Ăn Chay và Sức Khỏe
Trần Anh Kiệt
Sydney, 1999
--- o0o---
PHẦN MỘT
ĂN CHAY
THEO QUAN NIỆM
CỦA MỖI THỜI ĐẠI
Bài I
ĂN CHAY VÌ LÒNG THƯƠNG YÊU
LOÀI VẬT
Hiện nay một số nhà truyền giáo trên thế giới vẫn còn rao giảng với
tín đồ của họ rằng "loài vật là những cái máy không linh hồn và
không cảm giác". Do đó người ta có thể sát sinh các loại động vật
một cách vô tội vạ để lấy thịt cung cấp cho thị trường tiêu thụ. Tại
một số quốc gia trên thế giới, người ta còn lập ra các hội hoặc câu
lạc bộ săn bắn. Họ coi việc đi săn như một môn thể thao hay một trò
vui tiêu khiển. - Úc Châu có câu lạc bộ săn bắn vịt trời. Hàng năm
nhân đến mùa vịt trời tụ hội về, các xạ thủ thi đua nhau bắn chúng
để xem ai đạt được thành tích kỷ lục, rồi vứt bỏ các xác của vịt
trời ấy một cách tàn nhẫn và hoang phí mà không hề lấy thịt.
Tuy nhiên phong trào bảo vệ môi sinh và thương yêu cầm thú đã ra
đời. Họ cố gắng tranh đấu bằng mọi phương tiện truyền thông, báo chí
vân vân nhằm bênh vực sự hiện hữu của các sinh vật đáng thương này
trên quả địa cầu. Ông John Robbins, tác giả quyển Diet For A New
America (Phương pháp ăn uống cho một nước Hoa Kỳ mới), một quyển
sách thuộc hàng bán chạy nhất hiện nay trên thế giới đã có số phát
hành trên 450 ngàn quyển, đã phản bác luận điệu vô ý thức và đầy bạo
lực trên đây bằng những câu chuyện thật mà ông đã sưu tầm được qua
các phóng sự của báo chí khắp nơi. Chuyện của ông kể thì nhiều,
nhưng chúng tôi chỉ trưng dẫn ra đây một vài sự kiện tiêu biểu để
quý độc giả tiện việc suy xét.
1. Cá Heo Cứu Người
Vào năm 1971, cô Yvonne Vladislavich đã lái thuyền buồm vượt đại
dương. Đến vùng biển Ấn Độ thì tàu của cô bị lâm nạn. Mạn thuyền bị
bể, nước tràn vào và dần dần chìm xuống đáy biển. Nơi Yvonne bị đắm
thuyền là vùng biển rất nguy hiểm vì có nhiều cá mập sinh sống.
Trong khi đang vật lộn với sóng to gió lớn thì bất thình lình một
cái phao từ dưới đáy biển trồi lên và nâng thân hình của cô nổi lềnh
bềnh trên mặt nước. Cô quan sát và rất ngạc nhiên khi biết rằng đây
không phải là một cái phao mà chính là một con cá heo to lớn đang
thực hiện việc cấp cứu. Ngoài ra còn có hai con cá heo khác bơi
chung quanh để che chở cho cô khỏi bị tấn công bởi đàn cá mập quái
ác. Ba con cá heo đó cứ thế mà bảo vệ cô và từ từ đưa cô đến một cái
phao lớn mà người ta dùng để làm dấu hải phận để cô bám chặt vào một
cách an toàn. Sau khi Yvonne được một tàu hải hành cứu thoát, người
ta kiểm chứng biết được từ chỗ cô được đàn cá heo bảo vệ đến cái
phao an toàn có khoảng cách dài trên 200 hải lý.
Ngoài ra vào ngay 28 tháng 5 năm 1978, một chiếc tàu biển gồm bốn
thủy thủ đã bị thất lạc ở ngoài khơi đảo Dassen thuộc quốc gia Nam
Phi vì bị sương mù dầy đặc. Họ rất lo sợ vì biết rằng tàu đang trôi
giạt trên vùng biển có nhiều đá ngầm hiểm trở. Trong lúc mọi người
đang âu lo để tìm phương thoát hiểm thì bỗng thình lình tàu của họ
bị húc nhẹ và bị đẩy đi theo một hướng khác nên may mắn thoát ra
khỏi vùng sương mù bao phủ. Ra nơi quang đãng, mọi người trông thấy
một đàn cá heo đang đẩy mạnh chiếc tàu về nơi an toàn. Sau đó chúng
phóng lên khỏi mặt nước và nhào lộn nhiều vòng như hân hoan bái biệt
mọi người rồi biến dạng vào lòng biển cả.
2. Rùa Biển Cứu
Người
Một câu chuyện khác vào năm 1975, một chiếc tàu bị đắm ở ngoài khơi
hải phận Manilla, thủ đô của nước Phi Luật Tân. Mọi người trên tàu
nhốn nháo dành giựt xuống bè cấp cứu. Một người đàn bà chẳng may
không còn chỗ trên bè và đang vẫy vùng trên sóng nước trong tình
trạng vô cùng nguy ngập. Bỗng người ta trông thấy một con rùa biển
bơi nhanh về phía nạn nhân tuyệt vọng đó. Như may mắn vớ được phao
cấp cứu, người đàn bà này bèn bám chặt trên lưng rùa một cách an
toàn. Suốt hai ngày liền, rùa đã nhịn ăn để làm phao cấp cứu cho nạn
nhân được sống sót. Sau cùng người đàn bà này đã được cứu thoát bởi
một chiếc tàu biển khác. Có người lầm tưởng rằng nạn nhân được sống
sót là nhờ bám vào một vật nổi ở trên biển. Đến khi người đàn bà
được vớt lên tàu rồi, mọi người mới trông thấy rõ rùa biển trồi lên
trên mặt nước, vờn qua vờn lại nhiều vòng rồi mới biến dạng vào lòng
đại dương.
Theo sự nghiên cứu của nhà sinh vật học Henry Bergh, rùa biển này là
loài động vật sống lâu năm trên thế giới. Có con đã sống trên 600
năm. Thịt của nó rất quý và rất đắt tiền. Một số tàu đánh cá đã bắt
được những con rùa biển này, đâm thủng mai của nó rồi xỏ dây lôi
theo sau con tàu, hành hạ và bỏ đói chúng sau bao chặng đường thủy
lộ, trước khi thịt của chúng được "hân hạnh" xuất hiện trên dĩa của
những bàn tiệc sang trọng trong các nhà hàng quốc tế. Đáng tiếc thay
! Loài người chúng ta đã trả ơn những nghĩa cử cao đẹp đó bằng cách
hành xử không tương xứng như thế.
3. Chim Hoàng
Oanh Cứu Chủ
Vào năm 1950, một cụ bà hiền lành cư ngụ tại thị trấn Hemingtage
được nhiều bạn láng giềng cảm mến và gọi cụ một cách thân mật là cụ
Tess. Cụ sống cô đơn trong một căn nhà cũ kỹ nên nuôi một con mèo và
một con chim hoàng oanh để làm bạn hầu vơi bớt nỗi quạnh quẽ. Người
ta không biết cụ có con cái gì không ngoại trừ người cháu gái ở cách
nhà cụ vài trăm mét thường hay tới lui thăm viếng.
Một đêm nọ, vợ chồng người cháu gái bị đánh thức bởi tiếng vỗ cửa ở
bên ngoài. Người chồng lười biếng bảo: "Gió phe phẩy cành lá các cây
kiểng ngoài sân đó mà", rồi kéo chăn trùm lên tiếp tục ngủ nữa. Tuy
nhiên tiếng vỗ cửa càng ngày càng dồn dập và khẩn cấp hơn. Người
cháu gái bèn xuống giường và đến vén màn cửa sổ để xem việc gì động
tịnh ở bên ngoài. Cô rất lấy làm ngạc nhiên khi trông thấy con chim
hoàng oanh của bà cô mình đang xòe đôi cánh đập mạnh vào kính cửa
sổ. Cô giục chồng: "Chắc có việc gì xảy ra ở nhà cô của mình nên con
chim hoàng oanh mới bay đến vỗ cửa nhà mình một cách khẩn cấp như
thế". Người chồng bèn tung chăn xuống giường và vội vàng đưa vợ đến
nhà người cô trong khi con chim hoàng oanh đã sải cánh rớt độp xuống
khung cửa sổ mà chết vì quá kiệt sức. Đến nơi, hai vợ chồng người
cháu mới phát giác cô mình đã té, nằm bất tỉnh trên sàn nhà với mình
mẫy bê bết máu. Nếu không nhờ sáng kiến của con chim hoàng oanh bay
đi cấp báo thì vợ chồng người cháu gái đâu có đến kịp thời để cấp
cứu, thì biết đâu cụ Tess đã chết từ lúc nào rồi.
4. Loài Vật
Cũng Có Tình Mẫu Tử
Ngoài ra tại Úc Châu, vào năm 1998, theo tin tức báo chí và đài
truyền hình ở Sydney loan tải, một dã nhân cái tại sở thú Taronga đã
bỏ ăn bỏ uống và vô cùng buồn thảm trong nhiều ngày liên tiếp trước
cái chết của dã nhân con.
Frala là tên của dã nhân cái được các nhân viên sở thú đặt cho. Nó
thuộc gống dã nhân ở vùng đồng bằng và được đưa từ một sở thú khác ở
Hòa Lan về sở thú Taronga tại Sydney để tiếp tục nuôi dưỡng. Khi
thấy con dã nhân cái 17 tuổi này có thai, các nhân viên trách nhiệm
ai nấy cũng đều vui mừng vì biết rằng nó đã thích ứng với cách thức
nuôi dưỡng của họ.
Frala sinh ra một dã nhân con bé bỏng. Đây là đứa con thứ ba của
Frala và là đứa con thứ bảy của dã nhân đực Kibau do nhân viên sở
thú Taronga cho lai giống trong điều kiện tự nhiên ở Úc. Khi dã nhân
con này được 3 tuần tuổi, thì nó chết một cách đột ngột vào cuối
tháng 3 năm 1998 khiến cả bầy dã nhân nói chung và Frala nói riêng
đau khổ vô cùng. Người ta chưa từng thấy loài khỉ hay dã nhân khóc
bao giờ. Nhưng cử chỉ đau buồn của một người mẹ mất con đã biểu lộ
một cách rõ rệt ở Frala bằng cách ôm chặt xác chết của đứa con vào
lòng trong suốt 3 ngày liền và bỏ ăn bỏ uống. Sự kiện này đã làm cho
nhân viên sở thú nào trông thấy cũng đều mũi lòng. Vì tôn trọng tình
mẫu tử và để chia xẻ sự mất mát một đồng loại của bầy dã nhân, các
nhân viên sở thú bèn che kín chuồng lại để chúng được tự do thích
ứng với hoàn cảnh đau buồn. Ba ngày sau, khi họ đến mở cửa chuồng,
Frala nguôi ngoai được đôi chút. Nhưng nó không ra ngoài cùng đàn mà
lặng lẽ chui vào chuồng nằm ngủ. Các nhân viên trách nhiệm cũng đặc
biệt quan tâm đến dã nhân đực Kibau để tránh gây thêm đau buồn cho
nó.
Suốt mấy ngày liền, nhân viên sở thú cũng cảm thấy xót xa vì đã mất
đi một con vật thân thương do chính bàn tay họ đã nhiều ngày săn
sóc. Nhiều cú điện thoại và nhiều thư chia buồn cũng đã được gởi đến
từ những người thương yêu súc vật để chia xẻ sự mất mát này với Ban
Giám Đốc và nhân viên của sở thú Taronga.
Qua những sự kiện trình bày trên đây, chúng ta thấy loài vật cũng có
tình cảm, trí thông minh, lòng nhân ái và sẵn sàng xả thân để cứu
nguy tánh mạng của những chủng loại khác. Chính vì thế mà Đức Phật
đã dạy chúng ta phải ăn chay để trì giới sát hầu tôn quý sinh mạng
của tất cả mọi chúng sinh. Vì thế chúng ta nên thương yêu loài vật
vì chúng cũng được Tạo Hóa sinh ra và có quyền bình đẳng để hiện
diện trên quả địa cầu này. Cũng cùng một lý tưởng cao đẹp đó, các
hội Bảo vệ Môi sinh Thiên nhiên và Thương yêu loài vật khắp nơi trên
thế giới cổ động mọi người ăn chay, có nơi còn chống báng cả việc sử
dụng lông thú vật để may áo nữa.
[^]
Bài II
ĂN CHAY ĐỂ KIẾN TẠO MỘT XÃ
HỘI HÒA BÌNH
Nếu nhân loại trên toàn thế giới đều ăn chay trường, không nghĩ ngợi
gì tới chuyện sát sanh những động vật khác. Có lẽ cuộc sống của
chúng ta đã có một bộ măt tốt đẹp. Mọi người đều sống trong sự thanh
bình, không lòng sân hận , chém giết lẫn nhau. Ông Alvin Toffler đã
viết trong một quyển sách xuất bản hồi năm 1975 và đề nghị những
biện pháp để giải quyểt nạn khủng hoảng lương thực tại một số quốc
gia đói nghèo trên thế giới. Ông ao ước sẽ có một tôn giáo nào đó ở
phương Tây dấy lên phong trào chống đối và lên án gắt gao việc sát
hại súc vật với một số lượng khổng lồ dể làm thực phẩm cho dân
chúng. Số lượng ngũ cốc không còn dùng vào việc chăn nuôi nữa có thể
thỏa mãn sự dinh dưỡng cho loài người trên toàn thế giới.
1. Ăn Chay
Để Giải Quyết Nạn Nghèo Đói
Chuyên gia nghiên cứu thực phẩm More Lappé, tác giả quyển sách bán
chạy hiện nay Diet For A Smaller Planet (Phương pháp ăn uống cho một
quả tinh cầu nhỏ), đã xuất hiện trong một cuộc phỏng vấn trên đài
truyền hình gần đây rằng: "Chúng ta có thể ví một miếng thịt bò như
một chiếc xe hơi Cadillac". Bà giải thích tiếp: "Điều tôi muốn nói
là ở xứ Mỹ hiện thời, người ta thi đua nhau sắm những chiếc xe hơi
uống xăng như hạm chỉ vì giá nhiên liệu ở đó rất rẻ. Cũng như họ đã
dùng biết bao số lượng ngũ cốc để chăn nuôi cũng chỉ vì giá ngũ cốc
thật rẻ mà thôi".
Theo những chứng liệu cung cấp bởi Bộ Nông Nghiệp Hoa Kỳ, trên 90
phần trăm tổng sản lượng thóc lúa tại Mỹ được dùng vào kỹ nghệ chăn
nuôi thay vì dùng để xuất khẩu cứu giúp những dân tộc nghèo đói.
Trong các bữa ăn thường nhật của người dân Mỹ và các nước Tây Phương
lúc nào cũng thấy đầy dẫy những thịt. Người ta dùng nông phẩm để
chăn nuôi thật là một điều vô cùng lãng phí. Cũng do tài liệu của Bộ
Nông Nghiệp Mỹ thì người ta phảt mất tới 16 cân lúa mì để chăn nuôi
gia súc mà chỉ thu vào không đầy 1 cân thịt.
Tiến sĩ Aarol Altshul, trong quyển Protein: Their Chemistry and
Politics (Protein: Hóa Học và Chính Trị) đã viết: "Nếu chúng ta sử
dụng một diện tích đất 1 mẫu Anh (4046m2) để trồng hoa màu cung cấp
lương thực cho người ăn chay, ta sẽ được một sản lượng gấp 20 lần
nếu dùng dất ấy để chăn nuôi súc vật lấy thịt. Hiện nay tại Hoa Kỳ,
phân nửa diện tích đất để trồng trọt được dùng để sản xuất thực phẩm
gia súc. Tôi nghĩ rằng nếu toàn thể đất đai canh tác trên quả địa
cầu này đều được dùng để sản xuất nông phẩm cho loài người thì chúng
ta sẽ có khả năng cung ứng đầy đủ lương thực cho 20 tỷ dân số trên
thế giới một cách d dàng".
Do những sự kiện trình bày trên đây, các chuyên gia lương thực trên
thế giới bảo rằng nạn đói ngày nay không còn là một mối đe dọa trầm
trọng nữa. Người ta không nên e sợ nạn nhân mãn mà đi khuyến khích
việc phá thai, khiến hàng năm có đến 50 triệu thai nhi trên toàn thế
giới đã bị giết một cách oan uổng khi chúng chưa được hân hạnh cất
tiếng khóc chào đời. Nếu tính quân bình theo tổng sản lượng nông
phẩm trên toàn thế giới cho mỗi đầu người thì ngày nay được coi như
không còn xảy ra các nạn đói nữa. Nhưng điều dó chỉ là một ảo tưởng.
Trong một bản tường trình đọc trước Hội Nghị Lương Nông Quốc Tế tại
La Mã hồi năm 1974, ông René Dumont, một chuyên gia nông học của
viện Đại Học Nông Nghiệp Pháp đã phát biểu rằng: "Chính những bữa ăn
thịnh soạn đầy thịt của những người giàu có đã gây ra nạn đói kém
cho những người nghèo khổ". Tình trạng lãng phí nông phẩm trầm trọng
như thế phải được chấm dứt bằng cách chính quyền tại mỗi nước nên áp
lực các kỹ nghệ gia chăn nuôi không được dùng thóc lúa để làm thực
phẩm gia súc và phải hạn chế trại chăn nuôi đến mức tối thiểu.
2. Sự Ích
Lợi Của Những Con Bò Còn Sống
Một con bò còn sống sẽ cung cấp được nhiều lương thực hơn là một con
bò đã bị giết để lấy thịt. Bò sống có thể cung cấp nguồn thực phẩm
dồi dào và liên tục chứa nhiều chất protein cao như sữa, bơ, phó
mát, sữa chua v.v... Năm 1971, ông Stewart Odend’hal của trường Đại
học Missouri đã hướng dẫn một phái đoàn nghiên cứu về chăn nuôi sang
Bengal (Ấn Độ). Ông quan sát thấy rằng ở đây người ta không nuôi bò
bằng thóc lúa mà chỉ cho ăn bằng rơm, rạ, xác mía và cỏ. Nhưng trớ
trêu thay, ở Ấn Độ lại thường xảy ra nạn đói kém. Sự thiếu hụt lương
thực tại Ấn Độ không phải vì nhân dân xứ này thờ bò nên không giám
giết bò để ăn thịt, mà chính vì thiên tai hạn hán và những cuộc khởi
loạn chính trị xảy ra liên miên. Ngày nay Ấn Độ được coi như là đã
vượt qua tình trạng thiếu ăn trong dân chúng. Trong một báo cáo đọc
trước Quốc hội Ấn hồi tháng 2 năm 1980, các chuyên gia nông học đã
kết luận: "Ấn Độ ngày nay đã tự sản xuất đầy đủ lương thực để cung
ứng cho nhu cầu của nhân dân trong nước".
Bò sống cung cấp cho chúng ta sữa và những phó sản của sữa một cách
liên tục. Đây là những thực phẩm có phẩm chất bổ dưỡng cao. - Hoa Kỳ
sản phẩm của sữa rất dồi dào. Đôi khi người ta còn muốn hạn chế bớt
việc sản xuất. Dân biểu Sam Gibbons của tiểu bang Florida gần đây đã
báo cáo lên Quốc hội rằng chính phủ hiện nay đang bị bắt buộc phải
dự trữ sản lượng của sữa trên mức an toàn. Ông bảo với các đồng
viện: "Chúng ta hiện nay đang quản thủ đến 440 triệu cân bơ, 545
triệu cân phó mát và 765 triệu cân sữa bột. Hàng tuần mức tồn kho
vẫn còn tăng lên 45 triệu cân. Thực ra chỉ cần 10 triệu con bò sữa
như thế tại Hoa Kỳ đã cung cấp một sản lượng sữa và phó sản của sữa
dư thừa như vậy, khiến thỉnh thoảng phải xuất kho hàng triệu cân để
cung cấp hoặc viện trợ cho những dân tộc nghèo đói. Đây là một bằng
chứng hùng hồn cho thấy rằng giá trị của những con bò còn sống ích
lợi hơn những con đã bị giết chết để lấy thịt.
Hiện nay trên thế giới, người ta đã thành lập những phong trào bảo
vệ môi sinh, những phong trào chống đối việc sát hại các lọai cá
voi, cá heo và hải cẩu vân vân. Hiện cũng có một số phong trào
thương yêu loài vật nhằm chống đối việc sát hại động vật để làm thực
phẩm cho con người, trong số đó có nữ minh tinh điện ảnh đã một thời
nổi tiếng của nước Pháp là Brigit Bardo.
Những ai có dự phần vào kỹ nghệ chăn nuôi để sản xuất thịt thì mới
lo âu khi thấy khuynh hướng ăn chay càng ngày càng lan rộng trên thế
giới. Tháng 6 năm 1977, tạp chí thương mại tại Hoa Kỳ có tên là Farm
Journal, trong mục lá thư chủ nhiệm đã viết: "Ai là kẻ chống đối lại
danh từ thơm tho của thịt?" Tạp chí này còn kêu gọi các nhà chăn
nuôi chung góp một số tiền đến 40 triệu đô la để quảng cáo việc tiêu
thụ thịt hầu giữ vững giá cả của thịt trên thị trường.
3. Ăn chay
sẽ tránh được sự hư hại môi sinh
Ngày nay chúng ta phải trả một giá thật đắt cho sự ăn thịt là đã làm
hư hoại môi sinh thiên nhiên hữu ích cho nhân loại. Cơ quan nghiên
cứu về Nông Học Hoa Kỳ đã chỉ trích về những chất cặn bã do các lò
sát sinh thải ra đã làm dơ bẩn sông lạch. Nguồn nước tinh khiết còn
bị cạn dần do việc sử dụng một cách phí phạm bởi những lò sát sinh
đó. Trong quyển Population, Resources and Environment (Dân số, Tài
nguyên và Môi sinh), Paul và Anne Ehrlich đã so sánh: "Để thu hoạch
1 cân lúa mì, chúng ta chỉ cần 60 cân nước. Nhưng nếu muốn sản xuất
được 1 cân thịt, chúng ta phải cần tiêu thụ từ 2500 đến 6000 cân
nước". Năm 1973, tờ New York Post đã tiết lộ một tin động trời. Một
lò sát sinh lớn tại Mỹ chuyên cung cấp thịt gà đã sử dụng tới 100
triệu gallons nước mỗi ngày, tương đương với lượng nước cung cấp cho
một thành phố có 25 ngàn dân cư.
4. Ăn chay
có thể tránh mọi xung đột xã hội
Như chúng tôi đã trình bày ở trên, sản xuất nông phẩm để làm lương
thực cho loài người, chúng ta chỉ cần một diện tích đất đai tương
đối nhỏ. Nhưng nếu muốn sản xuất nông phẩm để cung ứng cho kỹ nghệ
chăn nuôi thì nhu cầu đồng cỏ và diện tích đất đai phải vô cùng rộng
lớn. Vì lẽ ấy mà từ ngàn xưa đã xảy ra các cuộc tranh chấp lãnh thổ
giữa các quốc gia với nhau. Một cuộc nghiên cứu được đăng tải trong
quyển The Plant Foods For Human Nutrition (Thức ăn cây cỏ cho sự
dinh dưỡng của loài người) đã so sánh: "Trên cùng một diện tích
?#7845;t một mẫu Anh, chúng ta trồng nông phẩm để làm lương thực thì
nó sẽ cung cấp một tỷ số chất protein nhiều gấp 5 lần so với dùng
đất ấy để chăn nuôi lấy thịt. Nếu trồng đậu chúng ta sẽ được chất
protein gấp 10 lần và nếu trồng cải spinach thì lượng chất protein
sẽ gấp 28 lần nhiều hơn". Qua lịch sử cổ đại của Hy Lạp, nhà triết
học nổi danh Socrates đã từng khuyên bảo loài người nên ăn chay. Đó
là một phương cách khôn ngoan mà con người đã tận dụng tài nguyên
phong phú do nguồn thực phẩm nông nghiệp cung cấp. Ông nhấn mạnh
thêm: "Nếu mọi người đều ăn thịt thì chúng ta phải cần rất nhiều
diện tích đồng cỏ để chăn nuôi nên d sinh ra các cuộc chém giết lẫn
nhau để tranh dành lãnh thổ".
Thật là khôi hài khi nói đến việc ăn thịt có liên quan chặt chẽ tới
những cuộc chiến tranh trong thời kỳ người Âu Châu mở mang đi xâm
chiếm thuộc địa. Đó là những cuộc chiến tranh vì hương liệu gia vị.
Thuở đó người Âu Châu chưa sản xuất các loại gia vị như tiêu, hành,
tỏi, ngũ vị hương vân vân, cho nên các thương nhân nhập cảng các
loại sản phẩm này thường rất giàu có. Các nhà lãnh đạo của một số
nước Tây Phương vì lòng tham nên đã động binh xâm chiếm Ấn Độ và một
số quốc gia phương Đông với ý đồ vừa cướp đoạt lãnh thổ, bắt dân nô
lệ và vừa nắm trọn quyền kiểm soát thu mua các loại hương liệu gia
vị đắt tiền.
Trong kỷ nguyên này, nguồn lợi về sản xuất lương thực cũng còn là
một ám ảnh d gây ra các cuộc bạo động và tranh chấp. Tháng 8 năm
1974, cơ quan Tình Báo Trung Ương Hoa Kỳ (CIA) đã cảnh giác rằng
trong tương lai gần, có thể sẽ không đủ lương thực cho toàn thế giới
vì sự gia tăng dân số càng ngày càng nhiều. Song sự kiện này có thể
khắc phục được bằng cách tiết chế việc dùng nông phẩm để chăn nuôi
gia súc, hầu gia tăng lương thực cho loài người.
Như chúng tôi đã trình bày ở trên, gạo, lúa mì, sữa và đậu là những
nguồn cung cấp chất protein dồi dào cho nhân loại. Do đó ăn chay bao
giờ cũng có nhiều chất dinh dưỡng nên rất tốt cho sức khỏe của con
người. Chúng ta có thể so sánh: 100g thịt bò chứa 20g chất protein,
100g phó mát chứa 25g và 100g đậu nành chứa đến 34g chất protein.
Mặc dầu thịt chứa ít chất protein hơn nhưng giá thị trường lại đắt
hơn.
Vì những sự bất lợi của việc ăn thịt đã gây ra biết bao phiền toái
và thảm trạng cho loài người, nên đã đến lúc chúng ta nên ăn chay để
giữ gìn cho quả địa cầu này khỏi bị nhiều xáo trộn.
[^]
Bài III
ĂN CHAY VÀ QUAN NIỆM CỦA
DANH NHÂN THẾ GIỚI
Tại Hoa Kỳ, người ta ước lượng hàng năm có đến 134 triệu súc vật và
3 tỷ gia cầm bị giết để cung cấp thịt làm thực phẩm cho dân chúng.
Nhưng trong khi mọi người đang vui vẻ thưởng thức các món ăn khoái
khẩu đó, có mấy ai liên tưởng đến một số lượng khổng lồ các loài
động vật bị giết chết một cách thảm thương để cho thân thể của con
người được béo bổ. Đôi khi người ta còn nhẫn tâm đùa cợt trên sự
chết chóc một cách thích thú và vô tư lự. Điển hình là danh hề
Ronold Mac Donald, trong một chương trình truyền hình thương mại, đã
khôi hài với đám trẻ con rằng: "Các em có biết hamburger xuất xứ từ
đâu không ? Chúng được trồng ở vườn Hamburger đấy !" Đến lò sát
sinh, người ta có cảm tưởng như bước chân tới một thứ địa ngục đầy
mùi tử khí. Tiếng kêu la thất thanh của những con vật bị đập đầu, bị
điện giật hay là bị bắn cũng đều là những cảnh hãi hùng mà bất cứ ai
có một chút từ tâm đều không thể chịu đựng nổi. Sau đó người ta còn
treo giò những con vật lên rồi đưa vào nhà máy sản xuất thực phẩm
bằng hệ thống dây chuyền. Đôi khi con vật còn sống trơ trơ, nhưng
người ta thản nhiên cắt cổ nó hoặc thẻo thịt nó như một trò chơi một
cách thích thú. Một hôm nọ, nhà vô địch quần vợt Peter Burwash
đến viếng một lò sát sanh. Khi ra về ông đã bất nhẫn mà viết những
cảm nghĩ của mình trong một quyển sách nhan đề là A Vegetarian
Primer (Sách dạy ăn chay). Có đoạn ông viết: "Tôi không nỡ bóp nát
một cánh hoa mong manh. Tôi đã chơi hockey với hết sức bình sanh của
minh. Tôi cũng đã từng vùng vẫy và dọc ngang trên các sân quần vợt
trong những trận thư hùng. Tôi không phải là loại người yếu đuối.
Nhưng trước cảnh tượng mà tôi đã chứng kiến tại lò sát sanh, tôi
thấy mình kinh khiếp và lòng mình mềm yếu vì thương hại".
"Khi tôi rời khỏi lò sát sanh, sự tội nghiêp đã dày vò lương tâm
tôi. Tôi thầm nhủ sẽ không bao giờ có đủ can đảm đi sát hại một con
vật dầu lớn dầu nhỏ. Tôi hiểu rằng có những nhân vật lỗi lạc trên
thế giới họp nhau để bàn cãi về các vấn đề vật lý, kinh tế và môi
sinh. Cũng có một số người có quan điểm tán đồng với chủ thuyết ăn
chay. Song điều làm cho tôi chọn lấy con đường chay lạt không phải
chạy theo chủ thuyết này hay chủ thuyết nọ mà chính vì những cảnh dã
man mà con người đã đối xử một cách tồi tệ với các loài vật không
phương tự vệ mà tôi đã tận mắt chứng kiến".
Trong thời kỳ cổ Hy Lạp và cổ La Mã, lòng từ bi và những quan niệm
về sự đối xử đạo đức luôn luôn là những nguyên động lực chủ yếu
khiến một số danh nhân khép minh trong việc thọ trì trai giới. Ông
Pythagore, nhà toán học lừng danh trên thế giới đã từng khuyên
nhủ: "Này bạn, xin đừng làm nhơ nhớp thân thể của mình bằng những
thức ăn tội lỗi. Chúng ta đã có bắp, bôm, lê, rau trái thừa thải,
sữa và mật ong ngọt lịm. Quả đất này đã cung ứng cho chúng ta những
thức ăn vô tội một cách dồi dào, đã khoản đãi chúng ta bằng những
bữa tiệc không can dự vào máu. Chỉ có loài thú này mới ăn thịt loài
thú khác vì bản năng tự nhiên và vì đói. Nhưng không phải tất cả
loài thú nào cũng vậy. Bởi vì trong số đó cũng có các loài như bò,
ngựa và trừu...đều ăn cỏ".
Sử học gia Diogenes kể rằng, ông Pythagore dùng điểm tâm buổi
sáng bằng bánh mì và mật ong và dùng bữa ăn chiều với nhiều loại rau
quả. Ngài cũng đã thể hiện lòng từ bi bác ái qua những hành động
thực tin bằng cách nhiều lần trả tiền cho một số ngư phủ để phóng
sanh những con cá mà họ đã bắt được trở về lòng biển cả.
Ông
Plutarch, triết gia người Hy Lạp nhận xét về ông Pythagore
như sau: "Theo tôi sự từ tâm là lý do chính khiến ông Pythagore
kiêng thịt. Ông không nỡ nhìn cảnh dẫy dụa và kêu rống thất thanh
của những con vật khi bị người ta phanh thây xẻ thịt. Người ta giết
những con vật đó không phải vì lý do chúng là thú dữ có khả năng
nhiu hại loài người, mà chính vì mục đích để thỏa mãn khẩu vị của họ
mà thôi. Người ta bức tử những con vật ngây thơ không móng vuốt để
tự vệ mà đáng lý ra theo luật Tạo Hóa, chúng cũng có quyền sinh tồn,
bình đẳng và hiện diện để làm đẹp quả địa cầu này như tất cả mọi
loài". Ông còn nhấn mạnh: "Nếu bảo rằng bản tính tự nhiên của loài
người là ăn thịt các loài thú, thì thử hỏi chỉ với hai bàn tay trắng
do Tạo Hóa sinh ra, mà không cần đến sự trợ lực của dao, mác, hèo,
gậy, con người đã làm được gì các loài thú đó?"
Ông
Léonard Da Vinci (1452 - 1519), nhà danh họa và điêu khắc gia
người Ý, đồng thời cũng là một thi sĩ nổi tiếng trên thế giới quan
niệm ăn chay là đạo đức của con người. Sự ăn chay sẽ tránh được
những tội ác về sát sinh. Ông còn nhấn mạnh rằng những ai không biết
quý trọng sự sống của những sinh vật khác là những kẻ không đáng
sống. Cơ thể của những người ăn mặn không khác gì những bãi tha ma
để chôn vùi xác chết các thú vật mà họ đã ăn vào. Trong các quyển vỡ
nhật ký, ông thường viết đầy những câu danh ngôn về lòng từ bi bác
ái và luôn luôn có những hành động qúy thương các loài sinh vật
khác.
Ô?g
Jean Jacques Rousseau (1712 - 1778), triết gia và là một văn
hào người Pháp đã có những tác phẫm giá trị về mặt tư tưởng đã ảnh
hưởng sâu xa đến nền văn học và cuộc cách mạng lịch sử tại quốc gia
này. Ông là người chủ trương bênh vực sự hiện hữu của thiên nhiên và
cổ xúy sự ăn chay. Ông nhận xét rằng phần đông những loài thú ăn
thịt có bản tính hung tợn hơn những loài thú ăn cỏ. Và dĩ nhiên
những người ăn chay trường sẽ hiền từ hơn những người ăn mặn. Ông
còn đề nghị những người hành nghề đồ tể không được mời vào làm bồi
thẩm đoàn tại các tòa án.
Kinh tế gia Adam Smith (1723 - 1790), trong quyển The Wealth of
Nations xuất bản vào năm 1776 đã khuyến khích loài người ăn chay và
đã thuyết minh về sự lợi ích của việc thọ trì trai giới. Ông bảo
rằng việc ăn mặn xét ra không cần thiết cho nhu cầu dinh dưỡng của
con người. Chúng ta đã có ngũ cốc, rau quả, phó mát, dưa và dầu thực
vật. Đó là những thức ăn cung cấp cho chúng ta những chất dinh dưỡng
dồi dào. Thịt đối với chúng ta sẽ không nghĩa lý gì nếu chúng ta ăn
chay đầy đủ và đúng cách.
Cùng một quan niệm trên, ông Benjamin Franklin
(1706 - 1790), một khoa học gia và là một chính trị gia nổi tiếng
của Hoa Kỳ, người đã bắt đầu ăn chay từ năm 16 tuổi đã bảo rằng nhờ
ăn chay mà cơ thể của ông được trong sạch, tinh thần của ông được
minh mẫn, trí óc của ông được tiến bộ và sự hiểu biết của ông được
nhanh chóng hơn. Trong một bài tự thuật, ông có bình phẩm những
người ăn mặn là "những kẻ cố sát".
Thi sĩ Percy Bysshe Shelley (1792 - 1822) cũng là người ăn chay
trường. Ông chủ trương chống báng việc sát hại súc vật để cung cấp
thịt cho dân chúng tiêu thụ. Ông đã có lòng vị tha và bắt đầu ăn
chay trường từ hồi còn là một sinh viên tại trường Đại học Oxford.
Sau này ông thành hôn với bà Harriet. Cả hai vợ chồng đều chấp nhận
một cuộc sống chay lạt thanh khiết. Trong một bức thư đề ngày
14-3-1812, bà Harriet đã tâm sự với một người bạn: "Vợ chồng chúng
tôi đã kiêng thịt và ăn chay trường như ông Pythagore vậy". Một số
thi phẩm của ông Shelley thường mang tính chất vị tha bác ái.,
khuyên nhủ mọi người tránh việc sát sanh, nên ăn chay và sống một
cuộc đời thanh cao tốt đẹp.
Văn hào nước Nga Léon Tolstoi (1828 - 1910) đã thọ trường chay
từ năm 1885. Ông chống đối thú săn bắn của một số giai cấp qúy tộc
và trưởng giả. Ông cũng chủ trương không sát sanh, chủ trương chủ
thuyết hòa bình và ăn chay, tôn trọng sự sống của các loài sinh vật
khác kể cả con ong và loài kiến. Ông tiên đoán những bạo động xảy ra
triền miên trên thế giới chỉ vì loài người không biết tự chế tham
vọng của mình. Sự kiện càng ngày càng tệ hại hơn và có thể xảy ra
những cuộc chiến tranh khốc liệt làm xáo trộn cuộc sống an bình của
nhân loại. Trong bài tham luận The First Step (Bước đầu tiên), Léon
Tolstoi bảo rằng những người ăn thịt là những kẻ phản đạo đức và
"phạm tội sát sinh". Ông nói thêm: "Sự sát sinh đã làm cho những
người vốn có một tâm hồn cao thượng, có lòng vị tha đối với mọi
người như đối với chính bản thân mình, trở thành những kẻ hung bạo".
Nhà soạn nhạc Richard Wagner tin tưởng mạnh mẽ rằng sự sống của
mọi loài đều có tính cách bất khả xâm phạm. Ông bảo: "ăn chay là một
sự dinh dưỡng thuần hợp với bản chất thiên nhiên, cứu vớt con người
xa lánh những tâm địa và hành động tội lỗi, đồng thời ông cũng mong
ước sau này sẽ được hóa sinh về nơi an lạc đời đời".
Ông
Henry David Thoreau (1817 - 1862), văn hào Hoa Kỳ có khuynh
hướng chống áp bức nô lệ, chủ trương một cuộc sống thanh bình và
thuận lý thiên nhiên. Ông là người ăn chay định kỳ từ thuở nhỏ, đã
bảo rằng: "Chúng ta không có trách cứ những người ăn mặn. Thực ra vì
sự sinh tồn, loài người có thể sát sinh trên một bình diện nào đó.
Nhưng đây là một biện pháp bất khả kháng và rất đáng thương tâm.
Những người ăn mặn cần phải được hướng dẫn để cải thiện dần đường
lối mưu sinh của mình, để họ tự ý thức và tự chọn lựa cho mình những
thức ăn chay thanh đạm và cao khiết hơn. Theo sự suy nghiệm của bản
thân tôi thì những sự kiện đó can dự một cách quan trọng vào vấn đề
vận số của con người. Tôi tin rằng điều kiện ăn uống có thể cải
thiện được. Xuyên qua tiến trình lịch sử của nhân loại, chúng ta há
chẳng thấy những bộ lạc ăn thịt người từ thuở xa xưa, ngày nay họ
không còn ăn thịt lẫn nhau vì đời sống càng ngày càng văn minh hơn
và con người trong những bộ lạc đó đã có ý thức hơn".
Trong lịch sử Án Độ vào thập niên 1940 và 50, nhà cách mạng bất bạo
động Mohanda Gandhi đã dành lại chủ quyền cho đất nước từ
trong tay thực dân Anh Quốc. Ông đã từng vào tù ra khám và được nhân
dân nước Ấn tôn thờ là bậc Thánh nhân, cũng là người đã ăn chay từ
thuở nhỏ. Thân sinh của ngài vốn theo đạo Hindus nên gia đình của
ngài là một gia đình đạo đức và tất cả đều ăn chay theo giáo lý tốt
lành của tôn giáo đó. Song dưới sự cai trị của Anh Quốc, những tư
tưởng tân tiến Tây phương đã ảnh hưởng mạnh mẽ và dần dần đánh bạt
một số phong tục cổ truyền của nước Ấn. Một số thanh niên thời bấy
giờ đã chê bai việc ăn chay trường và thờ đạo bản xứ là hủ lậu nên
họ học đòi theo lối sống Tây phương trong đó có việc ăn thịt được họ
hăm hở chấp nhận hơn cả. Số người này còn khuyến dụ ông Gandhi theo
trào lưu mới như bọn họ, nhưng đã bị ông từ chối. Do đó ông đã trở
thành nạn nhân của sự chê bai gièm xim. Họ bảo rằng ăn thịt sẽ tăng
cường sức khỏe, nghị lực và lòng can đảm. Nhưng ông Gandhi vẫn khăng
khăng giữ vững lập trường của mình không hề xao xuyến. Không những
thế ông còn viết tất cả 5 quyển sách chuyên về đề tài ăn chay và
khuyên mọi người trì giới. Ông bảo: "Đã đến lúc chúng ta cần phải
sửa sai một số tư tưởng lầm lẫn cho rằng ăn chay sẽ làm cho tinh
thần chúng ta bị bạc nhược, thụ động và nhụt chí phấn đấu. Dù trong
tình huống nào, tôi vẫn không xem việc ăn thịt là cần thiết".
Hàng ngày ông Gandhi thường dùng giá lúa mạch, bột hạnh nhân, rau
xanh, chanh và mật ong trong những bữa ăn thanh đạm. Chính ngài bảo
đã tìm thấy những nguyên lý và giá trị đạo đức của sự ăn chay qua
các tác phẩm của nhà văn Tolstoi. Trong quyển Moral Basis of
Vegetarianism (Căn bản đạo đức của chủ thuyết ăn chay), ngài viết:
"Tôi khẳng định rằng thịt không phải là thức ăn thích hợp với con
người. Chúng ta không nên sai lầm chạy theo lối sống của các loài
cầm thú, nếu chúng ta tự coi mình cao thượng hơn các loài cầm thú
đó". Ngài cũng bảo chính lòng từ bi là nguyên động lực khiến người
ta ăn chay và tránh sát sinh hơn là vì lý do sức khỏe Ngài bảo sự
tiến bộ về tâm linh đến một mức nào đó, con người sẽ tự ý thức và
thương hại mà không giết chóc "những sinh vật bạn bè của chúng ta để
thỏa mãn nhu cầu của khẩu vị".
Kịch tác gia nổi tiếng Bernard Shaw (1856 - 1950) đã được
giải thưởng về văn học nghệ thuật Nobel năm 1925. Ông cũng ăn chay
trường từ năm 25 tuổi. Ông bảo chính những thi phẩm của Shelley đã
làm cho ông thức tĩnh và thấy được sự đạo đức trong vấn đề chay lạt.
Ông bảo có lần ông bị bịnh. Bác sĩ khuyến cáo ông hãy bỏ "cái tật
xấu ăn chay" đó đi. Nếu không ông sẽ toi mạng vì kiệt sức. Nhưng ông
vẫn bất chấp. Ông cũng mặc kệ trước những mỉa mai của bàng dân thiên
hạ, vô công rổi nghề. Ông bảo chúng ta không nên quan tâm về sự gièm
pha của số người chuyên ăn các thây ma của thú vật ấy. Ông thường
trước tác những kịch bản và những văn phẩm liên hệ tới hành vi đạo
đức của con người, tới sự sát sanh và những bạo động trên thế giới.
Trong tác phẩm A Modern Utopia (Một thế giới toàn chân hiện đại),
ông H.G.Wells
còn ước vọng xa hơn: "Trong thế giới toàn thiện đó, loài người sẽ
không sát sanh và ăn thịt. Dù trước kia họ có phạm phải. Nhưng giờ
đây họ đã vui vẻ vất đi cái tư tưởng của sự sát sanh. Khi mọi người
đều được giáo dục có một trình độ và lý tưởng tốt đẹp thì khó mà tìm
thấy một người nào đó có đủ can đảm cầm dao sát hại một con vật
khác. Chừng đó tôi sẽ reo vui như một đứa trẻ con và mừng rỡ trông
thấy lò sát sanh cuối cùng đã tự đóng cửa".
Albert Einstein (1879 - 1955), nhà bác học nổi danh của thế kỷ
thứ 20. Người đã phát minh ra thuyết tương đối và được tặng giải
Nobel về vật lý học năm 1921 cũng là một người ăn chay trường. Tuy
ông chánh thức không theo tín ngưỡng nào nhưng là một người rất sùng
đạo. Ông tin có Thượng Đế và vũ trụ này được điều khiển bởi một cơ
Trời huyền diệu. Nếu không thì mọi sự vận hành trong vũ trụ sẽ loạn
lên và không theo một quy luật nhất định. Ông là một người yêu
chuộng hòa bình, tôn trọng sự sống của muôn loài và đã từng phát
biểu: "Không gì ích lợi cho sức khỏe của con người để có cơ hội sống
lâu trên quả địa cầu này bằng cách ăn chay".
Văn hào Isaac Bashivis Singer (sinh năm 1904), từng đoạt giải
thưởng văn học nghệ thuật Nobel năm 1978 đã thọ chay trường từ năm
1962. Lúc đó ông vừa đúng 58 tuổi. Ông bảo ông rất lấy làm hối tiếc
vì đã kéo dài thời gian ăn mặn quá lâu. Nhưng thà muộn còn hơn chẳng
bao giờ ăn chay cả. Ông nghĩ rằng thuyết ăn chay để tránh sát sanh
cũng cũng cùng hòa hợp với sự uyển chuyển huyền vi của Do Thái giáo.
Ông bảo: "Chúng ta đều là con cái của Thượng Đế. Trong khi chúng ta
cầu xin Thượng Đế tha tội cho chúng ta, thì ngược lại chúng ta cứ
tiếp tục phạm tội sát hại sinh mạng của những động vật khác". Đề cập
tới tình trạng sức khỏe có thể bị ảnh hưởng bởi sự ăn chay, ông bảo
rằng dó là hoàn toàn dựa trên ý thức của loài người. Ông cương quyết
bảo: "Ngay cả việc ăn mặn có tốt cho cơ thể như thế nào chăng nữa,
tôi sẽ không bao giờ chấp nhận. Rất nhiều triết gia và các nhà
truyền giáo trên thế giới đã rao giảng với tín đồ của họ rằng loài
thú chẳng qua chỉ là những cái máy không linh hồn và không cảm giác.
Những lời rao giảng như vậy là một sự nói láo, là sáng kiến và chủ
trương của bọn ma vương và tà đạo mà thôi".
[^]
Bài IV
ĂN CHAY VÀ QUAN NIỆM CỦA TÔN
GIÁO
Các tôn giáo lớn trên thế giới hầu như lúc khởi thủy đều răn dạy tín
đồ không được sát sanh hại vật và phải luôn luôn thọ trì trai giới.
Nhưng trải qua nhiều thế kỷ, những kinh điển nguyên bản được chép
tay truyền lại từ đời này sang đời khác, được chuyển dịch sang nhiều
ngôn ngữ khác nhau hoặc được hiệu đính bởi nhiều giáo chủ và Hội
Đồng Giáo Phẩm thời đại, nên có lẽ đã có phần sai lệch với kinh điển
nguyên sơ. Do đó sự cấm sát sinh và thọ trì trai giới không còn được
một số tôn giáo chấp hành nghiêm chỉnh. Để giữ tính cách vô tư, tác
giả xin trích dẫn một cách trung thực những tài liệu tham khảo mà
không hề din giải, bình phẩm hoặc có quan điểm cá nhân. Nếu có điều
gì sơ sót thì đó chẳng qua chỉ là ngoài ý muốn của tác giả. Kính xin
quý vị lãnh đạo tinh thần và quý tín hữu các tôn giáo rộng lòng tha
thứ.
Theo sử sách, chúng ta thấy rằng ở Ai Cập thuở xưa, các tu sĩ cũng
chủ trương ăn chay. Họ kiêng thịt cá và kể cả không ăn trứng nữa, vì
họ định nghĩa trứng là một thứ thịt ở trạng thái lỏng (a).
Các tu sĩ này cũng chủ trương sống độc thân và giữ vững lời nguyện
xả thân để phục vụ đạo pháp. Mặc dầu trong kinh Cựu Ước, kinh điển
nền tảng của Do Thái Giáo, có vài chỗ đề cập tới việc ăn mặn, nhưng
tựu trung giáo lý căn bản vẫn dạy tín đồ phải trường chay và không
sát sinh hại vật. Trong Sáng Thế Ký (Genesis1:29), quyển đầu của
kinh Cựu Ước có đoạn viết: "Chúa phán rằng: Ta đã ban cho các con
đầy đủ các loại rau quả và ngũ cốc khắp nơi trên thế giới này. Đó là
thức ăn của các con vậy"(b). Thánh Kinh cũng nói lúc mới tạo
thiên lập địa, Thượng Đế cũng không có sáng tạo ra các loài vật này
biết ăn thịt các con vật khác. Sáng Thế Ký (1:30) viết tiếp:"Chúa
phán: Cùng những loài thú khắp nơi trên địa cầu, những nơi có sự
sống, ta đã ban cho các ngươi các loại rau quả và ngũ cốc để ăn. Các
ngươi không được ăn thịt"(b). Trong đoạn này ở Sáng Thế Ký (9:4)
nhấn mạnh hơn: "Thịt vốn có máu và có sự sống, nên các con không
được ăn".(b)
Trong các quyển Thánh Thư, phần lớn những lời rao giảng đều lên án
việc ăn thịt. Isaiah (1:15) viết: "Chúa phán rằng: Ta ghét các
ngươi cúng dường ta nào là thịt trừu nướng, thịt của những loài thú
béo bổ khác. Ta không có thích máu của những con bò mộng, của những
con trừu hoặc các con dê đực. Vì thế khi các ngươi ngửa tay xin tội,
ta đã ngoảnh mặt đi. Khi các ngươi cầu nguyện, ta sẽ không nghe. Tại
vì bàn tay của các ngươi đã vấy đầy máu"(b). Theo Isaiah (66:3):
"Hành động giết chết một con bò chẳng khác gì hành động vặn cổ một
con người vậy"(b).
Trong Thánh Kinh cũng có chuyện về Thánh Daniel. Khi còn sanh tiền,
có lần ngài đã bị giam trong ngục thất tại thành Babylon, ngài đã từ
chối các thức ăn mặn do bọn cai ngục mang tới mà quyết đòi cho được
đồ ăn chay mới thôi.(a)
Ngày nay đại đa số trong chúng ta nghĩ rằng Chúa Jesus đã ăn thịt vì
đã có một số khoản liên quan đến việc ăn mặn trong kinh Tân Ước.
Nhưng nếu chúng ta tra cứu và so sánh với Thánh Kinh nguyên bản bằng
tiếng Hy Lạp thì đó chẳng qua chỉ là một sự sai sót trong khi dịch
thuật mà thôi (a). Và đây là lời tiên tri nổi tiếng của Isaiah về sự
giáng trần của Đức Chúa Giê-Su: "Hỡi các con! Ta báo tin cho các
con biết rằng một vị nữ đồng trinh sẽ thụ thai và sẽ hạ sinh một
người con trai. Người con trai đó có tên là Immanuel (tên của Đức
Chúa Giê-Su). Bơ và mật ong sẽ là thức ăn chính của ngài. Đó là ý
nghĩa Ngài sẽ xua đuổi bọn tà ma quỉ quái và sẽ ban phát những điều
lành mà thôi"(b). Thánh Clément cũng thọ trường chay. Ngài đã
tán dương vị tông đồ của ngài là Mathew vì ông chỉ dùng những thực
phẩm chay như ngài vậy. Thánh Jérome, người đã dịch Thánh Kinh ra
tiếng La Tinh và đã lưu truyền đến ngày nay, đã từng viết: "C? thức
ăn chay rất giản dị, d nấu nướng mà lại rất rẻ tiền". Ngài cũng bảo
ăn chay là phương cách tốt nhất để chúng ta tu niệm hầu theo đuổi
con đường thánh thiện. Thánh Chrysotom quan niệm ăn thịt sẽ tạo cho
con người có bản tính hung dữ và không phải là một tập quán bình
thường của người tín đồ Thiên Chúa Giáo. Ngài nói: "Chúng ta đã
có thói quen
bắt chước theo hành vi của những con chó sói, những con beo. Hoặc
giả còn tệ hơn hành vi của chúng nữa. Bản tính bẩm sinh của loài thú
đã được an bài như vậy. Còn đối với chúng ta, Thượng Đế đã ban cho
cái vinh hạnh được biết nói, biết cảm giác và biết suy nghĩ được sự
công bằng và lẽ phải. Nhưng ngược lại chúng ta lại còn xấu xa hơn
các loài thú đó nữa" (a).
Thánh Benedict, người đã sáng lập ra giáo phái Benedictine Order vào
công nguyên 529, đã quy định các giáo sĩ ở trong giáo hội phải ăn
chay trường. Giáo phái Trappist sáng lập từ thế kỷ thứ XVII cũng quy
định khắt khe rằng các tín đồ không được ăn thịt động vật và kể cả
không ăn trứng nữa. Quy luật này đã được giải tỏa bởi Hội Đồng Giáo
Phẩm Vatican hồi thập niên 1960. Nhưng phần lớn tín đồ của môn phái
này vẫn tiếp tục thọ trì trai giới theo giáo lý nguyên thủy. Tuy
nhiên hiện thời cũng có một số chủng viện Trappist đã cải cách. Cho
phép chăn nuôi gia súc và xẻ thịt bán ngoài thị trường để gây quỹ
cho nhà chung (a).
Giáo hội Seventh Day Adventist Church nghiêm cấm các tín đồ sát sinh
và ăn mặn. Tiến sĩ John H. Kellogg, tín đồ trung kiên của giáo phái
này ở Hoa Kỳ đã cổ xúy mọi người ăn chay. Ông đã cai quản một bệnh
viện bằng cách cho các bệnh nhân điều dưỡng chỉ toàn bằng những thức
ăn chay mà thôi (a).
Ngoài ra ông Kellogg cũng đã chế biến ra một loại thực phẩm chay rất
tiện dụng. Đó là loại cốm giẹp bắp (corn flakes). Ban đầu loại thực
phẩm tiện dụng này chỉ lưu hành trong giới giáo hữu, nhưng sau đó
nổi danh và hiện thời đã có lắm công ty trên thế giới hoạt động với
tính cách tư lập để sản xuất corn flakes hoặc những thức ăn tương tợ
cũng lấy nhãn hiệu Kellogg’s.(a)
Quốc gia có số dân ăn chay nhiều nhất trên thế giới phải kể là Ấn
Độ, quê hương của đạo Hindus và Phật Giáo. Vốn ảnh hưởng bởi giáo lý
tốt lành không sát sanh và không bạo lực, đa số dân Ấn là những
người có tín ngưỡng và chấp hành nghiêm chỉnh những giới luật của
tôn giáo họ. Kinh Vệ Đà, tiền thân của các kinh điển Phật giáo, xác
quyết rằng ăn chay là nền tảng của đạo đức khả dĩ tránh được các
việc bạo động có thể xảy ra. Luật cổ xưa của Ấn Độ Manu-Samhita đã
din giải: "Ăn thịt dĩ nhiên phải sát hại sinh mạng của những động
vật khác. Sự sát sinh đó sẽ làm ngăn trở con đường tìm đến hạnh phúc
của Thiên Đường. Vì thế chúng ta đừng có ăn thịt". Trong một
chương khác, Manu-Sahimta cũng cảnh cáo:"Sự
cùm chân và giết chết sinh mạng của nhũng động vật khác để lấy
thịt là nguồn gốc của sự hung dữ. Nên chúng ta phải tránh xa ra và
đừng có ăn thịt" (a).
Trong những năm gần đây, giáo hội Hare Krishna đã phát động phong
trào khuyến khích mọi người ăn chay trên toàn thế giới. Srila
Prabhupada, vị lãnh đạo tinh thần của phong trào có lần đã nói: "Luật
Manu-Sahimta cũng cấm việc trả thù bằng cách lấy mạng đền
mạng. Ngay cả giết một sinh vật nhỏ như con kiến cũng chịu trách
nhiệm về hậu quả của nghiệp chướng. Bởi vì chúng ta không sáng tạo
ra được những sinh vật đó nên chúng ta không có quyền cướp đi sinh
mạng của chúng. Vì thế pháp luật do loài người đặt ra có sự phân
biệt giữa sát sinh và sát nhân là một thứ luật lệ không hoàn mỹ.
Theo luật công bình của Tạo Hóa, giết chết một sinh vật có tội như
giết chết một con người vậy. Chính 10 điều răn trong Thánh Kinh cũng
đã dạy không được sát sinh (Thou shalt not kill) là một thứ luật lệ
vô cùng hoàn hảo. Nhưng người ta đã cố ý din giải là không sát
nhân"(a).
Srila Prabhupada đề cập đến khái niệm trong kinh Vệ Đà nhấn mạnh đến
tính cách vạn vật đồng nhất thể như sau: "Tất cả các sinh vật đều
là con cái của Thượng Đế, nhưng được khoác dưới những lớp áo
có hình thái khác nhau. Thượng Đế là đấng cha lành tối cao của muôn
loài. Một người cha thì luôn luôn thương yêu con cái một cách công
bằng. Giá có một người con nào đó tâu với cha rằng: Em con nó xấu xí
và ngu dốt quá. Xin phép cha cho con giết nó đi. Liệu người cha có
bằng lòng hay không? Do đó chúng ta có thể suy nghiệm rằng chắc chắn
Thượng Đế cũng sẽ không cho phép chúng ta giết hại sinh mạng của
những động vật khác vì chính chúng cũng đều là con cái của Thượng Đế
và là anh em của chúng ta"(a).
Trong Phật Giáo, ăn chay để giữ giới sát sanh là một điều rất phổ
cập trong dân chúng. Cho nên đối với người Việt Nam mình, hể nói đến
ăn chay thì mọi người đều nghĩ ngay tới Phật Giáo. Trong kinh Pháp
Cú, một quyển kinh chứa đựng toàn những lời giáo hóa vàng ngọc của
Đức Phật, nơi chương Hình Phạt, Ngài đã dạy: "Không nên giết hại
vì ai cũng muốn sống. Đồng thời cũng không nên gây tổn hại cho mọi
chúng sinh"(c). Dù chính mình không có trực tiếp cầm dao để sát
hại súc vật. Nhưng ăn thịt tức là gián tiếp cổ động người khác sát
sinh.
Trong Kinh Lăng Nghiêm, Đức Phật đã dạy : "Ông A Nan, nếu các
chúng sinh trong các thế giới ở sáu trần mà tâm chẳng sát thì không
bị sinh tử nối tiếp. Ông tu tam muội, gốc để vượt khỏi trần lao, nếu
sát tâm chẳng trừ thì không thể ra khỏi được. Dù có đa trí, thiền
định hiện tiền, nhưng chẳng đoạn nghiệp sát thì quyết sẽ lạc vào
thần đạo. Thượng phẩm làm đại lực, quỉ. Trung phẩm làm phi hành dạ
xoa, các quỉ xoái. Hạ phẩm làm địa hành la sát. Các quỉ thần ấy cũng
có đệ tử, và tự tôn mình là vô thượng đạo. Sau khi tôi diệt độ rồi,
nhiều quỉ thần hưng thịnh lên giả dạng làm Phật và nói : Ăn thịt
cũng chứng được Bồ Đề"(d).
"Ông A Nan, tôi khiến các tỳ kheo ăn ngũ tịnh nhục. Thịt đó
đều do tôi dùng thần lực hóa sanh, nên không có mạng căn. Vì rằng về
đất Bà La Môn, phần nhiều ẩm thấp, lại thêm nhiều đá, nên cây cỏ và
rau không mọc được. Tôi dùng thần lực đại bi giúp, nhân đức từ bi
lớn, giả nói là thịt. Ông được ăn các thứ đó". (d)
"Thế sau khi Như Lai diệt rồi, các Thích Tử lại ăn thịt chúng sanh
?"
"Các ông nên biết : Người ăn thịt đó, dù được tâm khai ngộ giống như
tam ma địa, cũng đều bị quả báo đại la sát. Sau khi chết,
quyết bị chìm dắm biển khổ sinh tử, chẳng phải là đệ tử của Phật.
Những người như vậy giết nhau, ăn nhau. Cái nợ ăn nhau vướng chưa
xong, làm sao người ấy thoát ra khỏi Tam giới. Ông dạy người đời tu
tam ma địa, phải đoạn nghiệp sát sinh. Ấy gọi là lời dạy rõ
ràng....Tôi nói như vậy là Phật nói. Nói không như vậy là ma nói".
(d)
Trong Pháp Bảo Đàn Kinh, bản dịch của đức Minh Trực Thiền Sư, có lời
dạy như sau:
"Người tu theo
chánh đạo
"Muôn vật chớ tổn thương
"Lỗi mình hay xét thấy
"Mới hiệp đạo chơn thường
"Muôn loài tự có đạo
"Chớ giết hại loài nào
"Lìa đao mà tìm đạo
"Chung thân đạo khó vào"(e)
Cũng theo kinh Pháp Bảo Đàn (Bản dịch của Luật sư Đinh Sĩ Trang),
khi ngài Lục Tổ Huệ Năng đến huyện Tào Khê thì bị bọn ác tâm tìm
kiếm để hãm hại. Ngài phải lánh sang vùng Tứ Hội để ty?nạn và ở
chung với một nhóm thợ săn trong vòng 15 năm. Trong thời gian này,
ngài cũng lợi dụng lúc thuận tiện để thuyết pháp cho bọn chúng nghe.
Tuy nhiên nhóm thợ săn đôi khi bắt ngài phải giữ miệng lưới. Mỗi khi
có thú lọt vào bẫy thì ngài thả ra hết. Mỗi lần nấu thức ăn thì ngài
bất đắc dĩ phải để chung rau vào thịt và sau đó chỉ vớt rau ra ăn mà
thôi (f).
Theo đạo Hòa Hảo, trong 10 Điều Tâm Huyết, Đức Phật Thày Tây An đã
khuyên người đời ăn chay để giữ hạnh lành như sau :
".....Điều thứ tư
Pháp môn quy luật
"Hạnh trường chay cố sức trau giồi
"Thịt là xương máu tanh hôi
"Cỏ cây rau cải cũng rồi bữa ăn
"Đức Từ Bi thường hằng thể hiện
"Không sát sanh lòng thiện ta còn
"Lạt chay tuy chẳng ngọt ngon
"Còn hơn thú vị cơm chan máu hồng....." (e)
Trong đạo Cao Đài, cơ bút của Đức Diêu Trì Kim Mẫu đã viết trong bài
Khuyến Nữ Hồi Tâm như sau:
".....Lắm phen rồi
mẹ khuyên chay lạt
"Gốc gì đâu sanh sát cấm
ngăn
"Cũng tình liên lạc đồng
bằng
"Thú cầm vẫn thể linh căn
Thượng Hoàng....
"Tuy chẳng nói thân hình
giống tạc
"Cũng biết ăn, biết khát,
biết đau
"Phơi da lóc thịt làm sao
"Con ơi sao uống huyết
đào đàn em....." (e)
PHỤ CHÚ :
a. Theo quyển The Higher Tastes do Giáo hội Hare Krishna Úc Châu ấn
tống
b. The New English Bible (Old Testament) do Oxford University Press
và Cambridge University Press xuất bản năm 1970
c. Lời Phật Dạy (Kinh Pháp Cú) do Luật sư Đinh Sĩ Trang dịch và ấn
tống năm 1998
d. Kinh Lăng Nghiêm do Giáo sư Tuệ Quang và Thượng Tọa Trí Độ dịch,
Nhóm Phật tử New South Wales ấn tống năm 2535 Phật Lịch.
e. Tài liệu do Cư sĩ Kỳ Vân cung cấp
Kinh Pháp Bảo Đàn do Luật sư Đinh Sĩ
Trang dịch và ấn tống năm 1999.
[^]
--- o0o ---
[Mục lục] [Bài kế]
--- o0o ---
[Mục
lục] [Giới
thiệu tổng quát] [Phần
01] [Phần
02]
[Phần
03] [Phần
04] [Tham
khảo]
Về danh mục