---o0o---
Chương
XII
Thắng
Trí - Các Năng Lực Thần Thông
(Iddhividha
- niddesa)
Lợi Lạc
Của Ðịnh (tiếp theo)
1. Trước đã nói về
các loại thắng trí thuộc thế gian rằng sự tu tập định
này "đem lại lợi ích là các loại thần thông"
(XI,122). Bây giờ muốn viên mãn những loại thắng trí ấy,
thì trước đó thiền giả cần phải đắc tứ thiền về
biến xứ đất,v.v... và trong khi làm việc này, không những
sự tu tập định đã đem lại lợi ích như thế, mà định
còn được tăng tiến. Và khi hành giả có được định đã
phát triển đến độ vừa đem lại lợi ích vừa trở nên
tăng tiến, thì vị ấy sẽ làm viên mãn sự tu tập tuệ một
cách dễ dàng hơn. Bởi vậy chúng ta sẽ giải thích về
các loại Thắng Trí.
Năm Loại Thắng Trí
2. Ðể trình bày những
lợi ích của sự tu tập định cho một thiện nam tử đã
đắc định tứ thiền, và để tuần tự dạy diệu pháp,
Ðức Thế Tôn đã mô tả 5 loại thắng trí thế gian. Ðó
là (I) những năng lực thần biến được mô tả như
"Khi tâm đã được định tĩnh, thuần tịnh, trong sáng
không cấu uế, đã trở thành nhu nhuyễn, dễ sử dụng, vững
chắc và đạt đến bất động, vị ấy dẫn tâm, hướng tâm
đến các loại thần thông như một thân biến thành nhiều
thân..." (D. i, 77), (2) thiên nhĩ thông, (3) tha tâm
thông, (4) túc mạng thông, (5) sanh tử trí (trí biết về sự
sống và chết của chúng sanh).
1- Các loại
năng lực thần thông.
Nếu một thiền giả
muốn khởi sự biến hóa nhờ năng lực thần thông như
"một thân biến thành nhiều thân" v.v... vị ấy phải
hoàn tất tám thiền chứng trong mỗi một Kasina trong
tám Kasina, khởi từ kasina đất và cuối là kasina
trắng. Hành giả cũng cần hoàn tất sự điều phục tâm
theo mười bốn cách:
i. Theo thứ tự của
các biến xứ chiều thuận
ii. Theo thứ tự của các biến xứ ngược chiều
iii. Thuận chiều và ngược chiều
iv.Theo thứ tự thiền chiều thuận
v. Theo thứ tự thiền ngược chiều
vi. Thuận chiều và ngược chiều thiền
vii. bỏ băng các thiền
viii. bỏ băng kasinas
ix. bỏ băng thiền và kasinas
x. chuyển vị trí thiền chi
xi. chuyển vị trí đối tượng
xii. chuyển vị trí thiền chi và đối tượng
xiii. phân biệt thiền chi
xiv. phân biệt đối tượng.
3. Gì là thuận thứ
các Kasinas...Gì là phân biệt đối tượng?
(i) Ở đây một tỳ
kheo đắc thiền về kasina đất rồi kasina nước,
tuần tự cho đến tám kasinas, làm như vậy một trăm
lần, ngay cả 1.000 lần, ngay cả đến trăm ngàn lần, trong
mỗi thứ kasina. (ii) làm như vậy nhưng khởi từ kasina
màu trắng, là kasina ngược chiều. (iii) đắc thiền
nhiều lần, theo chiều thuận rồi nghịch, từ kasina
đất đến kasina trắng rồi từ kasina trắng trở
lại kasina đất, gọi là thuận chiều và ngược chiều
các kasinas.
4. (iv) Nhập xuất nhiều
lần từ sơ thiền đến phi tưởng phi phi tưởng xứ, gọi
là thuận thứ thiền. (v) nhập xuất từ phi tưởng phi phi
tưởng xứ trở lại sơ thiền nhiều lần gọi là ngược
chiều thiền (vi) chứng theo thứ tự thuận, nghịch từ sơ
thiền lên đến phi tưởng phi phi tưởng xứ, và từ phi phi
tưởng xứ trở lui về sơ thiền, ấy là thuận và nghịch
các thiền.
5. (vii) Vị ấy bỏ băng
thiền mà không bỏ băng biến xứ như sau: trước hết nhập
sơ thiền ở biến xứ đất,rồi nhập tam thiền cùng ở biến
xứ ấy. Rồi sau khi bỏ biến xứ (Ch. X.6) chứng không vô
biên xứ, sau đó chứng vô sở hữu xứ. Ðây là bỏ băng
thiền. Cũng vậy với biến xứ nước, v.v...(viii) Khi vị
ấy bỏ những biến xứ cách khoảng mà không bỏ băng thiền
theo cách sau: đắc thiền ở kasina đất, vị ấy lại
nhập sơ thiền về biến xứ lửa, rồi biến xứ xanh, biến
xứ đỏ, đây gọi là bỏ băng biến xứ ..(ix) Khi vị ấy
vừa bỏ băng biến xứ vừa bỏ băng thiền như sau: đắc
sơ thiền biến xứ dất rồi tam thiền biến xứ lửa, rồi
không vô biên xứ sau khi đă dời bỏ biến xứ xanh, kế tiếp,
vô sở hữu xứ đạt đến từ biến xứ đỏ, đây gọi
là vừa bỏ băng thiền vừa bỏ băng biến xứ.
6. (x) Ðắc sơ thiền
ở biến xứ dất rồi cùng biến xứ ấy đắc các thiền
khác, thì gọi là đổi thiền chi. (xi) Nhập sơ thiền ở biến
xứ đất, rồi cũng sơ thiền ở biến xứ nước ... biến
xứ trắng thì gọi là đổi đối tượng. (xii) Sự đổi đối
tượng và thiền chi xảy ra theo cách như sau: Vị ấy nhập
sơ thiền ở biến xứ đất, nhị thiền ở biến xứ nư?c,
tam thiền ở biến xứ lửa, tứ thiền ở biến xứ gió,
không vô biên xứ bằng cách dời kasina xanh, thức vô
biên xứ đạt được từ kasina vàng, vô sở hữu xứ
từ kasina đỏ phi tưởng phi phi tưởng xứ từ kasina
trắng. Ðây gọi là vừa chuyển thiền chi vừa chuyển
đối tuợng.
7. (xiii) Sự phân biệt
các thiền chi mà thôi bằng cách định rõ sơ thiền là năm
thiền chi; nhị thiền là ba thiền chi, tam thiền là hai thiền
chi, cũng vậy tứ thiền, không vô biên xứ ... và phi tưởng
phi phi tưởng xứ, gọi là phân biệt thiền chi. (xiv) Cũng vậy,sự
phân biệt chỉ đối tượng mà thôi, như:"đây là kasina
đất", "đây là kasina nước" ...
"đây là kasina trắng", gọi là phân biệt đối
tượng. Có người còn nói thêm "phân biệt thiền chi
và đối tượng", nhưng vì điều này không được nói
trong Luận, nên không thành một đề mục trong việc tu tập.
8. "Thiền giả không
thể nào thực hiện biến hóa bằng thần thông nếu chưa hoàn
tất sự tu tập điều phục tâm theo 14 cách ấy. Công việc
tiên quyết về kasina đối với người sơ cơ rất khó
và chỉ một người trong số một trăm hay một ngàn người
có thể làm. Sự làm khởi lên sơ tướng là khó khăn cho một
người trong việc tiên quyết về kasina, và chỉ một
người trong trăm người ngàn người làm được. Mở rộng
sơ tướng khi nó đã khởi lên và đắc định an chỉ là
khó và chỉ một người trong một trăm một ngàn người có
thể làm. Ðiều phục tâm theo mười bốn cách sau khi đắc
định an chỉ là khó và chỉ một người trong một trăm một
ngàn người làm được. Sự biến hóa bằng lực thần
thông sau khi luyện tâm theo mười bốn cách là khó, và trong
một trăm, ngàn người chỉ có một người làm được. Phản
ứng mau lẹ sau khi đã biến hóa là điều khó và trong một
trăm, một ngàn người chỉ có một người làm được.
9. Như trưởng lão Rakkhita
sau tám năm thọ cụ túc giới, một hôm đang ở giữa ba
mươi ngàn tỷ kheo đắc thần thông đến thăm bệnh trưởng
lão Mahà-Rohana-Cutta ở Therambattala. Thần thông của
trưởng lão đã tả ở đoạn nói về kasina đất (Ch.
IV,135). Thấy vậy, một vị trưởng lão nói:"Chư hiền,
nếu Rakkhita không có ở đấy, thì chúng ta đã bị thảm
bại. (Người ta sẽ bảo) "Những vị này không
bảo vệ được bậc Long tượng ". Bởi thế chúng
ta nên đi du hành với các khả năng đã được làm cho viên
mãn, cũng như binh sĩ khi đi ra với binh khí đã được lau sạch
hết những vết dơ". Ba mươi ngàn tỳ kheo nghe lời
khuyên của trưởng lão, và đạt đến phản ứng mau lẹ.
10. Và giúp người khác
sau khi đạt phản ứng mau lẹ là khó và chỉ một người
trong trăm, ngàn làm được. Như vị trưởng lão che chở chống
lại trận mưa tàn lửa bằng cách biến đất ở giữa trời,
khi trận mưa lửa tro được Ma vương biến hóa trong buổi tế
lễ lớn trên đảo.
11. Chỉ có ở chư Phật,
Ðộc giác và Thanh văn đại đệ tử...đã tinh tấn nhiều
kiếp, mà biến hoá thần thông này cùng những đức tính đặc
biệt khác, như Biện tài mới viên mãn được nhờ đắc
A-la-hán quả, và không cần tiến trình tuần tự như đã
mô tả.
12. Bởi vậy, cũng như
khi một người thợ vàng muốn làm một thứ đồ trang sức
nào đó. Ông ta chỉ làm được sau khi đã luyện vàng cho
nhu nhuyễn, dễ xử dụng do nấu tan nó, v.v... và cũng như
khi một người thợ gốm muốn làm một thứ đồ chứa nào
đó, ông ta chỉ làm được nó sau khi đã làm cho đất sét
trở nên dẻo, dễ xử dụng, một người tập sự cũng thế,
phải chuẩn bị cho các loại thần thông bằng cách chế ngự
tâm theo mười bốn cách nói trên, và phải làm cho tâm nhu
nhuyễn dễ xử dụng vừa bằng cách đạt đến viên mãn dưới
những đề mục dục, nhất tâm, tinh tấn và trạch pháp,
và bằng cách làm chủtrong sự tác ý v.v...Nhưng một người
đã có điều kiện cần thiết cho việc ấy nhờ tập luyện
đời trước, thì chỉ cần chuẩn bị để đắc tứ thiền
trong những kasinas.
13. Ðức phật chỉ
cách chuẩn bị như sau: " Khi tâm đã định tĩnh"
v.v... đây là lời giải, tiếp theo kinh văn (xem đoạn 2).
Ở đây, "vị ấy " chỉ cho tỳ kheo đã đắc
tứ thiền. "Như vậy ", chỉ thứ tự chứng tứ
thiền, có nghĩa là sau khi chứng tứ thiền bắt đầu từ
sơ thiền. Ðịnh tĩnh: Ðịnh tĩnh nhờ phương tiện tứ
thiền. Tâm: là tâm sắc giới.
14. Nhưng về những
danh từ "thuần tịnh" v.v... nó thuần tịnh, nhờ trạng
thái niệm được làm cho thuần tịnh bằng xả. Nó sáng
chính vì thuần tịnh, đây nghĩa là trong sáng.Nó không lỗi
lầm, vì những lỗi lầm là tham, v.v... đã bị loại bởi
lạc, v.v... Nó được tẩy trừ cấu uế vì nó không
lỗi lầm, vì chính lỗi lầm làm cho tâm uế nhiễm. Nó trở
thành nhu nhuyễn, vì nó đã được khéo tu tập, có
nghĩa nó chịu sự làm chủ, bởi vì một tâm được làm chủ
gọi là tâm nhu nhuyễn. Nó dễ sử dụng, chính vì nó
nhu nhuyễn, nó chịu sự sử dụng, nó đáng được sử dụng,
đó là ý nghĩa.
15. Vì một tâm nhu nhuyễn
thì dễ sử dụng, giống như vàng đã khéo nấu chảy; và
nó vừa nhu nhuyễn vừa dễ sử dụng là vì nó đã được
khéo tu tập, như kinh nói: "Này các tỳ kheo, Ta không thấy
một pháp nào, khi được tu tập được đào luyện, trở
thành nhu nhuyễn dễ sử dụng như tâm" (A. i, 9).
16. Nó vững chắc
bởi vì vững chắc trong sự thuần tịnh và các đức tính
khác. Nó đạt đến bất động chính vì nó vững chắc
có nghĩa là nó không cử động, không lay chuyển. Một cách
giải thích khác là, nó vững chắc vì vững chắc trong tính
cách có thể làm chủ của riêng nó, nhờ tính nhu nhuyễn
và dễ sử dụng; và nó đạt đến bất động vì nó
được tăng thịnh bởi tín v.v...
17. Vì Tâm có Tín
tăng cường thì không bị dao động bởi thiếu đức tin,
khi được tăng cường bởi Tấn, thì nó không bị dao
động bởi giải đãi; khi được tăng cường bởi Niệm, thì
nó không bị dao động bởi thất niệm (lơ đễnh); khi được
tăng cường bởi Ðịnh, thì nó không bị dao động bởi
trạo cử; khi được tăng cường bởi Tuệ, thì nó không bị
dao động bởi ngu si; và khi được chiếu sáng thì nó
không bị dao động bởi bóng tối của cấu uế (phiền
não). Bởi vậy khi tâm được tăng cường bởi sáu pháp
này, thì nó đạt đến bất động.
18. Tâm có được tám
yếu tố theo cách ấy thì có thể được hướng đến sự
chứng đắc bằng thắng trí những pháp cần được chứng
đắcvới thắng trí.
19. Một phương pháp
khác: Nó được định tĩnh nhờ định tứ thiền. Nó
được thuần tịnh nhờ tách rời các triền cái. Nó trong
sáng nhờ vượt qua tầm, v.v... Nó không lỗi lầm
nhờ không có những ác dục có căn để từ sự đắc thiền
(tỉ như người muốn cho kẻ khác biết rằng vị ấy có thể
thực hành thiền định). Nó được tẩy trừ cấu uế
vì biến mất các cấu uế của tâm gồm tham, v.v... cả hai
điều này cần được hiểu theo kinh Vô uế (M. i, kinh 5)
và Bố dụ (M. i, 7) Nó trở nên nhu nhuyễn do sự
làm chủ. Nó dễ sử dụng do đạt tình trạng của con đường
đưa đến Thần thông (đ.50). Nó vững chắc và đạt
đến bất động bằng cách đạt đến sự tinh tế của
sự tu tập đã viên mãn, có nghĩa rằng vì nó đạt đến bất
động nên nó vững chắc. Và tâm có được tám yếu tố
theo cách trên, thì có thể hướng đến sự chứng đắc bắng
thắng trí những pháp cần phải được chứng ngộ nhờ thắng
trí,vì nó là nền tảng, là nhân gần cho chúng.
20. Vị ấy dẫn tâm, hướng
tâm đến các loại thần thông (iddhi-vidha: các loại
thành công), ở đây thành công iddhi, có nghĩa là làm
sinh ra hay đạt được. Vì cái gì được phát sinh, được
thủ đắc, thì gọi là thành công: "như
một con người ước ao, nếu ước ao của nó được thành
tựu", hoặc nói: Sự xuất gia thành công (ijjhati), nên
đó là một thần thông (iddhi)...Nó đánh bạt tham dục, nên
nó là một biến hóa... A-la-hán đạt thành công, nên đó
là một sự thành công...Nó chuyển hóa tất cả cấu uế,
nên đó là một biến hóa (Ps. ii, 229)
21. Một phương pháp
khác: Thành công (iddhi) theo nghĩa tiếp sau đó là một
danh từ chỉ hiệu lực của các phương tiện; vì hiệu quả
đến tiếp theo với sự phát sinh kết quả mong muốn. Như
kinh nói: Gia chủ Sitta có giới đức, nếu ông nguyện
"mong rằng đời sau tôi làm chuyển luân vương" thì
ước nguyện của ông sẽ thành công, vì đó là một ước
nguyện trong sạch (S. iv, 303)
22. Một cách hiểu
khác: chúng sinh nhờ phương tiện của nó mà thành công,
nên gọi là thành công.
Năng lực thành công
ấy có mười loại: gì là mười? "Thành công do quyết
định, thành công bằng biến hóa, thành công bằng thân ý
sanh, thành công bằng sự can thiệp của trí,thành công bằng
sự can thiệp của định. Thành công của các Thánh giả,
thành công do hậu quả nghiệp, thành công củạ người có
công đức, thành công do hiểu biết, thành công do nỗ lực
đúng." (Ps. ii, 205)
23. (i) Ở đây, thành
công do quyết định nghĩa là như " Bình thường chỉ một
thân, vị ấy tác ý biến thành trăm, ngàn, một trăm ngàn
thân, sau khi tác ý, vị ấy quyết định với trí như sau.
Ta hãy biến thành nhiều."(Ps. ii, 207)
24. (ii) Thành công bằng
biến hóa như: "Sau khi từ bỏ hình dáng thông thường,
vị ấy hiện thành hình một cậu bé hay một con rắn... hay
biến ra một cuộc bày binh bố trận " (Ps. ii, 210)
đây là do từ bỏ và thay đổi hình dạng thông thường.
25. (iii) Câu được nói
như sau: " Ở đây một tỳ kheo tạo ra từ thân xác vị
ấy một thân xác có sắc, do ý sanh" (Ps. ii, 20)
thì gọi là thần thông làm ra thân ý sanh, vì nó xảy ra kể
như sự phát minh một thân khác do ý sanh ở trong thân này.
26. (iv) Một tình trạng
đặc biệt phát sinh do ảnh hưởng của trí trước khi trí
sinh khởi, hoặc sau khi trí sinh khởi, hoặc trong khi trí sinh
khởi, thì gọi là thành công do sự can thiệp của trí; vì
điều này được nói: " Mục đích từ bỏ thường tưởng
thành công, nhờ quán vô thường, đó gọi là thành công do
sự can thiệp của trí...Mục đích từ bỏ mọi cấu uế
thành công nhờ A-la-hán đạo, như vậy là thành công bằng
can thiệp của trí. Có sự thành công nhờ can thiệp của
trí trong trường hợp đại đức Bakkula. Có thành
công nhờ can thiệp của trí trong đại đức Sankicca.
Có thành công do can thiệp của trí nơi đại đức Bhùtapàla."
(Ps. ii,211)
27. Ở đây, khi đại
đức Bakkula còn là một hài nhi, được mang đi tắm
trong sông vào ngày lành, vị ấy rơi vào dòng nước do sự
bất cẩn của người vú. Một con cá nuốt đại đức vào
bụng và cuối cùng lội tới chỗ tắm ở Beenares. Ở
đấy con cá được một người chài bắt và bán cho người
vợ của một trưởng giả. Bà thích con cá muốn tự tay nấu
lấy, và xẻ nó ra. Khi làm thế bà thấy đứa trẻ như một
pho tượng vàng trong bụng cá. Bà mừng rỡ nghĩ: "Cuối
cùng ta đã được một đứa con trai". Vậy sự sống sót
của đại đức Bakkula trong bụng cá vào kiếp chót của
Ngài, được gọi là: "Thành công do can thiệp của
trí", vì nó được phát sinh do ảnh hưởng của trí thuộc
đạo lộ A-la-hán mà vị ấy sẽ đạt được trong đời sống
ấy. (Câu chuyện được kể chi tiết trong MA. iv, 190)
28. Mẹ của đại đức
Sankicca chết khi đại đức còn ở trong bào thai. Vào
lúc hỏa thiêu bà, bà bị đâm bằng một cọc nhọn, để
đặt lên giàn hỏa. Hài nhi bị thương tích ở góc con mắt
vì cọc nhọn ấy, và thốt lên tiếng. Khi ấy nghĩ rằng đứa
trẻ còn sống, người ta lấy tử thi xuống mổ bụng ra, và
đem hài nhi giao cho bà ngoại nó. Dưới sự săn sóc của bà
hài nhi lớn lên, và cuối cùng xuất gia đắc quả A-la-hán.
Vậy, sự sống sót của đại đức Sankicca trên giàn
hỏa gọi là "Thành công do can thiệp của trí."
29.Thân phụ của cậu
bé Bhùtapàla là một người nghèo ở thành Vương xá. Ông
đi vào rừng với một chiếc xe để kiếm củi về. Một hôm
khi trở về cổng thành thì trời đã tối. Những con bò
kéo xe tuột khỏi cái ách và thoát vào đô thị. Ông để
đứa bé ngồi bên chiếc xe và đi vào thành để tìm cặp
bò. Ông chưa kịp trở ra thì cổng thành đã đóng. Sự sống
sót của hài nhi qua một đêm ở ngoài cổng thành đầy thú
dữ và ma quỉ được gọi là thành công nhờ can thiệp của
trí.
30. (v) Một tình trạng
đặc biệt phát sinh do ảnh hưởng của tịnh chỉ trước
khi đắc định hoặc sau khi đắc định, hoặc trong khi đắc
định, thì gọi là "Thành công do can thiệp của Ðịnh",
như nói: "Mục đích từ bỏ những triền cái thành
công nhờ sơ thiền, nên đấy là thành công nhờ can thiệp
của định... Mục đích từ bỏ vô sở hữu xứ thành công
nhờ chứng phi tưởng phi phi tưởng xứ, nên gọi đó là
thành công nhờ can thiệp của định. Có thành công nhờ can
thiệp của định ở tôn giả Sàriputta... tôn giả Sànjìva...
tôn giả Khànu- Kondànnà... tín nữ Uttara...
tín nữ Sàmàvati" (Ps. ii, 211-12)
31. Ở đây, trong khi
tôn giả Xá Lợi Phất đang ở với tôn giả Mục Kiền
Liên tại Kapotakandarà, ngài đang ngồi giữa khoảng trống
ngoài trời vào một đêm trăng với cái đầu mới cạo tóc.
Khi ấy một con ác quỷ, mặc dù đã được bạn nó cảnh
cáo, đến đánh một cú vào đầu tôn giả vang tiếng như sấm.
Vào lúc bị giáng cú đấm, tôn giả đang nhập định, nhờ
vậy ngài không bị thương tổn. Ðây là thành công do can
thiệp của định nơi tôn giả, câu chuyện còn được kể
trong Udàna 39.
32. Khi trưởng lão
Sànjìva đang ở trong Ðịnh diệt thọ tưởng những kẻ mục
tử v.v... trông thấy tưởng là ngài đã chết. Chúng đem cỏ,
củi khô, phân bò và đốt lên.Không một chéo y của tôn giả
bị cháy. Ðây là sự thành công nhờ can thiệp của định
ở tôn giả, ảnh hưởng của định chỉ xảy đến trong
khi ngài nhập và xuất liên tiếp tám thiền trước khi vào
định Diệt thọ tưởng. Câu chuyện được kể trong kinh M.
i, 333.
33. Trưởng lão Khànu-
Kondanna có biệt tài chứng đắc các thiền chứng. Một
đêm kia Ngài ngồi nhập định trong một khu rừng. Có năm
trăm tên cướp đi qua với những đồ vật đã trộm được.
Vì nghĩ không ai theo đuổi, và cần nghỉ ngơi, chúng đặt
các vật kia xuống, và vì tưởng vị trưởng lão là một
khúc cây (khànuka), chúng chồng đồ đạc lên trên
ngài. Ngài xuất định vào lúc đã tính trước, đúng vào
lúc những tên cướp nghỉ ngơi xong sắp sửa lên đường,
ngay lúc ấy tên cướp đầu tiên đã bỏ đồ vật trộm lên
người ngài và bây giờ đang lấy để ra đi. Khi chúng thấy
ngài cử động thì hoảng sợ hét lên. Vị trưởng lão
nói: "Ðừng sợ cư sĩ. Ta là một tỳ kheo." Bọn cướp
đến đảnh lễ ngài, và xin xuất gia, cuối cùng đều đắc
A-la-hán quả cùng với các vô ngại biện. Ở đây vị trưởng
lão không bị hại bởi năm trăm gói hàng chất lên người
ngài, là sự thành công nhờ can thiệp của định.
34. Tín nữ Uttarà
là con gái của một trưởng giả, tên là Punnaka. Một
dâm nữ tên Sirimà ganh tị với nàng, nên đổ một thùng dầu
sôi lên đầu nàng. Vào lúc ấy Uttarà đã đắc thiền về
Từ tâm, nên dầu chảy khỏi người tín nữ như nước đổ
lá sen. Ðấy là thành công nhờ can thiệp của Ðịnh lực nơi
bà (Câu chuyện được kể chi tiết trong Dha. iii,310).
35. Hoàng hậu của vua Udena
tên là Sàmàvati. Bà-la-môn Màgandiya, vì mong
cho con gái mình trở thành hoàng hậu nên bỏ một con rắn
độc trong cây đàn tỳ bà của Sàmàvati rồi tâu vua:
"Tâu bệ hạ, Sàmàvati muốn ám hại bệ hạ đó.
Bà ấy mang theo một con rắn độc trong cây đàn của
bà." Khi vua tìm thấy con rắn, ông nổi trận lôi đình,
toan giết bà với một mũi tên tẩm độc. Sàmàvati cùng với
tùy tùng biến mãn tâm từ lan đến ông vua. Ông đứng run rẩy
không bắn được mũi tên ra mà cũng không dẹp nó đi được.
Khi ấy hoàng hậu hỏi: "Hoàng thượng có chuyện gì thế?
Mệt trong người?" -"Phải, ta mệt." -"Vậy,
hãy bỏ xuống cây cung." Cây cung rơi xuống chân nhà
vua. Khi ấy hoàng hậu bảo: "Người ta không nên oán
thù một người không oán thù." Như vậy, sự kiện nhà
vua không dám bắn ra mũi tên chính là một thành công nhờ
can thiệp của định lực nơi tín nữ Sàmàvati. (xem Dha.
i, 216)
36. (vi) Cái làm cho
hành giả an trú không cảm thấy ghê tởm đối với những
gì đáng ghê tởm, thì gọi là thành công của thánh giả,
như kinh nói: "Gì là thành công của bậc thánh? Ở đây
nếu một tỳ kheo ước nguyện: "Mong rằng ta an trú
không ghê tởm những gì đáng ghê tởm." vị ấy không
ghê tởm với nó. Vị ấy an trú với xả đối với vật
ấy, chánh niệm và hoàn toàn tỉnh giác" (Ps. ii, 212).
Ðây gọi là thành công của những bậc thánh", vì nó
chỉ được phát sinh nơi những bậc thánh đã đạt đến sự
làm chủ tâm.
37. Vì nếu một tỳ
kheo với lậu hoặc đã bị phá hủy mà có được sự thành
công này, thì khi gặp một đối tượng khả ố, vị ấy thực
hành biến mãn tâm từ đến nó, hoặc là tác ý đến nó như
chỉ là tứ đại, vị ấy an trú biến mãn với tâm không gớm
ghiếc (hay chán ghét đối tượng ấy), và khi gặp một đối
tượng khả ái, vị ấy an trú biến mãn tính cách bất tịnh,
hoặc tác ý đến nó như là vô thường, thì an trú với tưởng
đáng ghê tởm (đáng chán). Cũng vậy trong trường hợp gặp
cái đáng chán, vừa gặp cái không đáng chán, vị ấy thực
hành sự biến mãn như trên với tâm từ hay tác ý đến nó
như là tứ đại, vị ấy an trú với tưởng không đáng
chán. Và trong trường hợp gặp cái không ghê tởm và cái
ghê tởm, vị ấy thực hành biến mãn như trên với tưởng
bất tịnh hay tác ý đến nó như là vô thường, vị ấy an
trú tưởng đáng tởm. Nhưng khi vị ấy tập luyện xả gồm
sáu chi phần như sau: " Khi thấy một sắc pháp với con
mắt, vị ấy không vui thú, cũng không...(Ps. ii, 213),
v..v.. thì khi ấy, từ bỏ cả hai tưởng đáng chán và
không đáng chán, hành giả an trú xả, chánh niệm, tỉnh
giác hoàn toàn.
38. Vì ý nghĩa này được
trình bày như sau trong Patisambhidà: "Thế nào là vị
ấy an trú tưởng không đáng chán trong cái đáng chán? Ðối
với một vật không thích ý, vị ấy biến mãn nó với tâm
từ, hoặc kể nó như là tứ đại." (Ps. ii, 212).
Như thế gọi là "Thành công của thánh giả", vì
nó đã được phát sinh nơi bậc thánh đã đạt đến tâm tự
chủ.
39. (vii) Thần thông gồm
trong việc du hành giữa hư không như chim bay, v.v... gọi là
thành công do quả báo của nghiệp như kinh nói: " Gì là
thành công do quả báo của nghiệp? Thành công trong tất cả
những loài chim có cánh, trong tất cả chư thiên, trong vài
người, trong số chúng sanh ở đoạ xứ, gọi là thành công
do quả báo của nghiệp." (Ps. ii,213). Vì ở đây,
khả năng bay lượn trên không của mọi loại chim có cánh,
không cần thiền định hay tuệ giác gì ráo, gọi là thành
công do quả báo của nghiệp; cũng vậy, trong tất cả loài
chư thiên, và một số loài người vào khởi thủy của một
thời kiếp; cũng vậy thành công (bay được) trong một vài
chúng sanh ở đọa xứ, như con quỷ cái mẹ của Piyankara
(xem SA.), và mẹ của Uttara, v.v...
40. (viii) Thành công gồm
trong việc du hành trong không gian v.v... Trong trường hợp những
vị chuyển luân vương, v.v... gọi là thành công của những
người có công đức, như kinh nói: "Gì là thành công của
những người có công đức? Vua Chuyển Luân du hành trên
không với bốn đạo quân, còn có cả quân hầu và quân giữ
cừu (mục tử). Gia chủ Jokita có thành công của người
có công đức. Những gia chủ Jakilaka, Ghosita, Mendaka có
thành công của những người có công đức. Sự thành công
của năm vị đại công đức gọi là thành công của những
người có công đức v.v... (Ps. ii, 213). Nói tóm lại,
điều đặc biệt của sự thành công khi những công đức tích
lũy đã chín mùi, thì gọi là thành công của những người
có công đức.
41. Một lâu đài bằng
pha lê cùng với 64 cây ước đã tách đôi mặt đất mà vọt
lên trước mặt gia chủ Jotika. Ðó là thành công do
công đức, trong trường hợp của gia chủ này (Dha. iv,
207). Một núi vàng cao tám mươi cubits được xuất hiện
cho Jatilaka (Dha. i, 216). Sự sống sót an ổn của Ghosita
khi có những năng lực để giết ông ta ở bảy chỗ,
là thành công của những người có công đức (Dha. i, 174).
Sự xuất hiện những con cừu đực làm bằng bảy thứ quý
báu tại một nơi rộng một tầm cày cho gia chủ Mendaka,
gọi là thành công của những người có phước đức. (Dha.
iii,364)
42. Năm người rất công
đức là trưởng giả Mendaka, vợ ông tên Candapadumasira,
con trai ông Dhananjaya (người giàu có), con dâu ông Sumahadevi,
và nô tỳ ông là Punna. Khi trưởng giả Mendaka gội
tóc và ngước nhìn lên trời, có mười hai ngàn năm trăm đấu
thóc rơi xuống cho ông toàn một thứ gạo đỏ. Khi vợ ông
lấy một nàli cơm ra, thì cơm ấy đem cho cả
nước dùng cũng không hết và con trai họ lấy ra một túi
tiền chứa một ngàn đồng ducas, thì những đồngtiền
ấy đem cho tất cả cư dân đảo Diêm phù đề (Jampudìpa)
cũng vẫn còn. Khi con dâu ông ta lấy ra một tumba
lúa để bố thí tất cả cư dân Diêm phù đề, thóc ấy vẫn
không hết. Khi người nô tỳ cày với chỉ một lát cày,
thì có đến mười bốn luống cày, mỗi bên bảy luống. (Vin.
i, 240; Dha. i, 384). Ðây là thành công của những người
có công đức.
43. (ix) Thành công khởi
đầu bằng sự du hành qua hưkhông trong trường hợp những
bậc thầy về các học thuật, thì gọi là thành công nhờ
học thuật. Ví dụ trong Patisambhidà nói: "Gì là
thành công nhờ học thuật. Những bậc thầy về học thuật
sau khi đã thốt lên những bùa chú có thể bay được qua
hư không, cho thấy một con voi giữa trời... và chúng có thể
bày binh bố trận giữa hư không" (Ps. ii, 213).
44. (x) Nhưng sự thành
công trong việc này việc nọ, nhờ một nỗ lực đúng, gọi
là thành công do áp dụng nỗ lực đúng, như điều này được
nói: " Mục đích từ bỏ dục tham thành công nhờ sự
xuất ly, đấy là thành công với nghĩa thành công do áp dụng
nỗ lực đúng..." Mục đích từ bỏ tất cả ô nhiễm
thành công nhờ A-la-hán đạo, đó là thành công trong nghĩa
thành công do áp dụng nỗ lực đúng" (Ps. ii, 213).
Và văn đây cũng tương tự văn trước trong sự làm sáng tỏ
nỗ lực đúng, nói cáchkhác, đạo lộ. Nhưng trong luận giải
thì nói như sau: "Bất cứ công việc gì thuộc về sự
hành nghề như làm một chiếc xe, v.v... bất cứ công việc
gì thuộc về y học, sự học hỏi ba tập Vệ đà, Ba tạng
giáo điển, cả đến công việc liên hệ đến cày, gieo
lúa, v.v.., sự đặc biệt, xuất sắc phát sinh do làm những
công việc ấy đều gọi là thành công do áp dụng nỗ lực
đúng trong trường hợp này hay khác.
45. Bởi thế, trong mười
loại thành công nói trên, chỉ có thành công do quyết định,
do biến hóa và thân ý sanh là thực sự được ám chỉ
trong câu "các loại thần thông".
46. (i) Ðến các loại
thần thông (xem đoạn 20): là đến những thành phần, những
nghành thần thông. Vị ấy hướng tâm, dẫn tâm! Khi tâm của
vị tỳ kheo ấy đã trở thành cơ bản cho thắng trí theo
cách đã nói, vị ấy hướng tâm đã làm những công việc
tiên quyết với mục đích chứng các thần thông, vị ấy
để tâm hướng về các loaị thần thông, dẫn tâm ra khỏi
kasina làm đối tượng của nó trước đấy. Hướng về:
làm cho tâm hướng đến, thiên về cái mà thần thông phải
chứng.
47. Vị ấy: là tỳ
kheo đã làm sự hướng tâm theo cách trên. Những loại thần
thông khác nhau: là những thần thông đủ loại đủ nghành
(lược)
48. Bây giờ, để trình
bày tính cách khác nhau đủ loại trên đây, kinh nói: "
Vị ấy một thân hóa thành nhiều thân, nhiều thân trở
thành một thân. Vị ấy hiện ra rồi biến mất. Vị ấy
đi ngang qua tường vách núi, qua những chỗ bưng bít không bị
trở ngại như qua hư không. Vị ấy độn thổ rồi trồi lên
mặt đất như thể là ở trong nước. Vị ấy đi trên nước
(mà nước không bị vỡ ra) như đi trên đất. Vị ấy ngồi
kiết già mà đi trên hư không như con chim. Với bàn tay, vị
ấy sờ chạm mặt trăng, mặt trời, những vật có đại
oai lực như thế. Vị ấy thực hiện sự làm chủ thân xác
cho đến tận Phạm thiên giới. " (D. i, 77)
Ở đây, một thân là
bình thường vị ấy chỉ là một trước khi thực hiện thần
thông. Biến thành nhiều: vì muốn cùng đi, cùng đọc tụng,
cùng luận đàm với nhiều người, vị ấy biến thành một
trăm hay m?t ngàn. Nhưng làm thế nào vị ấy làm việc đó?
Vị ấy hoàn tất (1) Bốn cõi (2) bốn căn bản (con đường).
(3) tám bước và (4) mười sáu căn đế của thần thông, rồi
(5) quyết định với trí.
49. 1- Ở đây, bốn
cõi cần được hiểu có nghĩa là bốn thiền; vì
điều này đã được bậc tướng quân chánh pháp Sàriputta
nói: " Gì là bốn cõi (bình diện) của thần thông? Ðó
là sơ thiền cõi phát sinh do viễn ly, nhị thiền cõi của hỷ
và lạc, tam thiền cõi của xả và lạc, tứ thiền cõi của
không lạc không khổ. Bốn cõi này của thắng trí đưa đến
sự chứng đắc thần thông, đến sự có được thần thông,
đến sự biến hoá của thần thông, đến uy lực của thần
thông, đến sự làm chủ được thần thông, đến sự vô
úy trong thần thông." (Ps. ii, 205). Và vị ấy đạt
đến thần thông bằng cách trở nên nhẹ bổng, nhu nhuyễn
dễ xử dụng về thân sau khi nhúng mình trong cái tưởng lạc
và tưởng "nhẹ" do thấm nhuần, biến mãn hỷ và lạc.
Ðó là lý do ba thiền đầu cần được hiểu là bình diện
cận hành, vì chúng đưa đến sự chứng đắc thần thông bằng
cách ấy. Nhưng tứ thiền là bình diện tự nhiên cho việc
chứng đắc thần thông.
50. 2- Bốn căn bản
(con đường) cần được hiểu là bốn nền tảng cho thành
công, đạo lộ đưa đến uy lực (thần thông), vì điều này
được nói: "Gì là bốn căn bản (Pàda - con đường)
cho thành công (iddhi - uy lực)? Ở đây, một tỷ kheo
tu tập căn bản (đạo lộ) đưa đến thành công vừa có định
do dục và phát cần giới; (endeavour - padhàna); vị
ấy tu tập đạo lộ đưa đến thành công vừa có định do
tinh tấn (energy - viriya) và phát cần giới; vị
ấy tu tập đạo lộ đưa đến thành công vừa có định do
sự thanh tịnh tự nhiên của tâm và phát cần giới vị
ấy tu tập đạo lộ đưa đến thành công vừa có định do
trạch pháp (Vìmamsà) và phát cần giới; Bốn đạo
lộ thành công này đưa đến sự chứng đắc thần thông...
đến sự vô úy nhờ thần thông." (Ps. i, 205)
51. Và ở đây, Ðịnh
có Dục làm nhân cho nó, hoặc có dục (chanda - zeal)
kể như yếu tố nổi bật, thì gọi là định do dục
đây là danh từ chỉ Ðịnh đạt được bằng cách dành ưu
tiên cho dục với nghĩa mong muốn hành động. Ý chí (hành)
kể như nỗ lực thì được gọi là phát cần giới; đây
là danh từ chỉ nghiệp lực chánh tinh tấn hoàn thành bốn
nhiệm vụ của nó (xem 53). Có được: được trang bị bằng
định do dục và (bốn) trường hợp nỗ lực (phát cần giới).
52. Ðạo lộ đưa đến
thành công (Nền tảng cho thành công): có nghĩa là toàn thể
Tâm và Tâm sở còn lại (trừ định và dục), làm thành con
đường (căn bản cho) đưa đến định do dục và phát cần
giới liên hệ đến thắng trí, những cái sau này chính
chúng được gọi là "thành công" theo nghĩa "làm
phát sinh" (đ.20) hoặc "kế tiếp" (đ.21) hoặc
theo nghĩa "chúng sinh thành công nhờ phương tiện của nó"(đ.22)
vì điều này được nói:"Căn bản để thành công (Con
đường đưa đến thần thông): đó là thọ uẩn, tưởng uẩn,
hành uẩn và thức uẩn nơi một con người (Vbh. 217).
53. Hoặc có nghĩa:nó
được đạt tới nhờ phương tiện ấy, nên gọi là con
đường (Pàda -căn bản), nghĩa là nó được với tới.
"Iddhipàda" (thần túc) là một danh từ chỉ
cho dục v.v.., như kinh nói: "Này các tỷ kheo, nếu một
tỳ kheo có định, có nhất tâm, được hỗ trợ bởi dục,
đó gọi là định do dục. V? ấy làm khởi dậy dục đối
với sự không sanh khởi những ác pháp đã sinh nỗ lực, cố
gắng, tinh cần, phấn đấu. Vị ấy làm khởi dậy dục đối
với sự phát sinh những thiện pháp chưa sinh... Vị ấy khởi
dậy dục đối với sự duy trì, sự không biến mất, sựtăng
trưởng, l?n mạnh,phát triển và viên mãn những thiện pháp
đã sinh, cố gắng nỗ lực tinh cần, phấn đấu. Ðây là bốn
trường hợp của phát cần giới. Bởi vậy dục này và định
do dục này và bốn phát cần giới này gọi là con đường
đưa đến năng lực (căn bản thành công) con đường có định
do dục và tinh tấn" (S.v, 268). Và ý nghĩa cần
được hiểu theo cách này trong trường hợp những căn bản
thành công khác.
54. 3- Tám bước
cần được hiểu là tám khởi đầu từ dục; vì điều này
được nói: "Gì là tám bước? Nếu một tỷ kheo có định,
có nhất tâm, được hỗ trợ bởi dục, khi ấy dục không
là định, định không là dục, dục khác, định khác. Nếu
một tỷ kheo...hỗ trợ bởi tinh tấn... hỗ trợ bởi sự
thanh tịnh tự nhiên của tâm, hỗ trợ bởi trạch pháp (inquiry)...
thì trạch pháp không phải định; định không phải trạch
pháp; Trạch pháp khác, định khác. Tám bước đưa đến
năng lực này dẫn đến sự chứng đắc thần thông...đến
vô úy nhờ thần thông (thành công). (Ps. ii,205). Vì ở
đây nó là dục gồm trong ước muốn khởi lên thần thông
(thành công), dục ấy được phối hợp với đ?nh và ước
muốn ấy đưa đến sự chứng đắc thần thông. Tương tự
với trường hợp tinh tấn v.v... Ðiều này nên hiểu là lý
do chúng được gọi là "tám bước".
55. 4- Mười sáu căn
để: Sự bất động của tâm cần được hiểu theo mười
sáu kiểu: "Gì là mười sáu căn để của thành công?
Tâm không chán chường thì không bị lay động bởi giải đãi
nhác nhớm, nên nó bất động. Tâm không mừng rỡ thì
không bị lay động bởi trạo cử, bởi vậy nó bất động.
Tâm không bị lôi cuốn thì không lay động bởi tham dục,
do vậy nó bất động. Tâm không chán ghét thì không bị lay
động bởi ác ý, do vậy nó bất động. Tâm độc lập thì
không bị lay động bởi tà kiến, do vậy nó bất động. Tâm
không vướng mắc thì không lay động vì dục tham, do vậy
nó bất động. Tâm giải thoát thì không lay động vì năm dục,
do vậy nó bất động. Tâm không liên hệ (đến cấu uế)
thì không lay động vì cấu uế, do vậy nó bất động. Tâm
không còn rào ngăn thì không lay động bởi cái rào ngăn cấu
uế, do vậy nó bất động. Tâm chuyên nhất thì không bị
lay động bởi cấu uế của sai biệt, do vậy nó bất động.
Tâm tăng cường với tín thì không bị lay động bởi bất
tín, do vậy nó bất động. Tâm tăng cường bởi tấn thì
không lay động vì giải đãi, do vậy nó bất động. Tâm tăng
cường bởi niệm thì không lay động vì thất niệm (lơ đễnh),
do vậy nó bất động. Tâm tăng cường với định thì
không lay động vì trạo cử, do vậy nó bất động. Tâm tăng
cường bởi tuệ thì không lay động vì ngu si, do vậy nó bất
động. Tâm được chiếu sáng thì không lay động vì bóng tối
vô minh, do vậy nó bất động. Mười sáu cội rễ của
thành công này đưa đến sự chứng đắc thần thông (thành
công)... đến vô úy nhờ thần thông ". (Ps. ii, 206)
56. Dĩ nhiên ý nghĩa này
cũng đã được an lập bởi lời nói: "Khi tâm định
tĩnh của vị ấy" v.v... Nhưng nó được nói lại với
mục đích nêu rõ rằng sơ thiền, v.v... là ba bình diện, ba
căn để (con đường), ba bước, ba gốc rễ của các năng lực
thần thông. Và phương pháp được nói đầu tiên, là phương
pháp trình bày trong các kinh, còn đây là cách nó được trình
bày trong Patisalbhidà. Bởi vậy nó đã được nói lại
vì muốn tránh lẫn lộn trong mỗi trường hợp của hai trường
hợp.
57. 5- Vị ấy quyết
định với trí (đoạn 48): " Khi vị ấy đã hoàn tất
những việc gồm những bình diện, căn bản, (con đường)
những bước, những gốc rễ của thành công rồi, hành giả
nhập thiền kể như căn bản cho thắng trí và xuất thiền.
Rồi nếu vị ấy muốn biến thành một trăm, vị ấy làm
công việc tiên quyết như sau:"Ta hãy biến ra một trăm,
ta hãy biến ra một trăm" sau đó lại nhập thiền, kể
như căn bản cho thắng trí, lại xuất, và làm quyết định.
Vị ấy biến thành trăm người cùng lúc với tâm quyết định.
Cùng phương pháp đó cũng áp dụng cho trường hợp một ngàn,
v.v... Nếu không thành công cách ấy, thì nên làm công việc
tiên quyết lần thứ hai, nhập thiền, xuất và quyết định
một lần nữa. Vì Luận Tương ưng nói rằng có thể làm một
hay hai lần.
58. Ở đây, định ở
trong thiền căn bản có sơ tướng làm đối tượng cho nó,
nhưng các tâm trong công việc tiên quyết thì có một trăm
hay một ngàn làm đối tượng cho chúng. Và những đối tượng
sau này là những tướng thật, chứ không phải là những
khái niệm. Tâm quyết định cũng thế, có một trăm hay một
ngàn làm đối tượng cho nó. Tâm ấy chỉ khởi lên một lần,
kế tiếpTâm chuyển tánh (gotrabhù), như trong trường
hợp định an chỉ đã mô tả (Ch. IV,78), và nó thuộc tâm sắc
giới ở tứ thiền.
59. Trong Patisambhìdà
có nói: "Bình thường một, vị ấy tác ý biến mình
thành nhiều, hay một trăm, một ngàn, một trăm ngàn; sau khi
tác ý vị ấy quyết định với trí: -Ta hãy biến thành nhiều-
và vị ấy biến ra nhiều, như trường hợp đại đức Cùla-Panthaka
" (Ps. ii, 207). Ở đây vị ấy tác ý, chỉ cho
công việc tiên quyết mà thôi. Sau khi tác ý, vị ấy quyết
định với trí là nói đến trí của thắng trí. Do đó, vị
ấy tác ý đến nhiều. Sau đó vị ấy đắc định với tâm
cuối cùng của công việc tiên quyết. Sau khi xuất khỏi thiền,
vị ấy lại tác ý: "Ta hãy biến thành nhiều", sau
đó vị ấy quyết định bằng cái tâm duy nhất thuộc về
trí của thần thông, tâm này đã khởi lên kế tiếp ba hay
bốn tâm chuẩn bị đã khởi, và nó có tên "quyết định"
do vì nó làm quyết định. Ðây là ý nghĩa cần được hiểu
ở đây.
60. Giống như đại đức
Cùla- Panthaka được nói để nêu lên một trường hợp
thân chứng của trạng thái nhiều này. Câu chuyện như sau:
Có hai anh em tên là Panthaka (con đường) vì họ được
sinh ra giữa đường. Người anh tên là Maha-Panthaka, xuất
gia đắc A-la-hán quả cùng với bốn vô ngại giải. Khi đã
đắc A-la-hán quả, Ngài làm cho người em cũng xuất gia, và
giao cho em một bài kệ:
Như hoa sen Kokanada
thơm ngát
Nở ra buổi sáng với hương ngào ngạt
Hãy nhìn Ðấng có tay chân sáng chói
Rực rỡ như vừng mặt trời rạng chiếu nền trời (A.
iii,239)
Bốn tháng đã trôi qua
mà người em cũng không thuộc bài kệ. Khi ấy vị trưởng
lão nói: "Ngươi thật là vô ích ở trong giáo pháp
này". Và ngài đuổi em ra khỏi chùa.
61. Vào lúc ấy vị trưởng
lão phụ trách phân phối chúng tăng thọ thực tại nhà đàn
việt. Jìvaka đi đến vị trưởng lão bạch: "Bạch
đại đức con xin thỉnh đức Thế Tôn cùng với năm trăm vị
tỳ kheo thọ thực tại nhà con." Vị đại đức nhận lời,
bảo: "Tôi nhận lời để cho tất cả đều đi, chỉ trừ
Cùla- Panthaka". Cùla-Panthaka đứng khóc ở cổng
tu viện. Ðức Thế Tôn với thiên nhãn trông thấy bèn đi
đến ông ta: "Tại sao con khóc?" Ngài hỏi và được
nghe những gì đã xảy ra.
62. Ðức Thế Tôn dạy:
"Không người nào ở trong giáo pháp của ta lại bị coi
là vô dụng chỉ vì không thuộc một bài kệ. Ðừng sầu
não, hỡi tỳ kheo." Rồi ngài dắt tay ông đi vào tinh
xá. Ngài dùng thần lực biến ra một miếng vải trao cho
ông, bảo "Này tỳ kheo, hãy chà xát cái này và tiếp tục
nói nhiều lần giẻ lau bụi,giẻ lau bụi". Khi làm theo
lời dạy, miếng giẻ trở màu đen. Vị tỳ kheo đi đ?n nhận
thức như sau: "Mảnh vải vốn sạch, không có gì quấy
nơi nó. Chỉ có chấp ngã là sai lầm". Vị ấy dùng
trí này để quán năm uẩn, và nhờ tăng tuệ giác, vị ấy
đạt đến trí thuận thứ và trí chuyển tánh.
63. Khi ấy Thế Tôn thốt
lên bài kệ soi sáng như sau:
Chính tham dục, không
phải bụi, ta gọi cấu uế
Cấu uế chính là một danh từ chỉ cho tham
Tham này bậc trí từ bỏ, và an trú
Chấp trì pháp của bậc vô tham.
Chính là sân nhuế, không phải bụi, gọi là cấu uế
... Cũng vậy chính si, không phải bụi, gọi là cấu uế
Và cấu uế chính là một danh từ chỉ cho si
Si bậc trí từ bỏ và an trú
Chấp trì pháp của bậc vô si (Nd1, 505)
Khi bài kệ chấm dứt
đại đức Cùla-panthaka đạt được chín thiền siêu
thế (supramundane states) cùng với bốn vô ngại biện
và sáu loại thắng trí.
64. Hôm sau Ðấng đạo
sư đi đến nhà Jìvaka cùng với tăng đoàn. Rồi sau lễ
tục dâng nước (để rửa tay trước khi cúng dường thức
ăn), khi cháo được phân phối, đức Thế Tôn đậy bát. Jìaka
hỏi: "Bạch Ngài, có chuyện gì thế?"- "Còn
một tỳ kheo trong tu viện." Gia chủ liền phái một người
nhà bảo: "Ði nhanh lên và trở lại với vị đại đức".
65. Khi Ðức Thế Tôn
đã rời khỏi tinh xá,
"Bấy giờ, sau
khi biến mình
Thành một ngàn người, Panthaka
Ngồi trong rừng xoài mát mẻ
Cho đến khi thời tiết được thông báo" (Thag. 563)
66. Khi người kia đi đến
và thấy tu viện rực rỡ toàn một màu vàng y, anh ta trở về
bảo: "Bạch Ðại đức, tu viện đầy cả tỳ kheo, con
không biết thỉnh ông nào." Khi ấy đức Thế Tôn bảo:
"Hãy đi đến nắm lấy chéo y của người đầu tiên ngươi
trông thấy, bảo ông ta: "Bậc Ðạo sư cho gọi Ngài -
và đưa ông ấy đến đây." Anh ta liền đi và nắm lấy
chéo y đại đức. Bỗng chốc những người hoá hiện đều
tan biến. Vị đại đức bảo người kia: "Ngươi đi về
trước đi". Và sau khi rửa mặt súc miệng xong, ông ta
đi đến trước người kia và ngồi vào chỗ đã dành sẵn.
67.- Số nhiều người
được tạo ra ở đây giống hệt như người có thần
thông, bởi vì chúng được tạo ra không có sự khác biệt
nào. Khi ấy bất cứ gì người có thần thông làm, đứng,
ngồi, nói, im v.v... chúng cũng làm giống hệt. Nhưng nếu vị
ấy muốn tạo chúng ra khác nhau về hình tướng, một số còn
trẻ, một số trung niên, một số đã già hoặc một số
tóc dài, một số cạo nửa chừng, một số cạo hết tóc,
một số tóc hoa râm, một số với y nhuộm phớt, một số
với y nhuộm màu thẩm, đang giảng pháp, đang tụng kinh,
đang hỏi, đáp, đang nhuộm y, may y, giặt y, v.v..., hay hành
giả muốn tạo những hạng người khác nữa thì vị ấy phải
xuất khỏi thiền căn bản, làm công việc tiên quyết theo
cách khởi đầu là: "Hãy hiện ra bao nhiêu vị tỳ kheo
còn trẻ, v.v... và vị ấy còn phải nhập thiền, xuất thiền
một lần nữa rồi quyết định. Chúng sẽ biến hóa ra loại
như ý muốn, đồng thời với tâm quyết định.
68.- Cùng một cách giải
thích ấy cũng áp dụng cho câu: "Nhiều, vị ấy làm
thành một"; nhưng có sự khác biệt này. Sau khi vị tỳ
kheo ấy đã tạo ra tình trạng nhiều như vậy, rồi vị ấy
nghĩ: "Ta chỉ kinh hành như là một người mà thôi, như
là một, ta sẽ đọc kinh, đặt câu hỏi", hoặc do thiểu
dục, vị ấy nghĩ: "Tu viện này ít tỳ kheo. Nếu có người
nào đến, họ sẽ ngạc nhiên:- "Tất cả những vị tỳ
kheo giống nhau như khuôn đúc này từ đâu đến vậy? chắc
hẳn đây là phép lạ của một đại đức nào đây." -
"Và do đó người ấy sẽ muốn biết về ta." Trong
khi đó, với mong ước: "Ta hãy trở lại một mà
thôi". Vị ấy phải nhập thiền căn bản và xuất. Rồi
sau khi làm công việc tiên quyết như sau: "Ta hãy là một",
vị ấy trở lại một đồng thời với tâm quyết định.
Nhưng nếu không làm như vậy, thì vị ấy vẫn đương nhiên
trở lại một, khi thời gian ấn định đã trôi qua.
69.- Vị ấy xuất hiện
và biến mất: nghĩa là làm phát sinh sự hiện tướng, và
làm cho tan biến. Về điểm này Patisambhidà nói:
"Vị ấy xuất hiện: có nghĩa là vị ấy không bị cái
gì che khuất, không bị giấu khuất, vị ấy hiển hiện rõ
rệt. "Tan biến" là vị ấy bị che khuất bởi một
cái gì, bị dấu đi, bị đóng kín, bị khuất lấp (Ps.
ii, 207)
Khi người có thần
thông muốn biến hiện, vị ấy chuyển bóng tối thành ánh
sáng, hoặc làm hiện rõ cái bị khuất, hoặc làm cho cái
không hiện ra trong tầm mắt có thể hiện ra trong tầm mắt.
Bằng cách nào?
70.- Nếu vị ấy muốn
làm cho tự mình hay một người khác, dù đang ở chỗ che
khuất hoặc ở cách xa, có thể được người ta trông thấy,
thì vị ấy xuất khỏi thiền căn bản và tác ý như sau:
"Cái này đang là bóng tối, hãy chuyển thành ánh
sáng" hoặc "Cái này đang bị che khuất hãy hiện
ra" hoặc "Cái này không hiện ở nhãn giới, hãy hiện
ra ở nhãn giới." Rồi vị ấy làm công việc tiên quyết,
và quyết định như đã mô tả. Và nó trở thành như quyết
định, đồng thời với tâm quyết định. Khi ấy những
người khác thấy hành giả mặc dù ở xa và chính ông ta cũng
thấy, nếu muốn.
71.- Nhưng do ai, thần
thông này được thực hiện ngày xưa? Chính do Ðức Thế
tôn. Vì khi đức Thế Tôn được Cùla-Subhaddà thỉnh
và đang du hành một cuộc hành trình dài bảy dặm giữa Savatthi
và Sàketa với năm trăm cái cáng. Ðế Thích sai Vissa-Kamma
kiến trúc sư của ông ta làm ra. Ngài quyết định làm cho
dân chúng Sàketa thấy được dân ở thành Xá-Vệ, và dân
thành Xá-Vệ thấy được dân ở Sàketa. Khi Ngài đã
đậu xuống trung tâm đô thị, Ngài làm đất nứt ra làm
hai và hiển bày địa ngục A tỳ, rồi làm cho trời rẽ đôi
để bày cõi Phạm thiên.
72.- Và ý nghĩa này cũng
cần được giải thích bằng cuộc Giáng hạ của chư thiên.
Khi Ðức Thế Tôn đã làm hai thần biến và đã giải thoát
tám vạn bốn ngàn chúng sinh ra khỏi trói buộc. Ngài tự hỏi:
"Ở đâu những vị chánh đẳng giác trong quá khứ đã
đi đến, sau khi làm hai phép thần biến? Ngài thấy rằng chư
Phật quá khứ đã lên cõi tam thập tam thiên. Khi ấy Ngài
bèn đứng một chân trên mặt đất, và đặt chân thứ hai
lên trên chót núi Yugandhara. Rồi Ngài nhấc chân trước
đặt trên đỉnh núi Tu di. Ngài an cư ba tháng mưa ở đấy
trên khoảng sân đá đỏ, và bắt đầu giảng Tạng A-tỳ-đàm,
khởi từ đầu, cho chư thiên ở mười ngàn thế giới hệ
nghe. Vào lúc cần đi khất thực, Ngài tạo ra một đức Hóa
Phật để giảng pháp.
73.- Trong khi đó, chính
Ðức Thế Tôn thì đang xỉa răng, với cây tăm bằng gỗ nàgalàtà,
và rửa miệng ở hồ Anotatta. Rồi sau khi khất thực
giữa dân chúng Uttarakuràs Ngài ngồi dùng bữa trên bờ
hồ ấy. Mỗi ngày, tôm giả Xá-Lợi-Phất đi đến đảnh lễ
Ngài. Ngài dạy tôn giả: "Hôm nay ta giảng pháp bấy
nhiêu đó", và dạy cho tôn giả phương pháp giảng. Với
kiểu đó, Ngài dạy Luận tạng không gián đoạn trong ba tháng.
Tám mươi triệu chư thiên thâm nhập pháp sau khi nghe.
74.- Vào thời gian hai
thần biến xảy ra, một chúng hội tụ tập rộng mười hai
lý. Chúng nói: "Chúng ta sẽ giải tán khi nào trông thấy
được Ðức Thế tôn". Và họ cắm trại đợi ở đấy.
Vị Cấp-Cô-Ðộc em (em trai của trưởng giả) cung cấp tất
cả nhu yếu phẩm cho họ. Mọi người xin trưởng lão
A-Na-Luật tìm xem Ðức Thế tôn đang ở đâu.
Vị trưởng lão khai
triển ánh sáng, và với thiên nhãn, Ngài trông thấy nơi Ðức
Thế tôn đang an cư ba tháng mùa mưa, và thông báo việc ấy
cho quần chúng.
75.- Chúng yêu cầu tôn
giả Mục Kiền Liên đi viếng thăm Ðức Thế tôn. Ở giữa
chúng hội, tôn giả biến mất xuống dưới mặt đất. R?i
làm nẻ đôi núi Tu di, Tôn giả trồi lên, đến dưới chân
Ðức Thế tôn, đảnh lễ chân Thế tôn. Ngài bạch Ðức Thế
tôn như sau: "Bạch Thế tôn, dân chúng Diêm phù đến để
đảnh lễ chân đức Thế tôn, và chúng nói: - Chúng ta sẽ
giải tán khi nào thấy được Ðức Thế tôn". Ðức Thế
tôn hỏi: "Nhưng này Moggallàna, sư huynh ngươi ở
đâu, vị tướng quân Chánh pháp đó?" - "Bạch Thế
tôn ở đô thị Sankassa" - "Này Moggallàna,
những ai muốn trông thấy ta thì ngày mai, hãy đi đến đô
thị Sankassa. Mai là Bố tát ngày rằm, ta sẽ xuống đô
thị Sankassa để làm lễ Tự-tứ".
76.- Tôn giả: "Thưa
vâng, bạch thế tôn", đảnh lễ Ðấng Thập lực, rồi
đi xuống theo con đường Ngài đã lên, đến chỗ lân cận
với loài người. Vào lúc Ngài đi và về, tôn giả quyết
định rằng mọi người phải thấy điều đó. Ðây là thần
thông hiện rõ mà tôn giả đã làm. Sau khi trở về, tôn giả
kể lại những gì xảy ra và nói: "Hãy đến sau khi điểm
tâm, và đừng ngại đường xá xa xôi gì cả "(và Ngài
hứa rằng, dù xa cách mấy, họ cũng có thể trông thấy Ðức
Thế tôn).
77.- Ðức Thế tôn
thông báo cho Ðế Thích, vua các cõi trời rằng: "Ngày
mai ta sẽ về Nhân giới". Trời Ðế Thích ra lệnh cho Vissakamma:"Hiền
giả, Ðức Thế tôn muốn về Nhân giới ngày mai. Hãy xây cất
ba cầu thang một bằng vàng, một bằng bạc và một bằng
thủy tinh". Ông ta làm theo lời.
78.- Ngày hôm sau Ðức
Thế tôn đứng trên đỉnh núi Tu-di và quan sát thế giới
phương Ðông. Nhiều ngàn thế giới hệ hiện rõ dưới mắt
Ngài như chỉ một đồng bằng. Cũng như vậy, Ngài quan sát
khắp thế giới phương tây, phương bắc, phương nam, tất cả
đều hiện rõ. Và Ngài nhìn suốt đến địa ngục A-Tỳ, lên
đến những tầng trời cao nhất. Ngày đó được gọi là
ngày hiển lộ các thế giới hệ. Người trông thấy chư
thiên và chư thiên trông thấy loài người. Và trong khi thấy
như vậy, người không cần phải ngước lên, mà chư thiên
cũng khỏi cần ngó xuống. Tất cả đều trông thấy nhau, mặt
đối mặt.
79.- Ðức Thế tôn
giáng hạ bằng cầu thang bậc trung, làm bằng pha lê, chư
thiên thuộc sáu cõi trời Dục giới thì xuống cầu thang
bên trái làm bằng vàng; chư thiên trời Tịnh cư, Ðại phạm
xuống cầu thang bên phải làm bằng bạc. Trời Ðế Thích cầm
y và bát (của Phật). Vị trời Ðại Phạm thì cầm một
cái lọng trắng rộng ba lý, Suyàma (Dạ ma thiên vương)
cầm một cái quạt bằng lông đuôi ngưu vương. Con trai của
nhạc thần Gandhabba, có năm cái mồng, xuống trần cử
nhạc tán thán Ðức Thế tôn với cây đàn bằng gỗ bilva
rộng ba phần tư lý. Vào ngày hôm ấy, không một chúng
sinh nào hiện diện trông thấy Ðức Thế Tôn mà không khát
khao giác ngộ. Ðây là thần thông bằng "hiện rõ"
do Ðức Phật đã làm.
80.- Lại nữa, tại đảo
Tambapanni (Tích lan) trong khi trưởng lão Dhammadinna,
người ở Talangara, đang ngồi giữa sân chánh điện của
ngôi đại tự Tissa giảng kinh Apanaka: "Này
các tỳ kheo, khi một tỳ kheo có ba pháp này, vị ấy đi vào
đạo lộ vô uế" (A.i,113), Ngài bỗng lật úp mặt
cái quạt xuống đất và một cái cửa mở thẳng xuống địa
ngục A-tỳ xuất hiện. Ngài ngửa cái quạt lên thì hiện
ra cửa vào cõi Phạm thiên. Sau khi đã khơi dậy nỗi khủng
khiếp địa ngục, và khao khát phúc lạc cõi trời, vị trưởng
lão bắt đầu giảng pháp, một số chứng quả Dự lưu, một
số chứng Nhất lai, một số chứng Bất hoàn, một số chứng
quả A-la-hán.
81.- Nhưng một người
muốn gây ra một sự biến mất, thì khiến cho ánh sáng trở
thành bóng tối, hoặc giấu mất cái đang hiện rõ, hoặc
làm cho cái đang ở trong nhãn giới không còn ở trong nhãn
giới. Bằng cách nào? Nếu vị ấy muốn làm cho tự mình
hay một người khác trở thành không ai thấy được mặc dù
vẫn ở đấy, thì vị ấy chỉ việc xuất khỏi thiền căn
bản và tác ý như sau: "Ánh sáng này hãy trở thành
bóng tối" hoặc "vật này không bị che khuất hãy bị
che khuất" hoặc "cái này đã đi vào nhãn giới hãy
hết đi vào nhãn giới". Rồi vị ấy làm công việc chuẩn
bị và quyết định theo cách đã mô tả. Sự việc trở
thành như vị ấy đã quyết định, đồng thời với sự
quyết định, những người khác không trông thấy dù đứng
gần, mà chính vị ấy cũng không thấy, nếu không muốn thấy.
82.- Nhưng do ai mà thần
thông này được thực hiện ngày xưa? Do Ðức Thế Tôn đã
làm cho thiện nam tử Yasa đang ngồi bên cạnh ngài mà
thân phụ của Yasa không thấy (Vin.i,16). Cũng vậy sau
khi du hành hai ngàn lý để gặp vua Màha-Cappina và an lập
ông vào quả Bất hoàn, một ngàn đình thần chứng quả Dự
lưu. Ngài làm cho hoàng hậu Anojà, người đi theo vua cùng
một ngàn tùy tùng thể nữ mặc dầu ngồi gần, cũng không
thấy được vua và đình thần. Hoàng hậu hỏi: "Bạch
Thế Tôn, Ngài có thấy vua đâu không?" Phật dạy:
"Ngươi nên tìm vua, hay tìm chính người" (Vin.
i,23) bà đáp: "Bạch, tìm chính con". Rồi Phật
giảng pháp cho bà trong lúc bà ngồi đó, khiến cho bà cùng
với tùy tùng đều chứng quả Dự lưu, còn đình thần chứng
Bất hoàn, vua chứng A-la-hán quả. (AA. i,322; DhA. ii,124)
83.- Lại nữa thần
thông này được thực hiện bởi đại đức Mahinda lúc
Ngài mới đến đảo Tích lan, làm cho vua không trông thấy
những người đi theo Ngài.
84.- Lại nữa, tất cả
thần thông làm cho hiện rõ thì gọi là hiện, làm cho không
rõ thì gọi là biến. Ở đây trong "thần thông hiện",
thì người có thần thông và thần thông đều được bày
rõ. Ðiều này có thể được chứng minh bằng hai phép lạ;
vì trong đó cả hai (người và phép lạ của người) đều
được trình bày, như sau: "Ở đây, Ðức Thế Tôn làm
hai phép lạ, mà chư thánh đệ tử không làm được. Ngài
phát sinh một đống lửa trên phần trên thân và phun nước
ở phần dưới thân..." (Ps. i, 125) Trong thần
thông làm cho biến mất, thì chỉ có thần thông được bày
ra, không thấy người làm phép thần thông. Ðiều này có thể
được dẫn chứng bằng Kinh Mahaka (S. iv, 200) và
kinh Brahmanimantanika (M. i, 330), Vì ở trong đó chỉ có
thần thông (của đại đức Mahaka và của đức Thế
tôn) được hiển bày, không thấy người làm thần thông,
như kinh nói.
85.- Ngồi xuống một
bên, gia chủ Citta bạch đại đức Mahaka "Bạch
đại đức, lành thay nếu đại đức cho con trông thấy một
thần thông thuộc thượng nhân pháp" - Vậy này gia chủ
hãy trải thượng y của ngươi trên sân, và rắc lên đấy
một bó cỏ khô." - "Thưa vâng, tôn giả ",Gia chủ
vâng đáp tôn giả Mahaka, và trải thượng y trên sân và rải
cỏ lên đấy. Khi ấy tôn giả đi vào trú xứ của ông,
cài then lại, và thực hiện một phép thần thông làm cho lửa
tuôn ra từ lỗ khóa và các khe hở nơi then cửa, đốt cháy
cỏ khô mà không cháy thượng y. (S. iv, 290)
86.- Lại nói, khi ấy
này các tỳ kheo, ta hiện thần biến làm cho phạm thiên,
tùy tùng cùng quyến thuộc có thể nghe tiếng Ta mà không
trông thấy Ta, và sau khi biến mất như vậy Ta nói bài kệ
này:
"Ta thấy sự khủng
khiếp trong tất cả loại hữu
"Kể cả loại hữu đang tìm đến phi hữu
"Ta không tán thán một loại hữu nào
"Ta không chấp thủ một lạc thú nào trong đó." (M.
i, 330)
87.- Vị ấy đi ngang
qua vách, qua tường,qua núi, không bị trở ngại như đi qua
hư không: còn có nghĩa là vượt qua khỏi bên kia bức tường,vách.
v.v... và vách chỉ cái vách của một cái nhà, tường (thành)
chỉ cái tường bao quanh cái nhà, tu viện, khu làng v.v...
Núi là một núi đất hay núi đá. Không chướng ngại là
không mắc dính. Như trong hư không là như thể vị ấy đang
ở chỗ trống.
88.- Một người muốn
đi kiểu đó cần phải đắc thiền về biến xứ hư không
và xuất thiền, rồi làm công việc chuẩn bị bằng cách
tác ý đến bức vách hay tường hay một ngọn núi nào đó
như Tu di và vị ấy nên quyết định: "Hãy hiện ra hư
không". Nó trở thành hư không: Nó rỗng ra cho vị ấy nếu
muốn đi xuống hay đi lên, nó nứt ra nếu vị ấy muốn đi
vào trong đó. Vị ấy đi qua nó và không bị trở ngại.
89.- Nhưng ở đây, trưởng
lão Cùla-Abhaya nói: "Chư hiền, cần gì phải đắt
kasina hư không? Một người muốn tạo ra voi, ngưạ
v.v... có đắc thiền về voi hay ngựa không? Ðương nhiên
tiêu chuẩn duy nhất là nắm vững tám thiền chứng, và sau
khi làm công việc chuẩn bị với bất kỳ kasina nào,
vị ấy có thể biến ra bất cứ gì vị ấy muốn".
Các tỳ kheo bạch: "Bạch đại đức trong kinh chỉ nói
đến biến xứ hư không, bởi vậy cần phải nói biến xứ
hư không".
90.- Bản kinh như sau:
"Vị ấy thông thường là một người đã đạt thiền
về biến xứ hư không. Vị ấy tác ý: -qua vách, qua tường,
qua núi- Sau khi tác ý vị ấy quyết định với trí:
"Hãy có hư không" - Rồi bỗng có khoảng không. Vị
ấy đi không chướng ngại qua vách qua tường, qua núi. Giống
như người không có thần thông đi không chướng ngại tại
nơi nào không có vật chướng ngại hay tường vách. Cũng vậy,
người có thần thông này do đạt được tâm tự tại, đi
không bị trở ngại qua vách, qua tường, qua núi như đi giữa
khoảng không.
91.- Nhưng nếu sau khi
quyết định, vị ấy đang đi giữa khoảng trống như vậy
mà gặp phải một ngọn núi hay cây dựng lên chắn đường
thì làm sau? Vị ấy có cần phải nhập thiền và làm quyết
định trở lại chăng? - Không có hại gì trong việc ấy.
Vì nhập thiền và quyết định trở lại thì cũng giống
như nhận sự hầu hạ trước mặt y chỉ sư (Vin. i, 58;
Vin. ii, 274) Và bởi vì vị tỳ kheo này đã làm quyết định:
"Hãy có khoảng trống" nên chỉ có khoảng trống tại
đấy, và do năng lực của quyết định đầu tiên của ông
ta, không thể nào có núi hay cây vọt lên, do thời tiết,
trong lúc ấy. Tuy nhiên nếu núi hay cây đó đã do một vị
có thần thông tạo ra, mà tạo trước, thì thần thông này
sẽ được ưu thế, người tạo thần thông sau phải đi phía
trên hay phía dưới cái núi ấy.
92.- Vị ấy độn thổ
rồi trồi lên khỏi mặt đất:
Một người muốn làm
phép này thì phải đắc thiền về biến xứ nước và xuất
khỏi thiền ấy, rồi vị ấy nên làm công việc chuẩn bị,
quyết định rằng: "Ðất tại vùng này hãy biến thành
nước". Và vị ấy nên quyết định theo cách đã nói.
Ðồng thời với quyết định, bao nhiêu diện tích đất
như đã định đều hóa thành nước, và chính tại chỗ ấy
mà vị ấy lặn xuống và trồi lên.
93.- Sau đây là bản
kinh văn: "Vị ấy bình thường đã đắc thiền về biến
xứ nước. Vị ấy tác ý đến đất. Sau khi tác ý vị ấy
quyết định với trí: "Hãy có nước". Rồi có nước.
Vị ấy lặn xuống trồi lên trên mặt đất. Cũng như người
thường không có thần thông lặn xuống trồi lên trên nước,
vị có thần thông này cũng vậy, nhờ đạt được tâm tự
tại, có thể lặn xuống trồi lên khỏi mặt đất như ở
trong nước (Ps. ii, 208)
94.- Và vị ấy không
những lặn xuống trồi lên, mà còn làm bất cứ gì tùy
thích, như tắm, uống nước, rửa miệng, rửa dụng cụ tùy
thân v.v... Và không những nước mà bất cứ gì vị ấy muốn
thuộc về chất lỏng như bơ, dầu, mật hay nước ngọt
v.v... đều có thể biến ra được. Khi vị ấy làm công việc
chuẩn bị, sau khi tác ý, "Hãy có bao nhiêu thứ này, thứ
này", và quyết định nó liền có ra như vị ấy đã định.
Nếu vị ấy lấy những thứ ấy bỏ đầy dĩa, thì bơ vẫn
là bơ, dầu, v.v... chỉ là dầu, nước chỉ là nước. Nếu
vị ấy muốn bị thấm ướt bởi thứ nước ấy, thì vị
ấy bị ướt, nếu không muốn, thì không bị ướt. Và chỉ
đối với vị ấy mà đất biến thành nước, không phải với
người nào khác. Mọi người khác vẫn đi bộ và chạy
honda v.v... trên đó v.v... và người ta cày bừa trên đó. Nhưng
nếu vị ấy muốn: "Hãy là nước đối vời chúng luôn
đi". Nó liền biến thành nước đối với mọi người
nữa. Khi thời gian ấn định đã qua, thì tất cả chỗ đất
đã biến, ngoại trừ những vũng nước,ao v.v... có sẵn, đều
trở lại thành đất như cũ.
95.- Trên nước không bị
vỡ ra: chỗ nước người ta lặn xuống bây giờ bị dẫm
lên mà không lún thì gọi là không vỡ ra. Một người muốn
đi trên nước kiểu đó thì phải đắc thiền về biến xứ
đất và xuất thiền. Rồi, vị ấy hãy làm công việc chuẩn
bị, quyết định "Nước ở trong các chỗ ấy hãy biến
thành đất", và vị ấy phải làm quyết định theo cách
mô tả. Ðồng thời với quyết định, nước biến thành đất.
Vị ấy đi lên trên đó.
96.- Kinh văn như sau:
"Vị ấy bình thường là người đã đắc thiền về biến
xứ đất. Vị ấy tác ý nước, sau khi tác ý, vị ấy quyết
định với trí: "Hãy có đất ". Thế là liền
có đất. Vị ấy đi trên nước không bị vỡ ra. Giống như
người thường không có thần thông đi trên đất không bị
vỡ ra, người có thần thông này cũng vậy, do đạt đến tâm
tự tại, có thể đi trên nước không bị vỡ ra như ở trên
đất". (Ps. ii, 208)
97.- Và vị ấy không
những chỉ đi mà thôi, còn làm bất cứ uy nghi nào vị ấy
muốn. Và không chỉ đất mà thôi, vị ấy có thể biến ra
bất cứ chất cứng nào vị ấy muốn, như ngọc, vàng, đá,
cây v.v..., vị ấy tác ý đến nó và quyết định, tức thì
nó trở nên như vị ấy muốn. Và nước ấy biến thành đất
duy chỉ cho một mình vị ấy; nó vẫn là nước đối với
người khác. Và cá, rùa, le le, cứ việc bơi lội ở đó
tha hồ. Nhưng nếu vị ấy muốn làm cho nó biến thành đất
đối với người khác nữa, thì vị ấy có thể làm như vậy.
Khi thời gian ấn định đã trôi qua, thì nó trở lại thành
nước như cũ.
98.- Ngồi kiết già vị
ấy du hành: "Vị ấy đi bằng cách ngồi kiết già. Như
con chim có cánh: như con chim được trang bị đôi cánh. Một
người muốn làm phép này thì phải đắc thiền về biến xứ
đất và xuất thiền. Rồi nếu vị ấy muốn đi bằng cách
ngồi xếp bằng, vị ấy phải làm công việc chuẩn bị và
quyết định một khoảnh diện tích bằng một chỗ ngồi,
để ngồi xếp bằng lên đó, và vị ấy phải làm quyết
định như đã mô tả. Nếu vị ấy muốn đi bằng cách nằm,
thì hãy định một vùng đất cỡ bằng cái giường. Nếu
muốn đi bộ thì vị ấy định một khoảnh đất vừa một
con đường và quyết định theo cách đã mô tả: "Hãy
có đất". Ðồng thời với quyết định, nó biến
thành đất.
99. Sau đây là kinh văn:
"Ngồi kiết già, vị ấy du hành trong hư không như con
chim". Bình thường, vị ấy là người đắc thiền về
biến xứ đất. Vị ấy tác ý hư không. Sau khi tác ý vị
ấy quyết định với trí: "Hãy có đất". Bèn là
có đất. Vị ấy du hành (đi bộ), đứng, ngồi, nằm trong
hư không, giữa trời. Cũng như kẻ bình thường không có thần
thông đi đứng, ngồi, nằm ở trên đất, người có thần
thông này cũng vậy, nhờ đạt được tâm tự tại, đi đứng,
ngồi n?m, giữa hư không, giữa trời". (Ps .ii, 208)
100. Và một tỷ kheo muốn
du hành trong không, phải là người đã đắc thiên nhãn. Tại
sao? Tại vì trên đường có thể có núi, cây, v.v... do thời
tiết sinh, hoặc do các loài rồng, Supannas, v.v... ganh
ghét tạo ra. Vị ấy cần phải thấy được những vật này.
Nhưng khi thấy chúng thì phải làm sao? Vị ấy phải nhập
thiền căn bản và xuất, và làm việc chuẩn bị như "Hãy
có hư không", rồi quyết định.
101. Nhưng trưởng lão Cula-Abhaya
nói: "Chư hiền, có cần gì phải đắc thiền? Há
tâm vị ấy không định tĩnh sẵn hay sao? Do đó, bất cứ
khoảnh nào vị ấy đã quyết định 'Hãy có khoảng trống'
thì bèn có khoảng trống. Mặc dù trưởng lão nói vậy, vấn
đề này vẫn phải được đề cập như đã mô tả dưới
thần thông đi không trở ngại xuyên qua vách, qua tường.
Hơn nữa vị ấy còn phải là một người đã đắc thiên
nhãn vì mục đích đáp xuống tại một chỗ vắng. Vì nếu
vị ấy đáp xuống một chỗ công cộng, như ở hồ tắm
hay một cổng làng, thì vị ấy bị một đám đông trông thấy.
Bởi vậy khi nhìn thấy bằng thiên nhãn, vị ấy nên tránh
một nơi không có khoảng trống, nên đáp xuống một khoảng
trống.
102. "Với bàn tay,
vị ấy sờ chạm mặt trăng, mặt trời, những vật có đại
uy lực, đại uy thần như thế", ở đây "uy lực"
của mặt trăng, mặt trời cần được hiểu là ở sự kiện
chúng du hành trên một độ cao bốn mươi hai ngàn dặm, và
"uy thần" của chúng là đồng thời chiếu sáng ba
(trong bốn) lục địa. hoặc chúng có uy lực uy thần là vì
du hành trên đầu và chiếu sáng như chúng thường làm. Vị
ấy chạm, nắm lấy hay đụng phải, tại một chỗ. Sờ: là
vuốt khắp mặt, như với một cái gương soi.
103. Thần thông này chỉ
thành công nhờ thiền làm căn bản cho thắng trí; ở đây
không có sự đắc thiền với một biến xứ nào đặc biệt.
Vì Patisabhidà nói: "Với bàn tay... có đại uy thần."
Ở đây người đắc thần thông này đã đạt đến tâm tự
tại: tác ý đến mặt trời, mặt trăng. Sau khi tác ý, vị
ấy quyết định với trí: "Nó hãy ở trong tầm tay
ta". Và nó ở trong tầm tay. Hoặc đang ngồi hay nằm, vị
ấy ấy lấy tay chạm sờ mặt trăng, mặt trời. Như người
không có thần thông chạm, sờ một vật gì ở trong tầm
tay, người có thần thông này cũng vậy, nhờ đạt đến tâm
tự chủ, khi mgồi hay nằm, với bàn tay vị ấy chạm, sờ
mặt trời mặt trăng. (Ps. ii, 208)
104. Nếu vị ấy muốn
đi mà sờ chúng, vị ấy có thể đi và sờ. Nhưng nếu vị
ấy muốn sờ chúng trong khi ngồi hay nằm, vị ấy quyết định:
"Chúng hãy ở trong tầm tay." Rồi hoặc vị ấy sờ
chúng khi chúng rụng trong tầm tay sau khi đã đến do mãnh lực
của sự quyết định, như những trái dừa rơi khỏi cuống,
hoặc vị ấy sờ bằng cách nới rộng tay ra. Nhưng khi vị
ấy n?i rộng tay, thì nới rộng cái bị chấp thủ hay cái
không bị chấp thủ? Vị ấy nới rộng cái không bị chấp
thủ được hỗ trợ bởi cái bị chấp thủ.
105. Ở đây trưởng lão
Tam Tạng Cùla-Nàga nói: "Này chư hiền, nhưng tại
sao cái bị chấp thủ không trở nên nhỏ lại, hoặc lớn
ra được? Khi một tỷ kheo đi ra qua một lỗ khóa, thì có
phải cái bị chấp thủ biến thành nhỏ lại không? Và khi
vị ấy biến hình lớn ra, thì có phải nó lớn ra như trong
trường hợp trưởng lão Màha- Moggallàna?
106. Vào thời ấy khi
gia chủ Anàthapindika (Cấp Cô Ðộc) đã nghe đức Thế
Tôn thuyết pháp, ông ta thỉnh Ngài: "Bạch Thế Tôn, xin
mời Thế Tôn đến dùng cơm tại nhà con cùng với 500 tỷ
kheo." Rồi ra về. Ðức Thế Tôn nhận lời. Khi đêm đã
gần mãn, Ngài quán sát mười phương thế giới vào lúc
bình minh.Khi ấy Longvương Nandopananda hiện ra trong tầm
trí giác của Ngài.
107. Ðức Thế Tôn
quán sát Long vương, nghĩ: "Long vương này đã hiện đến
trong tầm trí giác của ta, y có khả năng tu tập không nhỉ?".
Rồi Ngài thấy rằng Long vương ấy có tà kiến, không tin
tam bảo. Ngài quán sát thêm: "Ai có thể chữa trị cho y
thoát ra khỏi ta økiến". Và thấy rằng trưởng lão Mục
Kiền Liên có thể làm việc ấy. Rồi sau khi đêm đã gần
sáng, sau khi làm vệ sinh, Ngài bảo tôn giả A Nan: "Này
A Nan, hãy báo cho 500 tỷ kheo biết ta sắp đi thăm chư thiên".
108. Vào hôm ấy chư
thiên có một cuộc tiệc tùng dành cho Long vương Nandopananda.
Long vương đang ngồi trên một thiên tòa được che lọng trắng,
được vây quanh bởi ba loại nhạc công và một đoàn long
tùy tùng hầu tiếp Long vương đủ thứ ẩm thực đựng
trong chén bát chư thiên. Khi ấy, đức Thế Tôn làm cho Long
vương trông thấy Ngài, trong lúc Ngài du hành ngay phía trên
cái tàng lọng của Long vương để tiến về cõi trời thứ
33, có 500 tỷ kheo theo hầu.
109. Lúc ấy tà kiến
này khởi lên nơi Long vương: "A cái bọn thầy tu trọc
đầu kia đang đi vào đi ra cung điện cõi trời 33 ngay trên
đầu chúng ta. Ta nhất định không để cho chúng tung bụi bặm
từ chân chúng lên đầu chúng ta". Nói rồi Long vương
đứng dậy đi đến chân núi Tu di, biến mình nằm khoanh bảy
vòng quanh núi. Y dương cái mồng ra che trên cõi trời Tam thập
tam thiên và làm cho mọi sự ở đây trở thành không trông
thấy được.
110. Ðại đức Ratthapàla
bạch đức Thế Tôn: "Bạch Thế Tôn, khi đứng chỗ
này, trước đây con thường trông thấy núi Sumeru và
những thành lũy bao quanh, và cõi trời 33, và lâu đài Vejayanta,
và cái cờ trên lâu đài ấy. Bây giờ, bạch đức Thế Tôn,
vì nhân gì, duyên gì, con lại không thấy núi Sumeru, cũng
không thấy... cái cờ trên lâu đài ấy?" - "Long vương
tên Nandopananda đang tức giận chúng ta đấy, Ratthapàla.
Nó đã cuộn mình quanh núi Sumeru bảy vòng với thân
hình của nó, và đứng đấy che khuất chúng ta với cái mồng
của nó, làm cho mọi sự tối đen." - "Bạch Thế Tôn,
con sẽ trị nó". Nhưng đức Thế Tôn không cho phép.
111.Cuối cùng, tôn giả
Moggallàna nói: "Bạch Thế Tôn, con sẽ trị
nó". Ðức Thế Tôn cho phép, dạy: "Ðược, trị nó
đi Moggallàna." Tôn giả bỏ hình ấy và biến
thành một Long vương khổng lồ, vây quanh núi Tu di 14 vòng
và đưa cái mồng lên trên cái mồng của Long vương kia, ép
sát Long vương ấy vào núi Tu di. Long vương tung khói, trưởng
lão nói: "Không chỉ có thân ngươi mới có khói, mà
thân ta cũng có". Và Tôn giả phun khói. Khói Long vương
phun ra, không làm cho tôn giả phiền hà nhưng khói của tôn
giả làm cho Long vương rất bực. Rồi Long vương phun lửa.
Lửa của Long vương không làm phiền tôn giả, nhưng lửa tôn
giả làm cho Long vương buồn bực.
112. Long vương nghĩ:
"Hắn đã ép sát ta vào núi Sumeru và phun cả khói
lẫn lửa". rồi ông ta hỏi: "thưa Ngài, Ngài là
ai?" - "Ta là Moggallàma, hỡi Nanda".- "Bạch
Ðại đức, xin Ngài hãy trở lại hình dạng tỷ kheo của
Ngài như cũ đi." Tôn giả bỏ hình dạng ấy, đi vào lỗ
tai phải của Long vương và đi ra lỗ tai trái, rồi vào lỗ
tai trái, ra lỗ tai phải; cũng vậy tôn giả đi vào lỗ mũi
phải của Long vương rồi đi ra lỗ mũi trái, vào lỗ mũi
trái ra lỗ mũi phải. Rồi khi Long vương mở miệng, tôn giả
chui vào trong miệng ấy, và đi bách bộ lên xuống, qua lại
trong bụng nó.
113. Ðức Thế Tôn dạy:
"Moggallàna, Moggallàna, hãy coi chừng, con độc long
này ghê gớm lắm" Trưởng lão nói: "Bạch Thế
Tôn, bốn đạo lộ đưa đến thần thông đã được con tu
tập, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ địa,
được an lập, được củng cố, khéo hành trì. Con có the
åtrị không những một Nandopananda, bạch Thế Tôn, mà
một trăm, một ngàn, một trăm ngàn Long vương như Nandopananda.
"
114. Long vương nghĩ:
"Khi hắn vào chỗ đầu tiên, ta không trông thấy. Nhưng
bây giờ chờ lúc hắn ra, ta sẽ tóm hắn giữa mấy cái răng
nanh của ta mà nhai tuốt". Rồi y nói: "Ðại đức
ơi, nào đi ra đi. Ðừng có tiếp tục quấy nhiễu tôi bằng
cái cuộc đi lên đi xuống kinh hành trong bụng tôi như vậy".
Vị trưởng lão đi ra và đứng ngoài. Long vương nhận ra ngài,
và thổi một trận cuồng phong từ lỗ mũi phà ra. Vị trưởng
lão bèn nhập tứ thiền, và trận cuồng phong không thể
làm lay động dù chỉ một sợi lông trong thân ngài. Các tỷ
kheo khác cũng có thể làm các thần thông từ trước cho đến
lúc bấy giờ, nhưng ở điểm này, họ không thể nào nhập
định với một phản ứng quá mau lẹ như thế, do đó mà
đức Thế Tôn đã không cho phép họ trị Long vương.
115. Long vương nghĩ:
"Ta đã không thể lay động dù chỉ một sợi lông trên
thân vị tỳ kheo này, với trận cuồng phong từ lỗ mũi ta.
Vị ấy là một tỷ kheo có uy lực lớn". Vị trưởng lão
từ bỏ hình dạng ấy, và sau khi cải dạng thành một Supanna,
Ngài đu?i theo Long vương, biểu diễn ngọn cuồng phong của Supanna.
Long vương biến hình thành một Bà-la-môn trẻ, nói: "Bạch
Ðại đức, con xin quy y Ngài", và đảnh lễ dưới chân
tôn giả. Tôn giả nói: "Này Nanda, đức đạo sư
đã đến, chúng ta hãy đến nơi Ngài." Như vậy, sau khi
hàng phục được Long vương và tước hết nọc độc của
nó, tôn giả đưa nó đến trước mặt Ðức Thế Tôn.
116. Long vương đảnh lễ
Ðức Thế tôn và nói: "Bạch Thế tôn con xin quy y
Ngài". Ðức Thế tôn dạy: "Mong ngươi được an lạc
hỡi Long vương". Rồi Ngài đi v?i chúng tỷ kheo tùy
tùng, đến nhà Anàthapindika (Cấp Cô Ðộc) hỏi:
"Bạch Thế tôn, sao Ngài đến muộn thế". - "Có
một trận đấu giữa Moggallàna và Nandopananda"
- "Bạch Thế tôn, ai thắng, ai bại?" - "Moggallàna
thắng, Nanda bị bại". Cấp Cô Ðộc nói:
"Bạch Thế tôn, xin Thế tôn chấp thuận cho con được
cúng dường bảy ngày liên tiếp, cho con được mừng trưởng
lão suốt bảy ngày". Rồi trong bảy ngày liên tiếp, trưởng
giả tiếp đãi trọng thể năm trăm tỷ kheo với Thế tôn dẫn
đầu.
117. Vậy, chính ám chỉ
đến chuyện này (nới rộng hình dạng) trong lúc hàng phục
Long vương mà trên kia có nói "Khi vị ấy làm cho thân lớn,
thì có phải nó liền lớn ra như trường hợp trưởng lão
Mục Kiền Liên?" Mặc dù điều này được nói đến, các
tỷ kheo vẫn nhận xét: "Vị ấy chỉ nới rộng cái
không bị chấp thủ" Và chỉ có điều này là đúng ở
đây.
118. Và khi vị ấy đã
làm điều này, thì không những vị ấy chỉ có chạm sờ mặt
trăng, mặt trời, mà nếu muốn vị ấy có thể biến chúng
thành cái để chân, và gác chân lên chúng, hay làm thành
cái ghế để ngồi lên, làm thành cái giường để nằm lên,
làm thành tấm ván để tựa người lên đấy. Và như một
người làm những người khác cũng làm như thế. Vì dù cho
có nhiều trăm ngàn tỷ kheo làm như vậy và đều thành
công cả, thì những vận hành của vừng nhựt nguyệt vẫn
như cũ, cùng với ánh sáng của chúng. Vì cũng như khi một
ngàn cái chảo đầy nước, và mặt trăng hiện ra trên cả
ngàn cái chảo, thì vận hành của mặt trăng vẫn bình thường,
và ánh sáng của nó cũng vậy. Thần thông này cũng thế.
119. Xa cho đến tận Phạm
thiên giới: lấy Phạm thiên giới làm giới hạn. Vị ấy
thực hiện sự làm chủ thân xác: ở đây, vị ấy tự chủ
trong Phạm thiên giới với phương tiện thân xác. Ý nghĩa
điều này cần được hiểu theo kinh văn như sau:
"Vị ấy làm chủ
thân xác xa cho đến Phạm thiên giới, nếu người có thần
thông này, sau khi đã đạt đến tâm tự tại (làm chủ
tâm), muốn đi đến Phạm thiên giới, mặc dù xa, vị ấy
quyết định về tính cách gần, "nó hãy gần", và
nó gần thật. Mặc dù gần vị ấy quyết định là xa
"Nó hãy xa". Mặc dù nhiều, vị ấy quyết định là
ít, "Hãy có ít", bèn có ít. Mặc dù ít, vị ấy
quyết định là nhiều "Hãy có nhiều". Và bèn có
nhiều. Với thiên nhãn, vị ấy trông thấy hình dáng (thuộc
sắc giới) của Phạm thiên. Với thiên nhĩ, vị ấy nghe tiếng
nói của Phạm thiên ấy. Với tha tâm trí, vị ấy biết
tâm của Phạm thiên ấy. Nếu người có thần thông này,
sau khi đã đạt đến tâm tự tại, muốn đi đến Phạm thiên
giới với một cái thân có thể thấy được, vị ấy đạt
đến tưởng "lạc" tưởng "nhẹ" (dễ và
mau) và đi đến Phạm thiên giới với một thân thấy được.
Nếu người có thần thông ấy, sau khi đã đạt được tâm
tự tại, muốn đi đến Phạm thiên giới với một thân vô
hình (không thấyđược) thì vị ấy chuyển thân cho phù hợp
với ý mình. Sau khi đã chuyển thân cho phù hợp với ý, vị
ấy đạt đến tưởng lạc và tưởng nhẹ, và đi đến Phạm
thiên giới với một thân vô hình. Vị ấy tạo ra một sắc
thể thuộc sắc giới ở trước vị Phạm thiên ấy, do ý
sanh, với tất cả chân tay, không thiếu một căn nào. Nếu
người có thần thông ấy đứng...ngồi...nằm, hóa nhân cũng
đứng, ngồi, nằm. Nếu người có thần thông ấy phun khói
lửa, giảng nói pháp, nêu một câu hỏi, được hỏi một câu
hỏi, trả lời... thì hóa thân cũng phun khói... trả lời
câu hỏi. Nếu người có thần thông đứng với Phạm thiên
ấy, nói chuyện đàm thoại với Phạm thiên ấy, hóa thân cũng
đứng nói chuyện, đàm thoại với Phạm thiên. Bất cứ gì
người có thần thông làm, hóa nhân ấy cũng làm y hệt. (Ps.ii,
809)
120. Ở đây, "Mặc
dù xa, vị ấy quyết định lại gần", sau khi xuất khỏi
thiền căn bản, vị ấy tác ý đến một cõi Phạm thiên
hay cõi chư thiên rất xa, và nghĩ "Nó hãy gần". Sau
khi tác ý và làm việc chuẩn bị, vị ấy lại nhập định
và quyết định bằng trí "Nó hãy gần lại". Nó trở
nên gần. Cũng một phương pháp giải thích ấy áp dụng cho
những mệnh đề khác nữa.
121. Ở đây, ai đã
làm cho một cái gì xa trở thành gần? Chính đức Thế tôn.
Vì khi đức Thế tôn đi đến thế giới chư thiên sau khi
làm hai phép lạ, Ngài đã làm cho Yugandhara và Simeru
gần lại, và từ mặt đất Ngài đặt một chân lên Yugandhara
và chân kia lên Sumeru.
122. Và còn ai khác nữa
đã làm được việc ấy? Tôn giả Mục Kiền Liên. Vì khi
tôn giả đang rời Xá vệ sau khi dùng ngọ xong Ngài đã rút
ngắn đám đông dài 12 lý và con đường ba mươi lý dẫn đến
đô thị Sankassa, và Ngài đến nơi cùng lúc ấy.
123. Lại nữa Trưởng
lão Cùla- Samudda cũng làm như vậy trên đảo Tích lan,
vào một thời đói kém, một buổi sáng nọ có 700 tỷ kheo
đến viếng Trưởng lão. Trưởng lão suy nghĩ như sau: "Ở
đâu một đoàn tỷ kheo đông nhiều có thể đi khất thực?"
Ngài thấy không một nơi nào trên đảo Tích-lan có thể khất
thực nhưng có thể có một nơi ở bên kia bờ, tại Pàtaliputta
(Patna) Ngài bảo các tỷ kheo lấy y bát và nói: "Lại
đây, chư hiền, chúng ta hãy đi khất thực". Rồi Ngài
rút ngắn đất lại và đi đến Pàtaliputta. Các tỷ
kheo hỏi: "Ðô thị này tên là gì, bạch đại đức?".
- "Chư hiền, nó tên Pàtaliputta". "Pàtaliputta thì
xa lắm, bạch đại đức?". "Chư hiền, các vị trưởng
lão kinh nghiệm làm cho cái gì xa thành gần". "Vậy
thì biển ở đâu đại đức?" - "Chư hiền, há các
ngươi đã không đi qua một dòng nước xanh hay sao?" -
"Bạch đại đức, có, nhưng biển thì rộng lớn chứ?"
- "Chư hiền, những vị trưởng lão có kinh nghiệm có
thể làm cho cái gì rộng lớn trở thành nhỏ hẹp".
124. Và trưởng lão Tissadatta
cũng làm như vậy, khi ông đã đắp thượng y sau khi tắm
rửa vào buổi chiều và ý nghĩ đi chiêm bái cây Giác ngộ
khởi lên nơi ông.
125. Ai đã làm cho cái
gì gần trở thành xa? Ðức Thế tôn. Vì mặc dù Angulimàla
đang gần bên cạnh Thế tôn, Ngài làm cho ông ta cách rất
xa (xem M. ii, 99).
126. Ai đã làm cho nhiều
thành ít? Trưởng lão Maha-Kassapa. Vào ngày lễ ở
Vương xá, có 500 thiếu nữ đang trên đường đi d? hội, và
đem theo bánh "mặt trăng" (bánh đa). Chúng trông thấy
đức Thế tôn mà không cho Ngài gì cả. Nhưng trên đường
về, chúng gặp trưởng lão. Nghĩ rằng "Ngài là vị trưởng
lão của chúng ta" chúng mỗi người lấy một cái bánh
đem biếu trưởng lão. Trưởng lão mở bát ra và hóa phép
làm cho chúng vào tất cả ở trong đó. Ðức Thế tôn đã
ngồi xuống trước và đang đợi trưởng lão. Trưởng lão
đem chúng đến trước mặt Thế tôn.
127. Trong câu chuyện về
trưởng giả Illisa (Jà. i, 348), thì trưởng lão Maha-Moggallàna
làm cho ít thành nhiều. Và trong câu chuyện Kàkavaliya
Ðức Thế tôn cũng làm vậy. Trưởng lão Maha-Kassapa,
sau bảy ngày nhập định, đến đứng trước cửa nhà một
người nghèo tên Kàkavaliya để chứng tỏ lòng chiếu
cố đến người nghèo. Vợ ông ta trông thấy trưởng lão,
và đổ vào bát ngài thức cháo chua không muối mà bà đã
làm sẵn dành cho người chồng. Trưởng lão nhận lấy và
đặt trong tay đức Thế tôn, đức Thế tôn quyết định làm
cho cháo ấy đủ cho đoàn thể tăng chúng dùng. Những gì
được mang đến trong một cái bát trở thành đủ dùng cho
tất cả mọi người. Và vào ngày thứ bảy, Kàkaliya trở
thành một triệu phú.
128. Và không những với
trường hợp biến ít thành nhiều, mà bất cứ điều gì người
có thần thông mong muốn, như làm cho ngọt thành không ngọt,
không ngọt thành ngọt v.v... vị ấy đều có thể thành
công. Vì sự việc đã xảy ra như vậy khi trưởng lão Maha-Amula
thấy nhiều tỷ kheo ngồi ở bên bờ sông Hằng (ở Tích
lan) đang ăn cơm trắng, vật duy nhất họ đã có được sau
khi đi khất thực, Ngài bèn quyết định "Nước sông Hằng
hãy trở thành bơ". Và Ngài ra dấu cho các chú tiểu đến
lấy nước sông Hằng để vào bình bát, và đem đến cho chúng
tỷ kheo. Tất cả chúng tỷ kheo ăn cơm ấy với bơ ngọt.
129. Với thiên nhãn: vẫn
ở đây mà đuổi ánh sáng ra, vị ấy trông thấy sắc tướng
của Phạm thiên. Và vẫn ở đây, vị ấy cũng nghe được
âm thanh của Phạm thiên, và hiểu ý ông ta.
130. Vị ấy chuyển
tâm mình theo thân mình: vị ấy chuyển tâm cho phù hợp với
thân xác: lấy tâm của thiền căn bản, để tâm ấy lên
thân xác mình, vị ấy làm cho sự vận hành của nó chậm lại
cho phù hợp với vận hành của thân xác, vì cái kiểu của
thân xác vận hành, thì chậm chạp.
131. Vị ấy đạt đến
tưởng lạc và tưởng nhẹ: vị ấy đi đến, nhập, tiếp
xúc với tưởng về lạc và tưởng về nhẹ phù hợp với
tâm mà đối tượng là thiền căn bản. Và chính tưởng liên
hệ đến xả được gọi là "lạc tưởng": vì xả
được gọi là lạc bởi nó an lạc. Và chính tưởng ấy cần
hiểu cũng được gọi là "tưởng nhẹ", vì nó đã
được giải tỏa khỏi những triền cái và các pháp đối
lập với nó khởi đầu bằng tham. Nhưng khi vị ấy đạt
đến trạng thái này, thì cả đến thân xác vị ấy cũng
trở nên nhẹ như bông. Như vậy, vị ấy đi đến Phạm thiên
giới với một thân xác hữu hình nhẹ như một nắm bông
gòn bay theo gió.
132. Khi đang đi như vậy,
nếu muốn, vị ấy sẽ tạo ra một con đường giữa hư không
nhờ biến xứ đất, và đi bộ trên đó. Nếu muốn, vị
ấy quyết định với biến xứ hư không rằng "có hư
không" và vị ấy đi qua hư không như một nắm bông
gòn. Hơn nữa, ước muốn đi là thước đo ở đây. Khi có
một ước muốn đi, một người đã làm quyết định ấy
trong tâm có thể đi hiện hình thấy rõ, được mang đi bởi
mãnh lực của quyết tâm giống như một mủi tên do nhà thiện
xạ bắn ra.
133. "Vị ấy chuyển
thân mình cho phù hợp với tâm của mình" vị ấy đem
thân xác đặt trên tâm. Vị ấy làm cho nó đi nhanh cho phù
hợp với vận hành của tâm, vì cái kiểu vận hành của
tâm là nhanh.
Vị ấy đạt đến tưởng
về lạc và tưởng về nhẹ: vị ấy đạt đến tưởng lạc
và tưởng nhẹ phù hợp với tâm thần thông mà đối tượng
của nó là cái thân xác. Những gì còn lại cần được hiểu
theo cách đã mô tả. Nhưng ở đây chỉ có sự đi của tâm.
134. Khi được hỏi:
"Khi vị ấy đi với một thân xác vô hình (không thể
thấy) như vậy, thì vị ấy đi vào lúc tâm quyết định khởi
lên, hay vào lúc nó trú, hay vào lúc nó diệt?" - Một vị
trưởng lão đáp: "Vị ấy đi vào cả ba thời" -
"Nhưng chính bản thân vị ấy đi, hay gởi một hóa
thân do vị ấy tạo?" - "Vị ấy muốn làm thế nào
cũng được cả." Nhưng ở đây, chỉ có sự đi của chính
vị ấy là được nói trong bản kinh văn.
135. Do ý sanh: do ý
(tâm) sanh, bởi vì nó được tạo bởi tâm ý trong sự quyết
định. Không thiếu căn nào: đây là nói đến hình dáng, lỗ
mắt, lỗ tai v.v... nhưng không có cảm tính trong một sắc
pháp được tạo tác mà thành. "Ðiều này nên hiểu là
hàm ý rằng, cũng không có nam nữ căn hay mạng căn nữa"
(Pm. 398) Nếu người có thần thông đi lui đi tới, hóa
nhân do người ấy tạo cũng đi lui đi tới v.v... tất cả
điều này chỉ cho những gì một vị đệ tử Phật tạo
ra, nhưng những gì đức Thế tôn biến hóa, thì làm theo những
gì Ngài làm, mà cũng làm những việc khác nữa tùy ý thích
của Thế tôn.
136. Khi người có thần
thông này, trong lúc ở đây, thấy được một sắc pháp bằng
thiên nhãn, nghe một âm thanh với thiên nhĩ, biết được tâm
(người khác) với tha tâm trí, thì vị ấy không vận năng
lực thân xác trong khi làm như vậy. Và khi vị ấy trong lúc
vẫn ở nguyên chỗ này, đứng với Phạm thiên nói chuyện,
đàm thoại với Phạm thiên, thì vị ấy không vận năng lực
thân xác trong lúc làm như vậy. Và khi vị ấy làm quyết định
được mô tả "mặc dù ở xa vị ấy quyết định lại
gần", thì vị ấy cũng không vận năng lực thân xác
trong khi làm như vậy. Và khi đi đến Phạm thiên giới với
một cái thân xác có thể thấy được hay không thể thấy
được, vị ấy không cần vận năng lực thân xác khi làm
như vậy. Nhưng khi vị ấy bước vào quá trình khởi đầu
là "Vị ấy tạo ra một sắc thân trước Phạm thiên
ấy: do ý sanh", thì vị ấy vận dụng năng lực thân
xác khi làm như vậy. Những gì còn lại được nói ở đây,
là với mục đích nêu rõ giai đoạn đi trước giai đoạn vận
dụng thân xác. Trước hết đó là (i) thành công do quyết
định (đ.45)
137. Sự khác nhau giữa
(ii) thành công kể như biến hình và (iii) thành công kể như
thân do ý sanh là như sau: (xem đ.22 và 45-6).
(ii) Một người thực
hiện một cuộc biến hình, cần phải quyết định về bất
cứ gì vị ấy muốn, trong số những vật khởi đầu là sự
xuất hiện (tướng) một đứa bé trai, mô tả như sau:
"Vị ấy từ bỏ hình dáng bình thường của mình và hiện
hình một cậu bé hay một Long vương (rắn), hay một quỷ Supanna
(loài da xoa có cánh), hay một a-tu-la, hay Ðế thích, hay
hiện hình một vị thiên thuộc Dục giới, hay hình Phạm
thiên, hay hiện hình biển, hình một tảng đá, một con sư
tử, một con cọp, một con báo, hay vị ấy bày ra một con
voi, một con ngựa, một cỗ xe, hay vị ấy hiện hình một
người lính đi bộ, hay hiện ra một cuộc bày binh bố trận".
(Ps. ii, 210)
138. Và khi vị ấy quyết
định, vị ấy nên xuất định từ thiền căn bản của thắng
trí và có một trong những vật khởi đầu là biến xứ đất
làm đối tượng, và vị ấy nên tác ý đến tướng của mình
như là một cậu bé. Sau khi tác ý và làm công việc chuẩn
bị xong, vị ấy nên nhập định trở lại rồi xuất định,
và nên quyết định rằng: "Ta hãy thành một cậu bé
thuộc mẫu người như vậy như vậy". Ðồng thời với
tâm quyết định, vị ấy biến thành cậu bé, như Devadatta
đã làm (Vin. ii, 185). Ðây là phương pháp trong tất
cả trường hợp. Nhưng "vị ấy bày ra một con voi"
v.v... được nói ở đây có nghia là bày ra một con voi,
v.v... ở bên ngoài. Ở đây, thay vì quyết định "Ta hãy
biến thành một con voi", vị ấy quyết định: Hãy có một
con voi! Cũng tương tự như thế trong trường hợp con ngựa
và những gì còn lại.
Ðây là thành công kể
như sự biến hóa.
139. (iii) Một người
muốn tạo thân ý sanh cần phải xuất khỏi định căn bản
và trước hết tác ý đến thân xác theo cách đã mô tả rồi
quyết định "Nó hãy rỗng ". Nó trở thành rỗng. Rồi
vị ấy tác ý đến một thân xác ở bên trong thân ấy, và
sau khi làm việc chuẩn bị theo cách đã nói, vị ấy quyết
định, "Hãy có một thân khác bên trong thân này ".
Rồi vị ấy kéo cái thân ấy ra như kéo một cây lau ra khỏi
vỏ nó, như rút một cây gươm ra khỏi vỏ, như một con rắn
lột xác ra khỏi vỏ. Do đó mà nói: "Ở đây, một tỷ
kheo tạo ra từ thân này một thân khác có hình sắc, do ý
sanh, với đầy đủ tứ chi, không thiếu căn nào. Giống như
thế một người người kéo một cây lau ra khỏi vỏ nó,
và nghĩ như sau: "Ðây là cái vỏ, đây là cây lau, cái
vỏ khác,cây lau khác; chính từ cái vỏ mà cây lau được rút
ra". (Ps. ii, 210) v.v... Và ở đây cũng như cây lau,
v.v... là giống với cái vỏ, cũng vậy sắc thân do ý sanh
cùng giống với người có thần thông, và ví dụ này được
nói lên để chứng minh điều ấy. Ðây là thần thông kể
như thân ý sanh.
Chương mười hai này,
gọi là "Mô tả về thắng trí", trong Thanh Tịnh Ðạo,
được soạn thảo vì mục đích làm cho những người lành
được hoan hỉ.
---o0o---
Mục lục
| 01 | 02
| 03 | 04
| 05 | 06
| 07 | 08
| 09 | 10
11 |
12
| 13 | 14
| 15 | 16
| 17 | 18
| 19 | 20
| 21 | 22
| 23
---o0o---
|
Thư
Mục Tác Giả |
---o0o---
Source: BuddhaSasana (www.budsas.org)
---o0o---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật ngày: 01-09-2002