A.i, 51).
143. Vô tham là
tâm sở nhờ nó ta không thèm, là trạng thái không thèm
khát. Vô sân, vô si cũng được giải thích tương tự. Trong
đó, vô tham có đặc tính là tâm không thèm khát một đối
tượng hoặc không dính mắc, như giọt nước trên lá sen.
Nhiệm vụ nó là không nắm giữ, như một tỷ kheo đã giải
thoát. Nó được biểu hiện bằng trạng thái không xem là
chỗ an trú, như một người rơi xuống đống phân. Vô sân
có đặc tính là không tàn hại, không đôí kháng, như thái
độ một người bạn hiền. Nhiệm vụ nó là bỏ sự bực
bội, xua đuổi cơn sốt, như huơng trầm. Nhân gần nó là sự
dễ chịu, như ánh trăng rằm. Vô si có đặc tính đi vào bản
chất hay tự tính của sự vật, sự thâm nhập chắc chắn
như mủi tên nhà thiện xạ. Nhiệm vụ nó là thắp sáng đối
tượng, như ngọn đèn. Nhân gần nó là không hoang mang, như
người hướng đạo trong rừng. Cả ba tâm sở này cần được
xem như gốc rễ của mọi điều thiện.
144. Thân thư thái gọi
là tâm sở thư thái. Tâm thư thái thì gọi là tâm
thư thái. Ở đây, thân có nghĩa là ba tâm uẩn thọ,
tưởng và hành. Nhưng cả hai sự thư thái của thân ấy và
của tâm đều có đặc tính và nhiệm vụ là làm lắng dịu
sự giao động của thân tâm. Chúng được biểu hiện bằng
sự yên tĩnh và mát lạnh của thân tâm. Nhân gần của
chúng là cái thân (ba tâm uẩn) và tâm. Chúng cần được
xem như đối lập với những cấu uế là trạo cử, vv. gây
nên sự bất an trong thân 3 uẩn, và trong tâm.
145. Tâm sở khinh an
là trạng thái nhẹ nhàng linh lợi của thân gồm ba tâm uẩn.
Tâm khinh an là trạng thái nhẹ nhàng của tâm. Chúng
có đặc tính là làm lắng dịu sự nặng nề trong thân 3 uẩn
và trong tâm. Nhiệm vụ chúng là nghiền nát sự nặng nề
ấy. Chúng được biểu hiện bằng sự không lừ đừ uể oải
của thân ba uẩn và tâm. Chúng cần được xem là đối lập
với những cấu uế của sự cứng đờ và buồn ngủ gây
nên sự nặng nề của thân và tâm.
146. Tâm sở nhu nhuyến
là tình trạng mềm mại của thân ba uẩn. Tâm nhu nhuyến
là tình trạng mềm mại của tâm. Chúng có đặc tính làm lắng
dịu sự cứng đờ trong thân tâm. Nhiệm vụ chúng là nghiến
nát sự cứng đờ ấy. Chúng được biểu hiện bằng sự
không đối kháng. Nhân gần chúng là thân và tâm. Chúng cần
được xem là đối lập với cấu uế do kiêu mạn vv.gây
nên sự cứng đờ của thân ba uẩn và tâm.
147. Tâm sở kham nhậm
là tính thích ứng của thân ba uẩn, và tâm kham nhậm
là tính thích ứng của tâm. Chúng có đặc tính là làm lắng
dịu tính không thích ứng của thân và tâm. Nhiệm vụ
chúng là nghiền nát tính không thích ứng trong thân và tâm.
Chúng được biểu hiện là thành công trong việc lấy một
pháp gì làm đối tượng. Nhân gần chúng là thân ba uẩn
và tâm. Chúng cần được xem như đối lập với những triền
cái còn lại, gây nên tính thiếu thích ứng trong thân ba uẩn
và trong tâm, vì chúng đem tin tưởng vào những việc đáng
được tin tưởng, và làm cho những hành vi thiện dễ được
thi hành.
148. Tâm sở tinh luyện
là tình trạng thuần thục của thân ba uẩn, tâm tinh luyện
là tình trạng thuần thục của tâm. Chúng có đặc tính là
tình trạng khỏe mạnh của thân ba uẩn và tâm. Nhiệm vụ
chúng là nghiền nát sự thiếu lành mạnh của thân ba uẩn
và tâm. Chúng được biểu hiện bằng sự vắng mặt của tính
vô năng. Nhân gần chúng là thân ba uẩn và tâm. Chúng cần
được xem là đối nghịch với sự bất tín, vv. gây nên
tình trạng thiếu lành mạnh của thân tâm.
149. Tâm sở chánh trực
là tình trạng ngay thẳng của thân ba uẩn. Tâm chánh trực
là tình trạng ngay thẳng của tâm (thức uẩn). Chúng có đặc
tính là sự thẳng thắn của thân 3 uẩn và tâm. Nhiệm vụ
chúng là nghiền nát tính cong quẹo của thân ba uẩn và
tâm. Chúng được biểu hiện bằng tính không cong. Nhân gần
chúng là thân ba uẩn và tâm. Cần xem chúng như là tình trạng
ngược lại với lừa dối, gian lận gây nên tính cong quẹo
trong thân ba uẩn và tâm.
[Chú thích: "Ở
đây, khi nói "tâm thư thái, khinh an... thì chỉ có tâm
được như vậy, còn khi tâm sở thư thái, khinh an... chánh
trực, thì cả cái cơ thể vật lý cũng được như thế.
Ðó là lý do đức Thế tôn nêu lên cả hai trạng thái ở
đây chứ không nơi nào khác." -- Pm. 489]
150. Dục chỉ cho
sự ham muốn hành động. Nó có đặc tính là muốn hành động.
Nhiệm vụ nó là dò tìm một đối tượng. Nó được biểu
hiện là nhu cầu một đối tượng. Nó có nhân gần là
chính đối tượng ấy. Nó cần được xem như sự đưa ra bàn
tay (tâm) để nắm lấy đối tượng.
151. Thắng giải
là hành vi quyết định, xác tín. Nó có đặc tính là niềm
tin chắc. Nhiệm vụ nó là không sờ soạng. Nó được biểu
hiện bằng sự quyết định, nhân gần nó là một cái gì
để tin chắc. Nó cần được xem như cái cọc phân định
ranh giới, do tính bất động của nó đối với đối tượng.
152. Tác ý là
cái tạo nên những gì sẽ được tạo, cái tạo nên trong
tâm ý. Nó làm cho tâm khác với tâm hữu phần trước đấy,
nên gọi là tác ý. Nó có ba cách làm việc này: kiểm soát
đối tượng, kiểm soát lộ trình tâm và kiểm soát những
tốc hành tâm. Kiểm soát đối tượng là tạo tác trong
tâm, nên gọi là tác ý, chú ý. Nó có đặc tính hướng dẫn.
Nó có nhiệm vụ buộc những tâm sở tương ưng vào đối
tượng. Nó được biểu hiện bằng sự chạm xúc với một
đối tượng. Nhân gần nó là một đối tượng. Nó cần
được xem như người hướng dẫn lèo lái những tâm sở tương
ưng bằng cách kiểm soát đối tượng, vì chính nó được
bao gồm trong hành uẩn. Kiểm soát lộ trình tâm là một
danh từ chỉ ngũ môn hướng tâm (70). Kiểm soát những tốc
hành tâm là danh từ chỉ ý môn hướng tâm (71). Hai thứ
sau này không bao gồm trong hành uẩn.
153. Trung tính là
tình trạng trung lập đối với những tâm và tâm sở khởi
lên tương ưng với nó. Nó có đặc tính truyền đạt tâm
và tâm sở một cách quân bình. Nó có nhiệm vụ ngăn ngừa
sự bất cập và thái qúa, ngăn chận tính thiên vị. Nó
được biểu hiện bằng trung tính. Nó cần được xem như một
người đánh xe bình thản nhìn những con ngựa tốt tiến về
phía trước một cách đều đặn.
154. Bi và hỉ
cần được hiểu như đã mô tả trong chương 9 về các phạm
trú (đoạn 92, 94, 95) ngoại trừ điểm này, là bi và hỉ
ở đấy thuộc sắc giới và đã đạt đến an chỉ, trong
khi bi và hỉ ở đây thuộc dục giới. Nhưng có người lại
muốn gồm luôn trong loại tâm sở này hai tâm sở từ
và xả. Ðiều này không thể chấp nhận, vì nói về
ý nghĩa thì vô sân chính là từ, và trung tính là xả.
155. Không làm thân
ác hành, vv. Về đặc tính, ba tâm sở này có đặc tính
không vi phạm về thân lời và ý. Nhiệm vụ chúng là tránh
né tà hạnh về thân, lời và ý. Chúng được biểu hiện bằng
sự không làm những tà hạnh ấy. Nhân gần chúng là những
đức tính đặc biệt tín, tàm, quý, thiểu dục, vv. Chúng cần
được xem như cái tâm ghét làm điều quấy.
156. Vậy, trên đây là
36 hành tương ưng với thiện tâm đầu tiên thuộc dục giới.(1)
Với thiện tâm thứ hai cũng vậy, chỉ khác là ở đây thì
cần được nhắc bảo.(2) (3-4) Những hành tương ưng với
thiện tâm thứ ba cần được hiểu là tất cả hành nói
trên, trừ vô si. Cũng vậy, với thiện tâm thứ tư,
chỉ khác là cần nhắc bảo. (5-6) Tương ưng với thiện tâm
thứ năm là tất cả tâm sở nói trên trừ hỉ. Cũng
vậy với tâm thứ sáu, chỉ khác cần nhắc bảo.
(7-8) Những tâm sở tương
ưng với tâm thứ bảy cũng giống như trên, trừ vô si. Cũng
vậy tâm thứ tám, chỉ khác cần nhắc bảo.
157. (9-13) Tương ưng với
tâm đầu (9) trong những thiện tâm sắc giới, là tất cả
các tâm sở nói trong trường hợp đầu tiên trừ chánh ngữ,
chánh nghiệp, chánh mạng. Với tâm thứ hai (10) bỏ thêm tầm.
Với tâm thứ ba (11) bỏ thêm tứù. Với tâm thứ tư
(12) bỏ thêm hỉ. Với tâm thứ năm (13) bỏ bi và
vui vẻ (mudità).
(14-17) Trong trường hợp
bốn thiện tâm thuộc vô sắc, giống như tâm đề cập cuối
cùng trên đây, chỉ khác là tình trạng vô sắc.
158. (18-21) Về những
tâm siêu thế, trước hết trong trường hợp đao tâm thuộc
sơ thiền, thì như đã nói trong tâm đầu tiên sắc giới
(9). Các đạo lộ thuộc thiền thứ hai vv. cần hiểu như đã
đề cập trong trường hợp nhị thiền vv. thuộc sắc giới
(10-13). Sự khác biệt ở đây là không có bi, hỉ, sự luôn
luôn từ bỏ ba ác hành về thân, ngữ, mạng, và tình trạng
siêu thế.
159. (22) Về bất thiện
tâm, trước hết có 17 tâm sở tương ưng với tâm bất
thiện đầu tiên có gốc ở tham, đó là 13 biến hành tâm sở
được kể trong các bản kinh và 4 bất định tâm sở. 13 đó
là: Xúc, tư, tầm, tứ, hỉ, tinh tấn, mạng căn, định, vô
tàm, vô quý, tham, si, tà kiến. Bốn bất định là: dục, thắng
giải, trạo cử, tác ý.
160. Ở đây, vô tàm
là không biết tự hổ thẹn, vô quý là không biết thẹn
với người. Vô tàm có dặc tính không ngán ác hành về
thân ngữ ý, hoặc không biết sỉ nhục. Vô quý có đặc tính
không sợ hãi vì những ác hành này, không lo ngại về
chúng. Ðấy là nói vắn tắt. Chi tiết thì, đó là những
gì đối nghịch với những điều đã nói dưới mục tàm
và quý đoạn 142.
161. Do tâm sở này
chúng thèm muốn, hoặc chính nó là thèm muốn, gọi là tham
(39). Si là tâm sở do đó ta bị lừa dối, hoặc chỉ
là sự bị đánh lừa.
162. Trong số này, tham
có đặc tính chấp thủ một đối tượng, như nhựa bẫy
chim. Nhiệm vụ nó là làm dính, hư thịt đặt trong một cái
chảo nóng. Nó được biểu hiện bằng sự khôngbuông bỏ,
như thuốc nhuộm đen bằng khói đèn. Nhân gần nó là thấy
thíc hthú trong những pháp dẫn đến sự trói buộc. Cuốn
theo dòng khát ái, tham cần được xem như pháp đưa hữu tình
đến các đọa xứ, như dòng sông chảy xuôi về biển cả.
163. Si có đặc tính
là sự mù quáng, vô trí. Nhiệm vụ nó là không vào sâu,
khuất lấp tự tính của một đối tượng. Nó được biểu
hiện bằng sự thiếu chánh thuyết (xem Ch. XVII, 52) hoặc bằng
sự đen tối. Nhân gần nó là phi như lý tác ý. Nó cần
được xem là cội gốc của mọi bất thiện.
164. Tà kiến là
cái do nó mà người ta thấy sai, hay chính nó thấy sai, hay
chỉ là hành vi thấy sai. Ðặc tính nó là giải thích không
như lý. Nhiệm vụ nó là đặt trước giả thuyết. Nó được
biểu hiện bằng sự giải thích sai lạc. Nhân gần nó là
không muốn yết kiến những bậc thánh. Nó cần được xem
là tâm sở đáng trách nhất.
165. Trạo cử là
sự giao động. Nó có đặc tính là không an ổn, như nước
bị gió đánh. Nhiệm vụ nó là sự không vững vàng, như cái
cờ hay phan lung lay trước gió. Nó được biểu hiện bằng
sự xáo trộn, như tro tung lên khi bị đá ném vào. Nhân gần
nó là sự tác ý không như lý đối với nỗi bất an tâm thần.
Nó cần được xem là sự xao lãng tâm.
166. Những hành còn lại
ở đây cần được hiểu như đã nói trong phần các thiện
tâm sở. Vì chỉ có tính cách bất thiện là chỗ khác biệt.
Vậy đấy là 17 hành tương ưng với bất thiện tâm đầu
tiên (22).
Với tâm thứ hai (23) cũng
vậy, chỉ khác là cần nhắc bảo, và không luôn luôn sanh
khởi hôn trầm thụy miên.
167. Hôn trầm thụy
miên (thìna-middha) là sự cứng đờ, chậm chạp.
Ý nghĩa ở đây là tình trạng tê liệt vì không có gì cấp
bách, sự mất hết nghị lực. Danh từ ghép này cần phân
tích thành thìnan ca middhan ca (cứng đờ và chậm chạp).
Cứng đờ có đặc tính là thiếu năng lực điều động.
Nhiệm vụ nó là lấy hết nghị lực. Nó được biểu hiện
là sự hạ thấp, rút xuống. Chậm chạp có đặc tính
là không kham nhậm. Nhiệm vụ nó là bóp nghẹt. Nó được
biểu hiện bằng sự lười biếng, ngủ gà ngủ gật. Nhân
gần nó là không như lý tác ý đối với sự buồn chán uể
oải.
168. Với bất thiện
tâm thứ ba (24), những tâm sở tương ưng là những tâm sở
đã nói trong phần những tâm sở tương ưng với bất thiện
tâm thứ nhất (22), trừ tà kiến. Nhưng sự khác biệt ở
đây là có sự sanh khởi không thường cúa mạn. Tâm
sở này có đặc tính là cao ngạo. Nhiệm vụ nó là kiêu căng.
Nó được biểu hiện bằng sự khoa trương rỗng tuếch. Nhân
gần nó là tham không tương ưng với tà kiến. Nó cần được
xem như gần với bệnh điên.
Với bất thiện tâm thứ
tư (25), những tâm sở tương ưng là những tâm đã kể ở
bất thiện tâm thứ hai (23) trừ tà kiến. Và ở đây cũng
có mạn trong số những tâm không thường khởi.
169. Với bất thiện tâm
thứ năm (26), những tâm sở tương ưng là giống như những
tâm tương ưng với (22) trừ hỉ. Với bất thiện tâm thứ
sáu (27), tâm sở tương ưng cũng như trên, chỉ khác cần nhắc
bảo, và hôn trầm thụy miên không thường khởi. Với bất
thiện tâm thứ bảy (28), tâm sở tương ưng cũng như ở bất
thiện tâm thứ năm, trừ kiến, nhưng ở đây mạn khi có
khi không.
Với bất thiện tâm thứ
tám (29) tâm sở tương ưng cũng như với tâm bất thiện thứ
sáu, trừ kiến, và ở đây cũng vậy, mạn khi khởi khi không
.
170. Với hai loại tâm
bất thiện có gốc ở sân, thì tâm bất thiện thứ
nhất (30) có 18 tâm sở tươn gưng, là 11 biến hành đã kể
trong kinh, bốn bất định, và ba không thường khởi. Sau đây
là 11 tâm sở kể trong kinh: Xúc, tư, tầm, tứ, tinhtấn, mạng
căn, định, vô tàm, vô quý, sân, si. Bốn bất định là: dục,
thắng giải, trạo cử, tác ý. Ba tâm không thường khởi là:
ganh tị, bỏn sẻn, trạo cử.
171. Sân là tâm sở
do đó chúng thù hận, hoặc nó là sự thù hận. Nó có đặc
tính là sự tàn hại, như một con rắn bị khiêu khích. Nhiệm
vụ nó là lan rộng như một giọt thuốc độc, hoặc nhiệm
vụ nó là đốt cháy hết nơi nương tựa của chính nó, như
một đám cháy rừng. Nó được biểu hiện bằng sự theo
đuổi để làm hại, như kẻ thù được cơ hội. Nhân gần
của nó là lý do để bực tức (A. v, 150). Nó cần
được xem như nước tiểu đã thối hòa lẫn với độc chất.
172. Tật đố là
ganh tị. Nó có đặc tính ganh tị với thành công của người
khác. Nhiệm vụ nó là bất mãn trước thành công ấy. Nó
được biểu hiện bằng sự đối kháng lại thành công ấy.
Nhân gần nó là sự thành công của người khác. Nó cần
được xem như một xiềng xích.
173. Xan lẩn là bỏn
sẻn keo kiệt. Ðặc tính nó là che giấu thành công mà mình
đã được hay có thể được.
Nhiệm vụ nó là không
chịu đựng được san sẽ thành công đó với những kẻ
khác. Nó được biểu hiện bằng sự tránh né hoặc bằng sự
bần tiện nhỏ nhen. Nhân gần nó là thành công của chính
mình. Nó cần được xem như một sự què quặt của tâm hồn.
174. Trạo hối (kukkucca)
là sự xấu xa (kucchita) đã được làm (kata),
tình trạng ấy gọi là trạo hối. Nó có đặc tính là sự
hối hận sau đó. Nhiệm vụ nó là buồn bã về những gì
đã làm hay đã không làm. Nó được biểu hiện bằng sự cắn
rứt lương tâm Nhân gần nó là điều đã làm và đã không
làm. Nó cần được xem như là tình trạng nô lệ..
175. Những tâm sở còn
lại thuộc loại đã được mô tả.
Vậy 18 hành này cần
được xem là những tâm sở tương ưng với bất thiện tâm
thứ nhất có gốc ở sân, (30).
Với bất thiện tâm thứ
hai (31) cũng thế, chỉ khác là cần nhắc bảo, và hôn trầm
thụy miên thuộc tâm sở không thường hằng.
176. (32-33) Về hai bất
thiện tâm có gốc ở si, thì tâm nghi (32) có 13 tâm sở
tương ưng được kể trong kinh: xúc, tư, tầm, tứ, tinh tấn,
mạng căn. trú tâm, vô tàm, vô quý, si, nghi; và hai tâm bất
định là trạo cử và tác ý.
177. Ở đây, trú
tâm (cittatthiti) là định yếu kém chỉ gồm trong sự
trú tâm khi sanh khởi. Nghi (vicikicchà) là không
mong muốn nghĩ cho ra lẽ. Nó có đặc tính là hoài nghi. Nhiệm
vụ nó là lung lay giao động. Nó được biểu hiện bằng sự
bất định, hoặc bằng sự đứng về nhiều phe khác nhau.
Nhân gần nó là tác ý phi như lý. Nó cần được xem như
chướng ngại cho lý thuyết. (xem Ch. XVII, 52). Những cái còn
lại đã được giải thích ở trước.
178. Tâm bất thiện thứ
hai có gốc ở si là tâm trạo cử (33), những tâm sở
tương ưng với nó cũng giống như với nghi (32), chỉ
trừ tâm sở "nghi" (xem đoạn 176). Nhưng thay vì
nghi, có thắng giải khởi lên ở đây. Bởi thế, với
tâm sở này (trạo cử) cũng có 13 hành tương ưng, và định
mạnh hơn vì sự có mặt thắng giải. Lại nữa, trạo cử
được kể như vậy trong kinh, còn thắng giải và tác ý
thì ở trong số những tâm sở bất định.
Như vậy các hành bất
thiện cần được hiểu.
179. Về bất định,
trước hết, dị thục bất định (34-69) gồm hai loại
là vô nhân và hữu nhân. Những hành tương ưng với tâm dị
thục vô nhân (34-41) gọi là các hành vô nhân. Trước tiên
những hành tương ưng với thiện dị thục (34) và bất thiện
dị thục (50) nhãn thức là bốn hành được kể trong kinh
như sau: xúc, tư, mạng căn, trú tâm cùng với tác ý là năm,
trong đây tác ý là hành duy nhất thuộc về bất định.
Tương ưng với nhĩ, tỉ, thiệt, thân thức, thiện dị thục
(35-38) và bất thiện dị thục (51-54) cũng là những loại
hành đã nói trên.
180. Những hành tương
ưng với cả hai loại dị thục ý giới thiện (39) và bất
thiện (55) gồm có tám, là năm thứ đã kể cọng thêm tầm,
tứ và thắng giải.
Những hành tương ưng
với ba ý thức giới hữu nhân (40, 41, 56) cũng vậy. Nhưng
ở đây hành (40) câu hữu hỉ cần được hiểu là còn
thêm lạc.
181. Những hành tương
ưng với tâm dị thục hữu nhân (2-49) là những hành hữu
nhân. Về những hành này trước hết, các hành tương ưng với
tâm dục giới dị thục hữu nhân là giống như các hành tương
ưng với tám tâm dục giới (1-8). Nhưng trong những hành
không thường khởi, thì bi và hỉ không thuộc về
dị thục, vì lấy chúng hữu tình làm đối tượng. Vì nhựng
hành dị thục của dục giới chỉ có những đối tượng hữu
hạn. Và không chỉ bi và hỉ mà thôi, cả ba hành là từ bỏ
thân ác hành, ngữ ác hành và tà mạng, cũng đều không ở
trong số những tâm dị thục vì Luận nói: "Năm học giới
chỉ là thiện mà thôi" (Vbh. 291).
182. (57-69) Các hành tương
ưng với tâm dị thục sắc giới (57-61)vô sắc giới (62-65)
và siêu thế (66-69) là tương tự các hành tương ưng với
thiện tâm cùng loại (9-21).
183. (70-89) Các hành bất
định duy tác cũng được phân loại thành vô nhân
(70-72) và hữu nhân (73-80). Vô nhân tương ưng với tâm duy
tác vô nhân, và những hành vô nhân này cũng như những hành
tương ưng với thiện dị thục ý giới (39) và hai ý thức
giới vô nhân (40-41). Nhưng trong trường hợp hai ý thức giới
(71) và (72), tinh tấn được thêm vào, và vì sự có mặt
của tinh tấn nên định mạnh. Ðấy là chỗ khác biệt.
184. Những hành tương
ưng với tâm duy tác hữu nhân (73), (80) là những hành hữu
nhân. Trong số này trước hết, những hành tương ưng với
tám tâm dục giới duy tác (73-80) tương tự những hành tương
ưng với 8 thiện tâm dục giới (1-8), trừ ba cái là vô
thân tà hạnh, ngữ tà hạnh và tà mạng.
Những hành tương ưng
với tâm duy tác sắc giới (81-85) và vô sắc (86-89) là tương
tự trong mọi mặt, với các hành tương ưng thiện tâm
(9-17).
Trên đây là những
hành cần được hiểu là bất định.
Ðấy là giải thích
chi tiết về hành uẩn.
Phân
Loại Năm Uẩn Dưới 11 Ðề Mục
185. Ðoạn trên trước
hết là cách phân loại theo A tỳ đàm về các uẩn. Nhưng
trong Kinh tạng, đức Thế tôn đã phân loại các uẩn một
cách chi tiết như sau. "Phàm
có sắc nào, quá khứ, vị lai, hiện tại, nội hay ngoại,
thô hoặc tế, xa hay gần, hạ liệt hay cao sang, tất cả gồm
chung lại đều gọi là sắc uẩn. Phàm thọ nào... tưởng nào...
hành nào... thức nào, quá khứ vị lai hay hiện tại, ... tất
cả gồm chung lại, đều gọi là ... thức uẩn." (M.
iii, 17).
Sắc
186. Ở đây, chữ
"phàm" bao gồm tất cả không trừ. Chữ "sắc"
đề phòng sự bao gồm quá trớn. Như vậy, sắc được bao
gồm trong hai từ ấy, không ngoại lệ. Rồi ngài giải
thích nó là quá khứ, vị lai, và hiện tại,
vì sắc được phân loại như vậy. Th?, tưởng, hành, thức
cũng thế. Sắc được gọi là quá khứ có bốn, tùy
theo giới hạn giữa hai khoảng, theo sự tương tục, theo thời
kỳ và theo sát-na. Cũng vậy sắc vị lai và hiện tại.
187. Trước hết theo giới
hạn, trong trường hợp một hiện hữu của chúng sinh,
thì trước kiết sanh gọi là quá khứ, sau cái chết là vị
lai, giữa hai cái đó là hiện tại.
188. Theo tương tục,
thì sắc nào do thời tiết sanh tương tự và đơn điệu, và
do thức ăn đơn điệu sanh, mặc dù nó sanh khởi liên tục,
đều gọi là hiện tại.
[Chú thích: Thời
tiết lạnh bên ngoài tương tự với lạnh, nóng tương tự
với nóng. Nhưng thời tiết ấy khi rơi xuống thân xác,
dù nóng hay lạnh, mà xảy ra liên tục theo một điệu, không
nhiều hơn hay ít hơn, thì gọi là thời tiết "đơn
điệu". Sở dĩ từ này được dùng vì có nhiều thời
tiết "tương tự". Thức ăn cũng vậy. Một "lộ
trình" chỉ ngụ môn hướng tâm và một "tốc
hành" chỉ ý môn hướng tâm. Sự giải thích về
"tương tục" và "thơì kỳ" được nói
trong các Luận sớ là để trợ gíup việc tu quán. -- Pm.
496.]
Sắc nào do thời tiết
và đồ ăn sanh mà không tương tự thì gọi là quá khứ.
Sắc kế tiếp sau đó là vị lai. Sắc do tâm sanh và
có nguồn gốc nó ở trong một tâm lộ trình, trong một tốc
hành tâm, trong một thiền chứng thì gọi là hiện tại.
Tiếp theo đó là vị lai. Không có phân loại đặc biệt
nào thành tương tục qúa khứ, vv. của sắc có nguồn gốc
ở nghiệp, nhưng tính cách qúa khứ, vv. của nó cần được
hiểu là tùy theo nó nâng đỡ những sắc có gốc ở thời
tiết, đồ ăn và tâm.
189. Theo thời kỳ:
Bất cứ thời khoản nào như một phút, buổi sáng, chiều,
ngày, đêm, vv. xảy ra theo một tương tục, thì gọi là hiện
tại, trước đó là quá khứ, sau đó là vị lai.
190. Theo sát-na:
Cái gì được gồm trong ba sát-na là sanh trú và diệt khởi
đầu bằng sanh, thì gọi là hiện tại, trước đó là vị
lai, sau đó là quá khứ.
[Chú thích: Trong
hai đoạn này, "quá khứ" và "vị lai"
không ám chỉ thời gian mà ám chỉ sắc.]
191. Lại nữa, sắc
nào mà nhiệm vụ làm nhân và duyên đã qua đi, thì gọi là
quá khứ, sắc nào nhiệm vụ làm nhân đã xong làm duyên chưa
xong, gọi là hiện tại. Sắc nào chưa đạt đến nhiệm vụ
nào trong hai nhiệm vụ ấy thì gọi là vị lai. Hoặc,
sát-na làm nhiệm vụ gọi là hiện tại, trước đó
là vị lai, sau đó là quá khứ. Và ở đây, chỉ
có những giải thích bắt đầu từ đ. 190 là có nghĩa đen,
còn lại đều có nghĩa tương đối hay nghĩa bóng.
192. Sự chia thành nội,
ngoại sắc thì như đã nói ở đoạn 73. Ngoài ra, sắc nội
là của mình, ngoại là của người khác. Thô
và tế cũng đã nói ở đoạn 73.
193. Hạ liệt và
cao sang có hai nghĩa: nghĩa tương đối hay nghĩa bóng,
nghĩa tuyệt đối hay nghĩa đen. Ở đây, sắc của chư thiên
Thiện hiện thấp hơn sắc của chư thiên cõi Sắc cứu
cánh, nhưng thù thắng hơn sắc chư thiên Thiện kiến. Như vậy
sự cao thấp tương đối xuống cho đến các dân địa ngục.
Nhưng về phương diện tuyêt đối, nghĩa đen, thì sắc là hạ
liệt khi nó khởi lên kể như quả dị thục bất thiện, và
thù thắng khi nó là thiện dị thục.
194. Xa và gần
cũng như đã nói trong đoạn 73. Ngoài ra tính xa gần tương
đối ở đây cần được hiểu là theo địa điểm.
195. Tất cả gồm
chung lại ; tập họp tất cả các loại sắc đã được
mô tả riêng biệt thành quá khứ, vị lai, vv... thành một tập
thể bằng cách hiểu theo tính cách duy nhất của nó, nghĩa
là đặc tính bị quấy nhiễu, thì nó được gọi là sắc
uẩn.
196. Nó còn có nghĩa là,
sắc uẩn là toàn sắc, tất cả sắc gồm trong đặc tính bị
quấy nhiễu, bức bách, vì không có sắc uẩn bên ngoài sắc.
Và cũng như sắc, thọ
vv. cũng vậy, vì những uẩn này có những đặc tính là bị
cảm nhận, vv., vì không có thọ uẩn ngoài cảm thọ, vv.
Thọ
197. Trong sự phân loại
thành qúa khứ, vị lai, hiện tại, tình trạng quá khứ vị
lai hiện tại của cảm giác cần được hiểu là tùy theo sự
tương tục và theo sát-na, vv.
Tùy theo tương tục là
gồm trong một lộ trình tâm duy nhất, một tốc hành tâm
duy nhất, một chứng đắc duy nhất, và thọ khởi lên tương
ưng với đối tượng thuộc một loại duy nhất, gọi là hiện
tại. Trước đó là quá khứ, sau đó là vị lai.
198. Sự phân thành nội,
ngoại cần hiểu là "nội" khi xảy ra trong
thân của một người.
Thô
và tế cần hiểu theo loại, theo tự tính, theo người,
và theo cõi thế gian hay siêu thế, như Vibhanga nói:
"Cảm thọ bất thiện là thô, thiện và bất định là
tế" vv.
199. Theo loại, trước
hết, bất thiện cảm thọ là một trạng thái bất an, vì
nó là nhân của những hành vi đáng trách và vì nó phát
sinh ra phiền não bốc cháy, bởi vậy nó là thô so với
thiện cảm thọ. Và bởi vì nó câu hữu với sự thủ lợi
và dục vọng cùng quả dị thục, và vì sự bốc cháy của
phiền não, vì đáng khiển trách, nó là thô so với
duy tác bất định. Nhưng theo nghĩa ngược lại, thì cảm thọ
thiện và bất định là tế so với cảm thọ bất thiện.
Lại nữa, hai thứ cảm thọ thiện và bất thiện bao hàm sự
vị lợi, dục vọng và quả báo, nên chúng là thô so
với hai cảm thọ bất định. Và theo nghĩa ngược lại, thì
hai cảm thọ bất định là tế so với chúng. Ðây là
ý nghĩa thô và tế tùy theo loại.
20O. Theo tự tánh,
cảm thọ khổ là thô so với những cảm thọ khác vì nó
không có sự vui sướng, nó cần đến sự can thiệp, nó
gây xáo trộn, tạo nên sự lo âu, và nó khống chế. Hai cảm
thọ kia là tế so với khổ thọ, bởi vì chúng làm thỏa
mãn, an bình, và thù thắng hơn. Chúng tương đối dễ chịu
hơn, và trung tính. Cả hai cảm thọ lạc và khổ là thô so
với bất khổ bất lạc vì chúng bao hàm sự can thiệp,
phát sinh xáo trộn, và chúng rõ rệt. Cảm thọ bất khổ bất
lạc là tế so với hai cảm thọ kia theo cách đã nói. Như vậy
thô và tế cần được hiểu theo tự tính của cảm thọ.
201. Theo người,
cảm thọ nơi người chưa chứng đắc là thô so với
người đã có một thiền chứng vì cảm thọ của người
chưa chứng bị phân tán bởi nhiều đối tượng. Với
nghĩa ngược lại thì cảm thọ của người chứng đắc là
tế.
202. Theo thế gian
và siêu thế, cảm thọ còn lậu hoặc là thế gian
và thô so với cảm thọ hết lậu hoặc, vì cảm thọ
trước là nhân tố phát sinh lậu hoặc, liên hệ đến bộc
lưu và liên hệ đến kiết sử, hệ phược, triền cái chấp
thủ, và cấu uế mà tất cả phàm phu đều có. Cảm thọ
siêu thế ngươc lại là tế so với cảm thọ còn lậu
hoặc.
203. Ở đây, người ta
nên coi chừng lẫn lộn những cách phân loại theo loại, vv.
vì mặc dù cảm thọ tương ưng với bất thiện dị thục
thân thức là tế, theo loại, vì là bất định, nhưng nó lại
là thô nếu phân theo tự tính.Và điều này được nói:"
Cảm thọ bất định là tế, khổ thọ là thô. Cảm thọ
không lậu hoặc là tế, câu hữu với lậu hoặc là
thô."(Vbh. 3) Và cũng như khổ, lạc thọ, vv. là
thô tùy theo loại, và tế theo tự tính.
204. Bởi thế tính
cách thô tế được hiểu thế nào để khỏi lẫn lộn về
cách phân theo loại vv. Ví dụ khi nói "cảm thọ bất định
phân theo loại là tế, so với thiện bất thiện" thì tự
tính, vv. không được nhấn mạnh đến, như:"Loại bất
định nào? Bất định khổ? Bất định lạc? Bất định
nơi người có đắc thiền? không đắc? còn lậu hoặc?
không còn? Và ở mỗi trường hợp đều như vậy.
205. Lại bữa, do câu:
"Hoặc cảm thọ nên xem là thô hay tế so với cảm thọ
này hay cảm thọ kia? (Vbh. 4) trong những cảm thọ bất
thiện, vv.cảm thọ câu hữu với sân cũng vậy, là thô so với
cảm thọ câu hữu với tham, vì cảm thọ sân đốt hết chỗ
nương tựa của nó như một đám cháy, còn cản thọ câu hữu
với tham thì tế. Cũng vậy, cảm thọ câu hữu với sânlà
thô, khi sân ấy thường khởi, và tế khi không thường khởi.
Và cái thường khởi (constant) là thô nếu nó đem lại quả
dị thục kéo dài một kiếp và không cần nhắc bảo, ngoài
ra là tế. Nhưng cảm thọ câu hữu với tham là thô, khi nó
tương ưng với tà kiến còn cảm thọ khác là tế. Cảm thọ
tương ưng tà kiến nếu thường khởi, đem lại quả dị thục
dài một kiếp và không cần nhắc bảo là thô, những cảm
thọ khác là tế. Và không phân biệt, tất cả bất thiện
cảm thọ là thô khi có nhiều quả báo dị thục, là tế nếu
ít quả dị thục. Còn thiện cảm thọ với ít dị thục
là thô, nhiều dị thục là tế.
206. Lại nữa, thiện cảm
thọ thuộc dục giới là thô, thuộc sắc giới là tế, kế
đó là vô sắc, và kế đó nữa là siêu thế. Cần được
hiểu tương đối như vậy. Thiện cảm thọ ở dục giới là
thô trong sự bố thí, là tế trong sự trì giới, tế hơn
trong thiền tập. Lại nữa, thiện cảm thọ trong thiền tập
là thô nếu có hai nhân, là tế nếu có ba nhân. Lại nữa,
với ba nhân thì cảm thọ là thô khi cần nhắc bảo, tế
khi không cần bảo. Thiện cảm thọ thuộc sắc giới là
thô ở sơ thiền so với nhị thiền, nhị thiền là thô so với
tam thiền, vv. Cảm thọ vô sắc giới tương ưng không vô
biên xứ là thô so với cảm thọ tương ưng thức vô biên,
vv... cảm thọ vô sắc giới tương ưng phi tưởng phi phi tưởng
xứ là tế. Cảm thọ siêu thế tương ưng Dự lưu đạo là
thô... Chỉ có cảm thọ tương ưng A-la-hán đạo là tế.
Cùng phương thức ấy áp dụng cho cảm thọ dị thục và
duy tác trong những cảnh giới khác nhau và cho những cảm thọ
được xếp loại thành khổ lạc, vv
207. Rồi tùy theo xứ sở
thì khổ thọ ở địc ngục là thô ở súc sinh là tế. Chỉ
những cảm thọ ở chư thiên tha hóa tự tại là tế. Và lạc
thọ cần được giải thích cặn kẽ như khổ thọ, chỗ nào
thích hợp.
208. Và theo sắc căn thì
bất cứ cảm thọ nào có căn hạ liệt là thô, căn thù thắng
là tế.
Những gì là thô cần
xem là hạ liệ và cái gì tế là thù thắng khi
phân loại thành hạ liệt, thù thắng.
209. Xa, gần: Chữ
"xa" được Vibhanga giải thích: "Cảm thọ
bất thiện là xa đối với thiện và bất định"
(Vbh. 4) và chữ "gần" được giải thích là
"bất thiện cảm thọ là gần đối với bất thiện cảm
thọ". Bất thiện cảm thọ là "xa" với thiện
và bất định, vì không giống nhau, không tương quan tương
tự. Thiện cảm thọ và bất định cũng thế, là
"xa" với bất thiện. Tương tự, trong mọi trường
hợp. Nhưng bất thiện cảm thọ là gần với bất thiện cảm
thọ, vì tương ưng và giống nhau.
Trên đây là giải
thích chi tiết về những cách phân loại thọ uẩn.
Tưởng Hành
Và Thức
210. Tưởng, hành, thức
tương ưng với loại cảm thọ nào, cần được hiểu như
trên.
Những Loại
Trí Về Năm Uẩn
Lại nữa trí về năm
uẩn được xếp loại như sau: theo thứ tự, theo phân biệt,
theo sự không ít hơn không nhiều hơn, theo ví dụ, theo hai lối
nhìn, và theo lợi ích của lối nhìn ấy.
211. Trước hết về thứ
tự, có nhiều loại là thứ tự sanh khởi, thứ tự từ
bỏ, thứ tự tu tập, thứ tự cảnh giới, thứ tự giáo
lý.
Theo kinh Tương ưng
(S. i, 206): "Trước hết là bào thai trong giai đoạn
đầu, kế đến là bào thai giai đoạn hai" là thứ tự sanh
khởi. "Các pháp được từ bỏ do thấy, các pháp
được từ bỏ do tu tập" (Dhs. 1) là thứ tự từ
bỏ. "thanh tịnh giới, thanh tịnh tâm" (M. i,
148) vv. là thứ tự tu tập. "Dục giới, sắc giới...
" là thứ tự cảnh giới. "Bốn niệm xứ, bốn
chánh cần, "vv. hay câu chuyện về thí, giới" vv.
là thứ tự giáo lý.
212. Trong những thứ
trên, thứ tự sanh khởi không được áp dụng ở đây, vì
các uẩn không sanh khởi theo thứ tự như chúng được đề
cập trong trường hợp bào thai vào thời kỳ đầu vv, thứ
tự từ bỏ cũng không áp dụng, vì thiện và bất định không
cần từ bỏ, thứ tự tu tập cũng không áp dụng, vì cái
gì bất thiện không cần tu tập làm gì, thứ tự cảnh giới
cũng không áp dụng vì thọ tưởng hành thức được bao hàm
trong cả bốn cảnh giới.
213. Nhưng thứ tự giáo
lý có thể áp dụng, vì có những người trong khi có thể
được giáo huấn, lại bị rơi vào chấp ngã trong năm uẩn
vì không phân tích chúng. Ðức Thế tôn muốn giải tỏa họ
khỏi chấp trước bằng cách cho họ thấy làm thế nào để
phân chẻ cái toàn khối có vẻ chắc chắn đó tức năm uẩn.
Vì muốn chúng được an lạc, trước hết để giúp chúng dễ
hiểu, ngài dạy sắc uẩn, cái phần thô, vì đó là đối
tượng của mắt, vv. rồi kế tiếp dạy thọ uẩn, cái cảm
nhận được sắc là đáng ưa hay không đáng ưa, kế đó
là tưởng, cái hiểu được những khía cạnh cúa đối tượng
cảm thọ, vì "cái gì ta cảm thọ, cái đó ta tưởng"(M.
i, 293), kế đó là hành, cái tạo tác một cách có ý
chí nhờ phương tiện tưởng, và cuối cùng dạy thức, điểm
tựa cho thọ, tưởng, hành. Thức này dẫn đầu th?, tưởng,
hành: "Các pháp lấy tâm làm chủ" (Dh. 1).
Ðây trước hết la sự trình bày về thứ tự.
214. Về phân biệt:
giữa uẩn và thủ uẩn. Nhưng giữa uẩn và thủ uẩn khác
nhau chỗ nào? Trước hết, uẩn được nói lên không
phân biệt. Thủ uẩn là nói để phân biệt ra những uẩn bị
chấp thủ và còn lậu hoặc. Như kinh nói: "Này
các tỷ kheo, ta sẽ dạy các ông năm uẩn và năm thủ uẩn.
Hãy nghe kỹ... Này các tỷ kheo, gì là năm uẩn? Phàm có sắc
gì thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại... xa gần, đó là sắc
uẩn.Phàm có thọ gì... phàm có tưởng gì... thức gì... xa
hay gần, đó là thức uẩn. Gì là năm thủ uẩn? Phàm sắc
nào, ... xa hay gần, mà có lậu hoặc, bị chấp thủ, đây
là sắc thủ uẩn. Phàm thọ nào, tưởng nào, hành thức
nào... xa hay gần, mà còn lậu hoặc, bị chấp thủ, đấy gọi
là thức thủ uẩn. Ðây, này các tỷ kheo, gọi là năm uẩn
bị chấp thủ, hay năm thủ uẩn." (S. iii, 47)
215. Nhưng trong khi thọ
tưởng hành thức có thể là đã giải thoát khỏi lậu hoặc
hay còn bị chi phối, thì sắc không vậy. Nhìn tổng quát
thì sắc chỉ là "uẩn" nhưng vì nó kể như một uẩn
làm đối tượng cho chấp thủ, thì nó còn được gọi là
"thủ uẩn". Thọ tưởng hành thức chỉ được kể
là "uẩn" đơn thuần, khi chúng không còn bị lậu
hoặc chi phối. Chúng được kể vào những "thủ uẩn"
khi còn lậu hoặc, và ở đây danh từ "thủ uẩn" cần
được hiểu là uẩn làm điểm tựa cho chấp thủ. Nhưng
ở đây, tất cả gồm chung đều gọi là uẩn.
216. Về sự không
ít hơn không nhiều hơn . Nhưng sao đức Thế tôn nói chỉ
có năm uẩn? Một là vì tất cả pháp hữu vi tương tự đều
bao hàm trong đó. Hai vì đó là giới hạn rộng nhất làm căn
cứ cho sự chấp ngã và những gì thuộc ngã. Ba là vì
chúng bao gồm tất cả những thứ nhóm khác.
217. Khi nhiều loại
pháp hữu vi được nhóm lại với nhau theo tính tương đồng,
thì sắc lập thành một uẩn theo tính cách giống nhau ở
khía cạnh vật chất, thọ hợp thành một uẩn do giống
nhau về phương diện cảm thọ, các uẩn khác cũng vậy.
218. Và đây là giới hạn
cùng tột kể như căn cứ cho sự chấp ngã và ngã sở, tức
năm uẩn . Vì Kinh nói: "Này các tỷ kheo, khi sắc hiện
hữu, thì do chấp thủ sắc, cố chấp vào sắc, nên tà kiến
này khởi lên: Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái
này là tự ngã của tôi." (S.iii, 181) Vậy uẩn
được nói là gồm năm, vì đó là giới hạn rộng nhất
làm căn cứ cho sự chấp thủ bản ngã và những gì thuộc
ngã.
219. Lại nữa vì năm uẩn
giới định tuệ giải thoát và giải thoát tri kiến nằm
trong hành uẩn, nên năm uẩn này được kể là bao hàm các
loại khác. Trên đây là trình bày tại sao chỉ có năm uẩn,
không thêm bớt.
220. Về ví dụ,
thì sắc thủ uẩn ví như cài phòng bệnh, vì nó là chỗ
ở, là căn cứ vật lý, là cửa ngỏ và đối tượng của
người bệnh, tức thức thủ uẩn. Thọ thủ uẩn ví như
cơn bệnh vì nó đem lại đau khổ. Tưởng thủ uẩn ví như
sự khiêu khích của cơn bệnh vì nó làm sanh khởi cảm thọ
tương ưng với tham, vv. do tưởng về sắc dục vv. Hành thủ
uẩn ví như sự dùng những thứ không thích hợp, vì nó là
nguồn gốc của cản thọ tức cơn bệnh, vì kinh nói:
"Cảm thọ là pháp hữu vi, chính vì chúng tạo
tác." (S. iii, 87) Và "Do bất thiện nghiệp đã
được tạo và tích lũy mà dị thục thân thức khởi thù
tuốt gươm thì không lo ngại về năm uẩn, thấy chúng như
bọt, bóng, ảo tượng, cây chuối, huyễn sự thì không như
kẻ đối với vật không thực chất cho là có thực chất.
226. Người thấy nội
sắc là bất tịnh thì hiểu rõ về thức ăn đoàn thực (vật
chất). Người ấy từ bỏ cái thấy sai lầm là bất tịnh
thấy tịnh, vượt qua dục bộc lưu, thoát khỏi dục kiết
sử, ra khỏi dục lậu, bẽ gãy hệ lụy của dục tham,
không rơi vào dục thủ (tức một trong bốn thủ).
227. Một người thấy
thọ là khổ, thì hiểu rõ xúc thực. Người ấy từ bỏ cái
thấy sai lầm là trong khổ thấy vui. Người ấy vượt hữu
bộc lưu, thoát hữu kiết sử, ra khỏi hữu lậu, bẽ gãy
thân hệ phược là sân nhuế. Người ấy không rơi vào giới
cấm thủ (không bám vào lễ lạc)
228. Một người thấy
tưởng, hành là vô ngã thì hiểu rõ tư niệm thực. Người
ấy từ bỏ tà kiến trong phi ngã thấy ngã. Người ấy vượt
bộc lưu kiến chấp, thoát khỏi kiết sử tà kiến, bẽ
gãy trói buộc của sự cố chấp "đây là chân lý duy
nhất". Người ấy không rơi vào ngã luận thủ.
229. Một người thấy
thức là vô thường, thì hiểu rõ thức thực. Người ấy từ
bỏ tà kiến thấy thường trong vô thường, vượt bộc lưu
vô minh, thoát kiết sử vô minh, giải thoát vô minh lậu, bẽ
gãy hệ phược của sự bám vào lễ nghi tế tự. Người
ấy không chấp thủ tà kiến, thoát khỏi kiến thủ.
230.
Vì những lợi lạc
ấy
Khi thấy năm uẩn là sát nhân, vv.
Do đó người có trí
Nên quán sát như vậy.
Chương XIV này "Mô
tả các uẩn", trong Luận về tu tập Tuệ, được soạn
thảo vì mục đích làm cho người lành được hoan hỉ.
---o0o---
Mục lục
| 01 | 02
| 03 | 04
| 05 | 06
| 07 | 08
| 09 | 10
11 |
12
| 13 | 14
| 15 | 16
| 17 | 18
| 19 | 20
| 21 | 22
| 23
---o0o---
|
Thư
Mục Tác Giả |
---o0o---
Source: BuddhaSasana (www.budsas.org)
---o0o---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật ngày: 01-09-2002