Ăn Chay và Sức Khỏe
Trần Anh Kiệt
Sydney, 1999
--- o0o---
PHẦN HAI
Phương Pháp Tự Nhiên Để Phòng
Ngừa Bệnh Tật
I.
KHÁI NIỆM TỔNG QUÁT
II.
ĂN CHAY VÀ PHÒNG BỆNH
III.
ĂN CHAY VÀ SỨC KHỎE CỦA PHỤ NỮ TRONG THỜI KỲ THAI NGHÉN
IV.
ĂN CHAY ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN THỂ CHẤT VÀ TRÍ THÔNG MINH CỦA TRẺ CON
V.
NGƯỜI ĂN CHAY SẼ CÓ LÀN DA TRẺ ĐẸP
VI.
NHỮNG NGƯỜI SỐNG KHỎE VÀ SỐNG LÂU TRÊN THẾ
GIỚI
VII.
ĂN CHAY VÀ THỂ LỰC
VIII.
NGƯỜI ĂN CHAY CÓ KHẢ NĂNG SỐNG TRƯỜNG THỌ
IX.
NHỜ ĂN CHAY VÀ NGỒI THIỀN, MỘT BỆNH NHÂN UNG
THƯ ĐÃ THOÁT CHẾT VÀ BÌNH PHỤC
X.
CƠ QUAN Y TẾ ANH QUỐC KHUYẾN CÁO: ĂN THỊT
NHIỀU SẼ BỊ BỆNH UNG THƯ
XI.
ĂN CHAY ĐẦY ĐỦ VÀ ĐÚNG CÁCH
XII.
TÂM SỰ CỦA MỘT NỮ MINH TINH ĐIỆN ẢNH ĂN CHAY
TRƯỜNG
Bài I
KHÁI NIỆM TỔNG QUÁT
Ngày nay khoa học đã tiến bộ rất nhiều trên mọi lãnh vực. Những cuộc
nghiên cứu gần đây của các khoa học gia đã chứng minh rằng ăn chay
giúp ích cho cơ thể của con người, làm cho có thêm sức khỏe, yêu đời
và sống lâu hơn. Để giải thích cặn kẽ hầu cho mọi người không còn
ngờ vực, họ đã cố gắng thí nghiệm xem cơ thể của con người mà Tạo
Hóa đã sinh ra thích hợp với sự ăn chay hay ăn mặn. Các cuộc thí
nghiệm đó đã dựa vào hai yếu tố sau đây: Thứ nhất là cấu trúc của cơ
thể con người theo giải phẫu học và thứ hai là tiến trình tiêu hóa
của thức ăn chay và thực phẩm bằng thịt trong cơ thể của con người
khác nhau như thế nào.
Cấu trúc của hệ
thống Tiêu hóa trong cơ thể của con người:
Trước hết người ta quan sát về tay và mồm của loài người. Răng của
loài người được cấu tạo môt cách đặc biệt giống như răng của các
loài động vật ăn thảo mộc, được Tạo Hóa sáng chế một cách khéo léo
để nghiền và nhai nát các thức ăn. Loài người và loài động vật ăn
thảo mộc không có răng cửa và răng nanh bén nhọn và đủ sức mạnh như
loài động vật ăn thịt, nhưng có răng hàm và xương quai hàm để nhai
theo cử động chiều ngang và qua lại. Ngược lại loài động vật ăn thịt
có răng nanh rất bén nhưng không có răng hàm và xương quai hàm. Do
đó khi ăn thịt, chúng chỉ xé và nuốt trọng luôn chớ không hề nhai.
Bàn tay của loài người không có móng vuốt sắc bén nên chỉ dùng để
lặt rau và hái trái, trong khi loài động vật ăn thịt có móng vuốt
rất bén và rất mạnh để vồ mồi và xé thịt.
Tiến trình của sự
tiêu hóa:
Trong bao tử của loài động vật ăn thịt, dịch tiêu hóa chứa đến 20
lần lượng hydrochloric acid nhiều hơn ở trong bao tử của loài động
vật ăn rau quả và loài người. Sự khác biệt chủ yếu trong bộ phận
tiêu hóa của loài động vật ăn rau quả và loài người với loài động
vật ăn thịt là đường ruột, nơi thức ăn được tiêu hóa để biến thành
dưỡng chất rồi được hấp thụ vào máu. Một miếng thức ăn bằng thịt
chẳng qua chỉ là một phần nhỏ trong xác chết của một con vật. Dĩ
nhiên sau khi màng ruột đã tinh lọc lấy chất dinh dưỡng rồi, chất
cặn bã còn lại sẽ tích lũy lâu trong cơ thể và sẽ sinh ra nhiều độc
tố, nguyên nhân và mầm móng gây ra các bệnh tật nguy hiểm. Để giúp
loài thú có thói quen ăn thịt ít bị các chứng bịnh hiểm nghèo, Tạo
Hóa đã ban đặc ân cho chúng cho có đường tiêu hóa chỉ dài gấp 3 lần
chiều dài của cơ thể. Trong khi đó đường tiêu hóa của loài người và
loài động vật ăn rau quả thì dài gấp 12 lần chiều dài của thân thể.
Vì thế chất cặn bã ở trong ruột của loài thú ăn thịt sẽ được bài
tiết ra ngoài nhanh chóng hơn. Trong khi đó chúng sẽ ở lại trong
ruột của loài người và loài động vật ăn thảo mộc lâu hơn. Chính vì
thế mà chúng có cơ hội sanh ra độc tố nhiều hơn. Thận phải làm việc
vô cùng vất vả nhưng vẫn không đủ khả năng để thanh lọc hết các độc
tố trong máu. Đối với người trẻ tuổi thận còn khỏe nên chưa có hề
hấn gì. Tuy nhiên đối với người trọng tuổi thận đã suy yếu, nên d
sinh ra các chứng bệnh hiểm nghèo hơn.
Sự Liên Quan giữa Ăn
Thịt và Bệnh Tim Mạch:
Sự bất lực của con người là không thể tiêu thụ hết các chất béo
thặng dư trong cơ thể. Ngược lại loài động vật ăn thịt bao giờ cũng
tiêu hóa hết các chất béo và chất cholesterol một cách tự nhiên mà
không hề sinh ra những phản ứng bất lợi. Người ta đã từng thí nghiệm
với loài chó bằng cách cho vào thức ăn hàng ngày của nó 225g mỡ liên
tiếp trong vòng 2 năm liền. Nhưng thành phần chất cholesterol trong
máu của nó vẫn không có gì thay đổi.
Ngược lại loài người và loài động vật ăn thảo mộc có khả năng rất
hạn hẹp trong việc đối phó với sự thặng dư các chất béo và chất
cholesterol trong cơ thể. Sau nhiều năm chất cholesterol thặng dư đó
sẽ lắng đọng và bám chặt vào thành các huyết quản nên d sinh ra
chứng cứng dộng mạch (arteriosclerosis). Lưu lượng máu trở về tim bị
bóp nghẽn, lâu ngày sẽ sinh ra bệnh tim hoặc chứng nghẽn động mạch
có thể đưa đến tình trạng tử vong.
Đầu năm 1991, tạp chí Y Khoa Hoa Kỳ báo cáo rằng từ 90 tới 97 phần
trăm các trường hợp bệnh tim mạch đã gây ra phân nửa số lượng người
chết vì bệnh tật tại Hiệp Chủng Quốc có thể ngăn ngừa được bằng cách
ăn chay trường. Sự khám phá này đã dược Cơ Quan Nghiên Cứu về Bệnh
Tim tại Hoa Kỳ tán đồng mạnh mẽ. Ngoài ra Học Viện Khoa Học Quốc Gia
Hoa Kỳ (National Academy of Sciences) đã báo động một lần nữa rằng
sự tăng cao lượng cholesterol trong máu đã được tìm thấy trong hầu
hết dân chúng Mỹ. Nếu không tránh hoặc tiết chế việc ăn thịt thì
nguy cơ chết bất đắc kỳ tử bởi bệnh tim mạch sẽ càng lúc càng gia
tăng.
Tại hội nghị quốc tế lần thứ ba về ăn chay và dinh dưỡng hồi năm
1997, các khoa học gia đã trình bày rất nhiều cuộc khảo cứu liên
quan đến việc so sánh tỷ số các bệnh nhân chết vì bệnh tim mạch giữa
những người ăn thịt và những người ăn chay trường. Bác sĩ Margaret
Thorogood thuộc viện Đại học Vệ Sinh và Y Khoa Vùng Nhiệt Đới của
Luân Đôn báo cáo về cuộc nghiên cứu đó như sau : Bắt đầu từ năm
1980, người ta khảo sát bằng cách theo dõi liên tục sức khỏe của 600
người ăn chay trường và 500 người ăn mặn trong vòng 14 năm. Kết quả
ghi nhận trong khoảng thời gian đó chỉ riêng số người ăn chay chết
vì bệnh tim mạch có tỷ lệ 38% thấp hơn những người ăn thịt đã chết
vì bệnh này.
Giáo sư Gary Fraser thuộc trường Đại học Loma Linda đã theo dõi để
nghiên cứu về sức khỏe của 34,192 tín đồ của giáo phái ăn chay
trường Seventh Day Adventist Church ở California trong vòng 13 năm
và đã ghi nhận rằng tất cả những người ăn chay trường đều có sức
khỏe và ít khi bệnh hoạn hơn người ăn thịt.
Sự Liên Quan Giữa Ăn
thịt và Bệnh Ung Thư:
Gần đây các chuyên gia y tế nghiên cứu đã có nhiều bằng chứng chính
xác chứng minh sự liên hệ giữa ăn thịt với chứng bệnh ung thư ruột
già. Lý do gây bệnh là vì trong thịt chứa nhiều chất béo nhưng lại
ít chất xơ, nên d gây ra chứng táo bón. Trải qua lâu ngày các độc tố
trong thịt sẽ làm cho ruột bị ung thối. Tiến sĩ Sharon Flaming thuộc
Phân Khoa Dinh Dưỡng của viện Đại học Berkeley ở California đã viết
rằng: "Ăn chay trường sẽ ngăn ngừa và làm giảm thiểu sự nguy hiểm
của bịnh ung thư ruột già và ruột cùng". Ngoài ra các nghiên cứu gần
đây cũng khám phá ra rằng ăn nhiều thịt cũng là mầm móng phát sinh
nhiều chứng bệnh ung thư khác đến mức phải báo động. Trong một bài
tường trình của Viện Khoa Học Quốc Gia Hoa Kỳ vào năm 1983, các
chuyên gia y tế đã ân cần nhắc nhở dân chúng: "Chúng ta có thể ngăn
ngừa các chứng ung thư thông thường bằng cách tiết chế thịt. Nên ăn
nhiều rau quả và ngũ cốc". Ông Rollo Russell cũng đã phát biểu: "Tôi
đã tìm thấy trong 25 quốc gia tiêu thụ thịt nhiều nhất trên thế giới
có tới 19 quốc gia có tỷ số dân chúng mắc bịnh ung thư cao và chỉ có
một quốc gia ở hàng tỷ số thấp. Ngược lại trong 35 quốc gia mà dân
chúng không ăn thịt hoặc ăn rất ít thịt không một quốc gia nào có tỷ
số cao về dân chúng mắc bệnh ung thư cả".
Những hóa chất nguy
hiểm trong thịt:
Gần đây các khoa học gia đã tìm thấy rất nhiều chất hóa học độc hại
tiềm ẩn trong thịt các loài thú mà khách hàng tiêu thụ không hề hay
biết. Trong quyển Poisons in Your Body (Chất độc trong cơ thể của
bạn), Gary và Steven Null đã nói về những mánh khóe của một số cơ
xưởng sản xuất thực phẩm: "Người ta đã dùng nhiều loại thuốc kích
thích tố, thuốc an thần, thuốc trụ sinh và hơn 2700 loại dược chất
khác dể cho súc vật tăng trưởng một cách nhanh chóng bất thường và
làm cho chúng béo mập nặng cân cũng như không bị chết chóc vì các
loại bệnh tật. Họ dùng thuốc để nuôi con vật ngay trong khi chúng
còn trong bụng mẹ và cũng dùng thuốc để ướp cho thịt chịu đựng được
lâu ngày sau khi chúng bị sát sanh. Hiện nay chưa có quy luật nào
bắt buộc các cơ sở chăn nuôi và các kỹ nghệ gia sản xuất thịt phải
ghi rõ loại thuốc nào mà họ đã dùng qua trong thời gian chăn nuôi để
người tiêu thụ có sự lựa chọn chín chắn.
Tại Úc Châu, người ta đã dùng chất kích thích tố Diethylstilbestrol
trong kỹ nghệ chăn nuôi. Đây là một chất độc có khả năng gây ra bệnh
ung thư nên đã từng bị khách hàng ngoại quốc từ chối và hủy bỏ hợp
dồng thương mại. Nhưng còn bao nhiêu những chất độc hóa học khác
được dùng trong kỹ nghệ chăn nuôi mà hiện thời vẫn chưa bị khám phá
? Nhờ những chất hóa học này, hàng năm các kỹ nghệ gia sản xuất thịt
đã thâu vô một số lợi tức khổng lồ, song cũng đã gây ra biết bao
chết chóc vì bệnh tật mà những khách hàng ngây thơ đã vô tình phải
gánh chịu.
Năm 1972, Bộ Nông Nghiệp Hoa Kỳ đã khám phá ra chất độc thạch tín
(arsenic) đã được sử dụng trong kỹ nghệ chăn nuôi gà nên đã khuyến
cáo các nghiệp chủ chỉ được phép sử dụng trong một mức độ an toàn mà
thôi.
Chất Sodium Nitrate và Sodium Nitrite được dùng để giữ cho thịt khỏi
bị hư thúi trong kỹ nghệ thực phẩm kể cả các sản phẩm của thịt đã
được chế biến và cá đều là những chất có hại cho sức khỏe. Những
chất hóa học này làm cho thịt luôn luôn trông có vẻ tươi tốt vì nó
đã được nhuộm thấm vào máu và thớ thịt. Nếu không có các chất hóa
học này, thịt để lâu sẽ đổi thành màu xám và có mùi hôi nên sẽ bị
khách hàng từ chối. Một điều ít ai ngờ đến là chính những chất hóa
học này đã làm cho chúng ta khó phân biệt được thịt nào đã để lâu
ngày và thịt nào hãy còn mới. Vì vậy, cùng với chất độc hóa học, độc
tố phát xuất ra từ thịt để lâu ngày sẽ cộng hưởng với nhau mà tha hồ
tàn phá sức khỏe của chúng ta, đặc biệt nguy hiểm đối với trẻ thơ vì
tạng phủ của chúng vẫn còn non yếu. Vì thế Cơ Quan Lương Nông Quốc
Tế (FAO) đã khuyến cáo các kỹ nghệ gia chế biến thức ăn cho trẻ con
không được dùng hai chất hóa học này để ướp vào thực phẩm. Ông
AJ.Lehman nói: "Chỉ một số lượng thật nhỏ của chất nitrate cho vào
thực phẩm được coi là trong mức độ an toàn cũng đã là một độc chất
nguy hiểm huống hồ là với một số lượng lớn". Nơi chăn nuôi gia súc
thường khi bẩn thỉu và chật hẹp nên d sinh ra các bịnh dịch. Để ngăn
ngừa hoặc để chữa trị các bệnh truyền nhim lan tràn làm thiệt hại
tài sản, các nghiệp chủ không ngần ngại sử dụng một số lượng trụ
sinh lớn lao. Họ không đếm xỉa gì đến việc sử dụng thuốc trụ sinh
một cách bừa bãi trên cơ thể của loài vật đã vô tình gây ra các chất
kháng thể và những vi khuẩn có sức chống cự lại với công hiệu của
thuốc trụ sinh. Sau dó những kháng thể độc hại này sẽ tự nhiên được
truyền vào cơ thể của con người bằng đường ăn uống. Cơ quan kiểm
soát thực phẩm của Hoa Kỳ ước lượng, nhờ các thuốc trụ sinh như
Penicillin và tetracyclin mà nền kỹ nghệ thực phẩm sản xuất thịt đã
được cứu vớt và nâng tổng lợi tức thu nhập hàng năm lên đến 1 tỷ 900
triệu đô la. Quyền lợi và lòng tham đã khiến các nghiệp chủ làm ngơ
trước những ảnh hưởng tai hại tới sức khoẻ mà những khách hàng tiêu
thụ là những kẻ vô tội phải hoàn toàn gánh chịu một cách oan uổng.
Những mầm bệnh sẵn
có trong thịt:
Ngoài những hóa chất độc hại được người ta cho vào thịt trong thời
kỳ chăn nuôi cho thú được mau lớn hoặc sau khi đã sát sinh để giữ
cho thịt được lâu dài, thịt cũng còn chứa những mầm móng bệnh tật
khác. Các nhà kiểm thực đã cố gắng thanh lọc các mầm bệnh, nhưng vì
áp lực từ phía các kỹ nghệ gia giàu có và thế lực hoặc không đủ khả
năng để thanh tra kiểm soát toàn bộ nên một số lượng lớn thịt đã lọt
khỏi lưới kiểm tra và đã đến tay người tiêu thụ một cách d dàng.
Trong một bản báo cáo của cơ quan kiểm dịch Hoa Kỳ hồi năm 1972, xác
nhận rằng có nhiều xác thú vật đã thông qua được các mạng lưới kiểm
soát sau khi những bộ phận bị nhim bịnh đã được cắt bỏ hoặc tẩy
sạch. Điển hình gần 100 con bò bị bệnh ung thư mắt và 3.596.302
trường hợp súc vật bị bệnh bướu gan đều đã qua mắt được sự kiểm
soát. Cơ quan kiểm dịch cũng còn cho phép thông qua những trường hợp
gà bị bệnh viêm phổi được phép đem bán ngoài thị trường sau khi đã
rửa sạch bộ phận bị nhim bệnh bằng một loại máy hút đặc biệt. Song
phương pháp này cũng không thể nào thanh lọc được hết mầm bệnh đã
nhim vào thịt. Sự kiện tương tợ này hiện nay cũng đang xảy ra trong
ngành kỹ nghệ sản xuất thịt tại Úc.
Sự dinh dưỡng không
cần có thịt:
Một số thành kiến cho rằng thức ăn chay sẽ không thể nào bù đắp vào
chỗ thiếu sót chất prtotein cần thiết trong cơ thể của con người, vì
chất protein này chỉ có nhiều trong thịt gia súc mà thôi. Một số
người khác thì cho rằng chất protein thực vật không có tính cách
tương đồng để thay thế chất protein động vật. Vậy thì loài trâu, bò,
ngựa và voi...đâu có ăn thịt mà vẫn có đầy đủ chất protein và luôn
khỏe mạnh bình thường. Thực ra chất Protein gồm có 22 amino acids.
Trong số đó chỉ có 8 loại là cần thiết cho nhu cầu của cơ thể con
người và đều đã hàm chứa đầy đủ trong các loại ngũ cốc và rau đậu.
Đôi khi số lượng còn nhiều hơn các thực phẩm bằng thịt đã biến chế
nữa. Một cuộc nghiên cứu của tiến sĩ Fred Stare thuộc viện Đại học
Harvard và tiến sĩ Marvyn Hardinge của Đại học Loma Linda bằng cách
so sánh giữa hai nhóm người ăn chay và ăn thịt. Kết quả cho thấy
rằng nếu được ăn uống đầy đủ thì chất lượng Amino acids trong cơ thể
của họ đều gấp đôi nhu cầu cần thiết.
Trong khẩu phần của người Mỹ, chất protein chứa đến 20 phần trăm,
gấp đôi số lượng cần thiết mà Tổ Chức Y Tế Quốc Tế đã ấn định. Mặc
dầu sự thiếu kém chất Protein trong cơ thể sẽ làm cho con người bị
yếu đuối. Nhưng nếu thặng dư, cơ thể sẽ không tiêu thụ hết. Nó sẽ
biến dạng thành chất Nitrogen phế thãi và sẽ gây ra gánh nặng cho sự
hoạt động của thận. Chất carbohydrate là nguồn cung cấp năng lượng
cho cơ thể. Nhưng nếu chất protein thặng dư cũng sẽ làm giảm thiểu
sự cung cấp năng lượng này. Trong một loạt các cuộc thí nghiệm được
thực hiện bởi tiến sĩ Irving Fisher của viện Đại học Yale (Hoa Kỳ),
những người ăn chay trường có khả năng làm việc gấp đôi những người
ăn thịt. Ông thử giảm thiểu 20 phần trăm chất protein động vật trong
khẩu phần của những người ăn mặn thì thấy hiệu năng làm việc của họ
gia tăng đến 33 phần trăm. Nhiều cuộc thí nghiệm khác đã chứng minh
sự ăn chay đúng cách và đầy đủ sẽ cung cấp nhiều chất dinh dưỡng hơn
ăn mặn. Tiến sĩ J. Iotekyo V. Kipani của viện Đại học Brussel (Bỉ
Quốc) đã chứng minh người ăn chay có sức khỏe dẻo dai hơn người ăn
thịt gấp đôi hay ba lần. Trong trường hợp bị mệt lã thì người ăn
chay sẽ hồi phục sức khỏe nhanh chóng hơn người ăn thịt đến 1/5 thời
lượng cần thiết.
Qua những dẫn chứng trên đây, chúng ta thấy rằng sự ăn chay không
những không làm cho cơ thể của con người bị yếu đuối và suy giảm
năng suất làm việc mà còn là một phương pháp tự nhiên để thanh lọc
máu huyết gây ra bởi những độc tố trong thịt động vật, tăng cường
tính min nhim của cơ thể và gia tăng hiệu năng phòng chống bệnh tật.
Ý thức những điều hữu ích đó, người Phật tử chúng ta sẽ không còn
ngần ngại khi vừa ăn chay trì giới và vừa đi làm hàng ngày. Tránh
khỏi phạm giới sát sinh, thân tâm ta sẽ thường an lạc và thanh thản.
[^]
Bài II
ĂN CHAY VÀ PHÒNG BỆNH
Ăn chay là cách sống đạm bạc của những bậc tu hành nhằm giữ gìn cho
tâm hồn được an nhiên tự tại vì không dính líu vào chuyện sát sinh.
Song ngày nay, các khoa học gia đã khảo cứu và đã đi đến một kết
luận thống nhất rằng người Mỹ và các nước Tây Phương sẽ không thể
nào giảm thiểu được tỷ số dân chúng trong nước mắc bệnh ung thư,
bệnh tim và một số bệnh nan y khác nếu họ không thay đổi thói quen
ăn uống bằng cách từ bỏ các thức ăn có nguồn gốc động vật (ăn mặn)
chuyển sang các thức ăn có nguồn gốc thực vật (ăn chay).
Ông T.Colin Campbell, nhà sinh hóa học, hiện là giám đốc cơ quan
nghiên cứu về Sức Khỏe, Dinh Dưỡng và Môi Sinh Cornell-China-Oxford
đã tiết lộ rằng: "Để ngăn ngừa các bệnh nan y hiện nay đang lan tràn
trên thế giới, chúng ta phải can đảm chấp nhận thay đổi việc ăn uống
theo sự chỉ dẫn của các khoa học gia. Chỉ cần tiêu thụ một lượng
thịt nhỏ bé nào đó thôi cũng liên quan mật thiết tới nguyên nhân gây
ra các bệnh ung thư, bệnh tim mạch..., điển hình là hiện trạng tại
các nước Tây Phương và Mỹ Quốc". Ông nhấn mạnh: "Ăn ít chất béo theo
như sự hướng dẫn của Cơ Quan Sức Khỏe và Dinh Dưỡng của Hoa Kỳ cũng
chưa chắc có thể phòng ngừa được các bệnh nan y đó. Điều cần yếu là
chúng ta phải ăn chay với những thức ăn thanh đạm nhưng không kém
phần bổ dưỡng".
Hiện nay ông Campbell đang cùng một số khoa học gia khác thực hiện
chương trình hợp tác nghiên cứu Cornell giữa Học viện Y Khoa Phòng
Ngừa Trung Quốc và viện Đại học Oxford Hoa Kỳ. Nhóm khoa học gia này
còn nhận được sự bảo trợ 200 ngàn Mỹ kim của Học Viện Nghiên Cứu
Bệnh Ung Thư Quốc Gia Hoa Kỳ nhằm khảo sát một cách rộng lớn về thói
quen ăn uống, tập tục sinh hoạt và các bệnh tật thường xảy ra tại
khắp lục địa Trung Quốc tận những vùng xa xôi hẻo lánh. Họ đã quan
sát và phỏng vấn trên 7 ngàn gia đình người Trung Hoa và đã thu thập
rất nhiều kiến thức mới mẻ cho các chuyên gia y tế trên thế giới về
nguyên nhân của nhiều loại bệnh tật khác nhau. Từ đó họ nghiên cứu
ra phương pháp phòng chống bằng cách thay đổi thói quen ăn uống bằng
rau quả và ngũ cốc thích hợp hơn là bằng y dược thuần túy.
Người Trung Hoa tại các miền thôn dã hàng ngày ăn nhiều đồ ăn thảo
mộc gần như chay lạt. Do dó trong khẩu phần của họ chứa rất ít chất
béo nhưng lại nhiều chất xơ khác với khẩu phần của người Mỹ và người
Tây Phương ăn rất nhiều thịt. Vì thặng dư chất béo động vật nên
người Mỹ và người Tây Phương thường hay bị phì mập. Nguyên nhân d
đưa đến bệnh ung thư, bệnh tim mạch...Ngoài ra các khoa học gia còn
nghiên cứu xem khẩu phần tiêu chuẩn do Cơ Quan Dinh Dưỡng và Sức
Khỏe Hoa Kỳ ấn định cho dân chúng Mỹ có đạt được công hiệu trong vấn
đề phòng chống bệnh tật không. Cuộc khảo cứu cho thấy mặc dầu giảm
thiểu thịt động vật rất nhiều, nhưng dân chúng Hoa Kỳ vẫn còn bị mắc
chứng suy thoái tế bào ( nguyên nhân gây bệnh ung thư) cao hơn ở
Trung Quốc. Không những thế, ngay tại lục địa Trung Hoa cũng vậy,
dân chúng trong thành thị vẫn có tỷ lệ mắc bệnh ung thư cao hơn dân
chúng sống trong vùng nông thôn. Vì dân thành thị ăn nhiều thịt động
vật hơn dân ở nông thôn.
Hiện nay người Mỹ tiêu thụ hàng ngày từ 35 đến 38 phần trăm calories
năng luợng cung cấp bởi thịt động vật. Trong khi tiêu chuẩn ăn uống
được chính thức ấn định bởi Cơ Quan Sức Khỏe và Dinh Dưỡng chỉ có 30
phần trăm mà thôi. Ngược lại tại Trung Quốc, nguồn năng lượng cung
cấp bởi thịt động vật cho cơ thể của con người hàng ngày là 15 phần
trăm hoặc ít hơn. Chính nhờ phương pháp này mà người Trung hoa đã
ngừa được từ 80 đến 90 phần trăm các trường hợp bị bệnh ung thư,
bệnh tim và bịnh tiểu đường xảy ra trong dân chúng trước tuổi 65.
Đây là kết quả nghiên cứu của ông Campbell nhằm tái xác nhận sự
chính xác của tập tài liệu "Phòng bệnh nan y bằng phương pháp ăn
uống" do Học Viện Ung thư Quốc Gia Hoa Kỳ phát hành vào năm 1982.
Các chuyên gia y tế thường bảo các chứng bệnh nan y thường xảy ra
tại Hoa Kỳ và các nước Tây Phương là "bệnh Tây Phương" (Western
Diseases). Ý thức phương pháp phòng bệnh là một việc, nhưng có đem
ra áp dụng hay không lại là việc khác. Bà Banoo Parpia, một trong
những thành viên cao cấp của phái đoàn đã phát biểu: "Vấn đề khó
khăn nhất hiện nay là người Mỹ và người Tây phương khó mà thay đổi
được thói quen ăn uống bằng cách dùng rau trái để thay thế thịt động
vật. Chúng tôi khẳng định rằng phương pháp này chẳng những phòng
chống được bệnh tật mà còn tiết kiệm được khoảng 120 tỷ đô la hàng
năm trong ngân sách y tế của chính phủ". Đồng thời ông Campbell bảo
nó cũng giảm thiểu được sự ảnh hưởng tai hại vào môi sinh vì bớt
được sự lạm dụng tài nguyên thiên nhiên vào việc chăn nuôi gia súc.
Trong hai năm qua, ông Campbell đã cùng với các đồng nghiệp của ông
cho phát hành trên 30 ấn bản về công trình nghiên cứu mà họ đã thực
hiện được. Gần đây ông đã thu gọn những nghiên cứu đó vào một quyển
sách mới vừa xuất bản với nhan đề Western Diseases: Their Dietary
Prevention and Reversibility. Bà Parpia bảo một trong những khám phá
nổi bật nhất của phái đoàn nghiên cứu trong dân chúng Trung Hoa về
các bệnh nan y đáng ghi nhận như sau:
Các thiếu nữ ăn thịt hàng ngày từ thuở nhỏ sẽ có kinh sớm hơn các
thiếu nữ ăn chay. Cho nên kích thích tố nữ sản sinh ra nhiều trong
suốt cuộc đời thanh xuân của họ. Do đó khi tới tuổi trung niên trở
lên, họ là những người d mắc bệnh ung thư nhũ hoa nhất. Nói tóm lại,
giảm thiểu thịt động vật, ăn nhiều rau quả và ngũ cốc hoặc ăn chay
trường sẽ giảm thiểu được chất hormone nên cũng sẽ có ít nguy cơ bị
bệnh ung thư nhũ hoa hơn.
Những phụ nữ ăn nhiều thịt, chất calcium trong cơ thể sẽ bị bài tiết
ra ngoài quá nhiều bằng đường tiểu, gây ra tình trạng thiếu quân
bình lượng calcium nên có nguy cơ do mắc bệnh xương xốp hơn, nhất là
đối với những phụ nữ trọng tuổi.
Nguyên nhân chính gây ra bịnh này là vì nhim vi khuẩn viêm gan B
trầm trọng. Nhưng tử suất của bệnh này cao liên hệ tới sự gia tăng
chất cholesterol trong máu, nguyên nhân vì ăn nhiều thịt và mỡ động
vật.
Người Trung Hoa ăn nhiều thịt có tỷ lệ mắc chứng bệnh này gấp 5 đến
9 lần nhiều hơn những người ăn ít hoặc không ăn thịt.
Ngoài các bệnh ung thư vừ kể, ăn thịt còn có nguy cơ mắc phải nhiều
loại bệnh ung thư khác, kể cả bệnh ung thư ruột già và bao tử. Ông
Campbell kết luận: "Sau nhiều cuộc khảo cứu, chúng tôi khẳng định
rằng sự ăn uống có phương pháp là động lực chủ yếu kiểm soát được sự
phát sinh của nhiều loại bệnh tật. Tuy nhiên sự chấp vá khẩu phần
bằng cách giảm thiểu lượng mỡ và thịt động vật chỉ hữu hiệu đối với
một vài trường hợp nào đó. Nó không phải là phương cách tốt nhất để
có thể khống chế được nhiều bệnh nan y. Chỉ có cách ăn chay trường
là xét ra hữu hiệu mà thôi.
Gần đây cơ quan y tế ở Ba Lan cho biết, trong thập niên 1990, tử
suất của những người chết vì bệnh tim mạch đã giảm thiểu rất nhiều
vì dân chúng trong nước đã thay đổi thói quen ăn uống bằng cách sử
dụng dầu ăn thảo mộc để thay thế cho dầu mỡ dộng vật mà họ đã dùng
từ trước tới nay.
Tại Phần Lan,các khoa học gia bảo, đối với các bệnh nhân đang mắc
phải chứng bệnh cao mỡ, chỉ cần giảm thiểu lượng cholesterol trong
máu của họ xuống 10 phần trăm thì tử suất của những bệnh nhân chết
vì bệnh tim mạch sẽ giảm thiểu được 20 phần trăm.
Cách nay 25 năm, Phần Lan là quốc gia đứng hàng đầu trên thế giới có
tỷ số dân chúng đã chết vì bệnh tim mạch. Nhưng nhờ nhân dân trong
nước đã ý thức, cải thiện thói quen ăn uống bằng cách tiết giảm rất
nhiều thịt động vật, đồng thời phong trào ăn chay và dưỡng sinh được
khuyến khích rộng rãi, nên Phần Lan ngày nay đã có một bộ mặt tốt
đẹp về phương diện y khoa tại các nước trong vùng Bắc Âu. Phong trào
ăn chay và dưỡng sinh cũng còn được phổ biến sang các nước văn minh
khác như Anh Quốc và một số quốc gia có tỷ số dân chúng mắc phải các
chứng bệnh nan y cao nhất trên thế giới.
Tóm lại ăn chay ngày nay không còn là thói quen ăn uống đạm bạc của
những bậc tu hành nữa. Nó đã trở thành một phong trào sống khỏe và
đang được khuyến khích mạnh mẽ tại khắp mọi nơi.
[^]
Bài III
ĂN CHAY VÀ SỨC KHỎE CỦA PHỤ
NỮ
TRONG THỜI KỲ THAI NGHÉN
Phần đông những phụ nữ thường hay thắc mắc, mình ăn chay trường vốn
đã không có thịt cá rồi, bây giờ lại mang thai thì có ảnh hưởng đến
sức khỏe của thai nhi hay không. Nó có hại gì cho đứa bé sau này hay
không ? Dĩ nhiên qua sự cố vấn của các chuyên gia y tế, họ sẽ e ngại
mà phải trở lại ăn thịt như xưa để bồi bổ sức khỏe. Tuy nhiên bà
Joann Farb, nguyên là chủ tịch Hội Những người Ăn Chay tại thành phố
Kansas (Hoa Kỳ) cũng đã từng có thắc mắc và nay đã tự giải tỏa những
thắc mắc đó qua một bài viết như sau:
Tôi đã ăn chay trường từ hơn hai năm nay khi mới bắt đầu có thai đứa
con gái đầu lòng. Cũng như hầu hết những người đàn bà khác lần đầu
tiên sắp được làm mẹ, tôi băn khoăn nên tìm kinh nghiệm bằng cách
đọc bất cứ tài liệu liên hệ nào mà tôi vớ được từ thư viện hay từ
hội Phụ Nữ.
Tôi lần lượt đọc qua rất nhiều sách vở và tôi chú trọng đặc biệt tới
những chương có đề cập tới vấn đề dưỡng sinh và ăn uống. Từ đó tôi
rút ra được một gỉải đáp rõ ràng: Ăn chay không có hại gì cho phụ nữ
trong thời kỳ thai nghén cả. Nhưng cần phải bù dắp vào khẩu phần
hàng ngày bằng trứng, sữa và các phó sản của sữa. Song tôi đã từng
phục vụ nhiều năm trong trại chăn nuôi gia súc và đã từng chứng kiến
cách thức người ta nuôi súc vật một cách phản tự nhiên như cho chúng
ăn thúc bằng thuốc, chích vào thịt hoặc xịt vào da chất kích thích
tố tăng trưởng để cho con vật được mau lớn. Nên tôi khẳng định rằng
sữa cũng chẳng khác gì thịt của súc vật đã được chăn nuôi một cách
không bình thường như vậy. Dĩ nhiên sữa lấy từ nông trại cũng chẳng
phải là một thứ dinh dưỡng gì khác hơn thịt động vật. Tôi không muốn
cho con tôi sau này sẽ chịu hậu quả chẳng lành, nếu có, do việc dùng
sữa súc vật mà ra. Tôi biết có rất nhiều tác giả bảo rằng thức ăn
này bổ và thức ăn kia không bổ bằng cách dựa vào một số tài liệu rất
giới hạn. Nên tôi cương quyết tìm tòi một giải đáp thỏa đáng cho
chính sự nghi vấn của mình.
Mặc dầu tôi đã được các chuyên gia hướng dẫn một cách đầy đủ về sự
ích lợi của việc ăn chay. Nhưng tôi không biết nhiều về sự tương
quan giữa vấn đề ăn chay và sức khỏe của phụ nữ trong thời kỳ thai
nghén. Nhiều bạn bè kể cả một người bạn làm nữ hộ sinh cũng là hội
viên Hội Những Người Ăn Chay như tôi lại khuyến cáo tôi một cách
ngược đời là nên ăn thêm thịt cá để bồi bổ. Vì vậy tôi phải tự tìm
cho mình một sự xác tín vững chắc.
Công việc đầu tiên là tôi đến thư viện y khoa để tra cứu các sách
liên quan đến vấn đề ăn chay và thai nghén. Lần lượt tôi đã thu thập
được một giải đáp vô cùng thỏa đáng. Ăn chay không những an toàn cho
phụ nữ trong thời kỳ thai nghén mà còn giúp họ tránh được sự nguy
hiểm của các chứng bệnh huyết độc (Toxeamia) và bệnh tiểu đường của
những người đàn bà có thai (Gestational Diabetes). Các kinh nghiệm
này có lẽ phần đông các chuyên gia y tế, nữ hộ sinh và chuyên gia
dinh dưỡng ít khi để ý tới. Nên tôi muốn chia xẻ với qúy vị qua
những câu hỏi và giải đáp mà tôi đã từng thắc mắc trước đây.
Câu trả lời là có. Calcium được hàm chứa trong rau xanh, hạt và ngũ
cốc. Nghĩa là nó có rất dồi dào trong các thức ăn có nguồn gốc thực
vật. Mặc dầu chúng ta thường được khuyến cáo nên uống chất calcium
thêm để bồi bổ. Nhưng thực ra những người trọng tuổi mắc phải bệnh
xương xốp không phải vì lý do không ăn đầy đủ chất calcium mà vì họ
ăn quá nhiều chất Protein hàm chứa trong thịt động vật. Khi Protein
được hấp thụ quá nhiều sẽ phá vỡ trữ lượng calcium trong cơ thể và
làm giảm độ pH trong máu. Cơ thể của chúng ta phải lấy Calcium dự
trữ từ trong xương đem vào máu để quân bình lượng pH trở lại nên
xương bị giòn và xốp. Lượng calcium bị hủy hoại sẽ được bài tiết ra
ngoài bằng đường tiểu. Nhiều cuộc thí nghiệm cho thấy lượng Protein
mà con người ăn vào sẽ giảm thiểu lượng calcium trong cơ thể nhiều
hơn lượng calcium mà chúng ta hấp thụ vào bằng đường ăn uống. Dân
tộc Bantu ở Phi Châu chỉ ăn toàn rau quả. Lượng Calcium mà họ hấp
thụ vào chỉ bằng 1/3 lượng calcium tiêu chuẩn được ấn định bởi cơ
quan dinh dưỡng Hoa Kỳ. Tuy nhiên không hề nghe nói dân chúng Bantu
bị bệnh xương xốp. Ngược lại dân Eskimo ăn rất nhiều thịt động vật
hàng ngày vì đất đai vùng họ ở rất lạnh không thể trồng trọt được
nên chỉ sống nhờ vào sự săn bắn. Họ là những người hấp thụ nhiều
chất Protein động vật nhất trên thế giới và lượng calcium mà họ tiếp
thu vào cơ thể bằng đường ăn uống cũng gấp đôi tiêu chuẩn ấn định,
nhưng họ lại là sắc dân bị bệnh xương xốp có tỷ lệ cao nhất thế
giới. - Á Châu rất ít người bị bệnh xương xớp vì họ tiêu thụ rất ít
thịt động vật, sữa và các sản phẩm của sữa. Trong khẩu phần hàng
ngày của người Á Châu, rau cải là chính yếu. Theo thống kê của Cơ
Quan Nghiên Cứu Bệnh Xương Xốp, so với Á Châu, Hoa Kỳ hiện nay là
quốc gia đang bị hăm dọa nghiêm trọng về tỷ số dân chúng mắc phải
chứng bệnh này.
Nếu chúng ta ăn nhiều loại rau quả và ngũ cốc khác nhau để có đầy đủ
calories cho cơ thể thì đương nhiên đã có đủ chất protein rồi. Thực
ra sự thiếu chất protein trong cơ thể của con người rất hiếm thấy
xảy ra. Trong các quốc gia nghèo đói, dân chúng thường ăn uống không
đầy đủ calories chớ không phải thiếu Protein. Khi chúng ta còn ở
thời kỳ trẻ con, cơ thể tăng trưởng rất nhanh chóng. Tuy nhiên khi
cơ thể đứa trẻ có đầy đủ protein rồi thì không cần phải hấp thụ thêm
vào nữa. Phân tích sữa của một người mẹ cho con bú, chúng ta thấy
lượng calories bắt nguồn từ protein chỉ chiếm 5% tỷ số calories xuất
xứ từ các hợp chất khác ở trong sữa. Như vậy thành phần protein
trong sữa mẹ có thể coi như là thành phần tiêu chuẩn và an toàn cho
cơ thể. Các cuộc khảo cứu cho thấy lượng calories cung cấp bởi
protein trong ngũ cốc chiếm từ 8 tới 20 phần trăm; rau cải từ 10%
tới 50%. Phần đông thức ăn nào cũng có protein ngoại trừ đường, chất
béo và rượu. Kết quả của các cuộc nghiên cứu cũng còn cho biết,
thặng dư chất protein trong cơ thể sẽ gây ra nhiều loại bệnh tật hơn
là thiếu kém.
Điều đáng buồn là ngày nay chất độc của thuốc diệt côn trùng được
tìm thấy ở khắp nơi, ngay cả trong các sản phẩm của thịt. Tuy nhiên
khi chúng ta ăn rau cải thì ít bị ảnh hưởng bỏi chất độc DDT, Dioxin
và Chlorane... Bởi vì thú vật cũng như loài người thường tích tụ
những độc tố đã ăn vào ở trong mỡ. Cho nên khi chúng ta ăn thịt bò
vào chẳng hạn là ăn tất cả những độc tố hóa học đã tích lũy sâu đậm
từ bấy lâu nay trong cơ thể của chúng. Bởi vì khi trồng hoa màu để
chăn nuôi gia súc, các nông gia không ngần ngại sử dụng tối đa các
chất độc hóa học min sao thu hoạch càng nhiều càng tốt. Chất độc hóa
học trong cơ thể của bò cũng sẽ tiết vào sữa và làm cho sữa mang
nhiều độc tố hơn là trong các thức ăn thực vật. Nhiều cuộc phân tích
so sánh sữa của những người mẹ ăn chay với sữa của những người mẹ ăn
thịt cho biết lượng độc tố hóa học của thuốc diệt côn trùng trong
thành phần sữa của những người mẹ ăn chay ít hơn trong sữa của những
người mẹ ăn mặn. Do kinh nghiệm này mà chúng ta thấy người ăn chay
cũng sẽ ít bị nhim độc của thuốc diệt côn trùng hơn.
Đây là một đề tài hết sức thú vị. Gần đây đã có hơn 28 ấn phẩm về
khoa học và y học bàn luận về vấn đề này. Nhiều bằng chứng cho thấy
bệnh tiểu đường ở trẻ con bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi sự di truyền và
xảy ra trong một trường hợp đột xuất nào đó. Cũng có một số trường
hợp bệnh xảy ra bởi vi khuẩn và cũng có thể bởi chất protein trong
sữa và các sản phẩm của sữa. Một số nhà nghiên cứu đã nhận thấy được
một loại protein đặc biệt ở trong sữa là mầm móng gây ra bệnh tiểu
đường này. Cho nên những đứa trẻ nào dùng lọai sữa đó đều có lượng
kháng thể chống bệnh tiểu đường cao ở trong máu. Những nhà khảo cứu
khác thì dùng các chứng liệu về bệnh truyền nhim của Liên Đoàn Sản
Xuất sữa Quốc Tế và so sánh sự tiêu thụ sữa với bằng chứng của bệnh
tật. Các nhà khoa học ở Thụy Điển bảo tùy ở mỗi nơi người ta giải
thích sự ảnh hưởng của bệnh này bằng những luận cứ khác nhau. Hội
Đồng Kiểm Tra Dược Phẩm (Physicians Commitee For Responsible
Medicine) đã bảo không có trường hợp bệnh tiểu đường nào của trẻ con
liên hệ tới sự ảnh hưởng của chất protein trong sữa cả. Dù vậy một
tờ báo đã đăng tải cho biết trẻ con bú sữa mẹ từ sơ sinh cho tới 4
tháng sau mới cho bú sữa kỹ nghệ giảm thiểu được một ít nguy cơ mắc
bệnh tiểu đường. Do đó một số cha mẹ quan tâm đến sức khỏe của con
cái đã không cho con họ bú sữa sản xuất từ các kỹ nghệ nông phẩm.
Ngay cả những người mẹ đang mang thai và trong thời kỳ cho con bú
cũng không uống sữa bò nữa. Hiện nay có rất nhiều sách vở liên quan
đến sự ăn chay và thai nghén do nhiều cơ sỏ xuất bản khác nhau. Quý
vị có thể tìm đọc hai quyển tiêu biểu là Pregnancy, Children and The
Vegan Diet của Bác sĩ Michael Klaper và quyển Diet For A New America
của John Robbins để có sự nhận thức chín chắn.
Cũng như hầu hết những người làm mẹ khác, tôi quyết tâm làm bất cứ
diều gì cho con tôi có đầy đủ sức khỏe ngay từ khi nó mới chào đời.
Đồng thời tôi cũng dạy dỗ cho nó biết thói quen ăn uống nào thích
hợp với sức khỏe của con người trong giai đoạn khoa học tiến bộ hiện
tại. Công việc này không có khó khăn chi cả. Căn cứ vào các thống kê
hiện nay, cứ hai người Mỹ thì sẽ có một người chết vì bệnh tim mạch.
Nhiều cuộc xét nghiệm cho thấy khá đông trẻ con Âu Mỹ cũng đang bắt
đầu đứng trên bờ vực thẵm của bệnh này.
Tuy nhiên đối với những người ăn chay trường, bệnh tim thường hiếm
thấy xảy ra. Khi con tôi khôn lớn, bắt đầu biết chọn lựa cho mình
cái khẩu vị riêng tư, ít ra nó cũng còn nhớ nó đã sinh ra và trưởng
thành trong một gia đình không có thịt cá mà chỉ toàn được nuôi lớn
bằng các thức ăn rau quả và ngũ cốc, với những hình thức nấu nướng
khác nhau. Đó cũng là cách thức ăn uống thích hợp nhất với sức khỏe
của nó vậy.
Tại Úc Châu, sữa nuôi trẻ con rất an toàn vì đã được tinh chế một
cách kỹ lưỡng, được gia hay giảm thành phần sinh tố và khoáng chất
cho thích hợp với thể trạng và tuổi tác của mỗi đứa trẻ. Hiện nay
thành phần sữa bò trong các loại sữa nuôi trẻ con cũng có chiều
hướng được chiết giảm để thay thế bằng các chất thảo mộc thiên
nhiên. Cũng có thứ được chế biến hoàn toàn bằng thực vật như đậu
nành và hợp chất thảo mộc khác đang được khuyến khích bày bán trên
thị trường.
[^]
Bài IV
ĂN CHAY ĐỐI VỚI SỰ PHÁT
TRIỂN THỂ CHẤT
VÀ TRÍ THÔNG MINH CỦA TRẺ CON
Qua nhiều cuộc khảo cứu, các chuyên gia dinh dưỡng nhận thấy ăn chay
giúp ích rất nhiều cho sự phát triển thể chất và trí thông minh của
đứa trẻ. Những trẻ con ăn chay trường thường tăng trưởng cân đối và
khỏe mạnh hơn những trẻ con ăn thịt. Những đứa bé được nuôi dưỡng
bằng sữa mẹ phù hợp với cách thức nuôi nấng tự nhiên nên cơ thể có
đặc tính min nhim đối với nhiều loại bịnh tật cũng mạnh hơn các đứa
bé được nuôi bằng sữa bò hay sữa hóa học đặc chế.
Khi đứa bé được ba tháng tuổi, nếu vì sự bất tiện nào đó mà người mẹ
không thể cho con bú được có thể thay thế bằng sữa đậu nành vì loại
sữa này tốt hơn các loại sữa đặc chế khác. Sữa bò thường gây cho đứa
bé bị tiêu chảy và một số dị ứng. Tuy nhiên sữa đậu nành được bày
bán tại các tiệm tạp hóa hay tiệm thực phẩm không phải là sữa dùng
cho trẻ con mà phải tìm mua tại các tiệm dược phẩm đàng hoàng và
loại sữa phải phù hợp với số tuổi cùng thể trạng của đứa bé.
Mức độ chất sắt trong cơ thể của đứa bé trong ba tháng đầu kể từ
ngày sinh nở thường rất cao, nên không cần cho trẻ con bồi dưỡng
thêm chất sắt ngoại trừ có sự khuyến cáo của bác sĩ. Nhiều bằng
chứng cho thấy thặng dư chất sắt trong cơ thể sẽ làm cho hệ thống
min nhim bị suy yếu nên d sinh ra các loại bịnh tật. Tuy nhiên khi
đứa trẻ càng lớn thì chất sắt rất cần thiết cho sự tạo thành các
hồng huyết cầu. Các loại đậu và lá của các loại rau xanh hàm chứa
khá nhiều chất sắt. Ngoài ra sinh tố C trong rau cải và trái cây
tươi có khả năng kích thích sự hấp thụ chất sắt cho cơ thể. Sữa bò
tuy có nhiều chất bổ dưỡng nhưng thành phần chất sắt rất ít. Nếu
chúng ta chỉ dựa vào sữa bò và coi nó như một thứ dinh dưõng toàn
hảo mà không cần đến rau trái thì là một điều thiếu sót vô cùng.
Nguồn calcium từ thực vật cũng rất dồi dào. Chính các loại đậu và lá
rau xanh mới là nguồn cung cấp calcium thiên nhiên và đầy đủ cho cơ
thể.
Trẻ con rất cần protein cho sự tăng trưởng, nhưng không cần phải ăn
thịt động vật. Các loại ngũ cốc, rau đậu và trái cây là nguồn cung
cấp protein dồi dào. Thực ra các bậc cha mẹ thường lo lắng con mình
thiếu protein sẽ không tăng trưởng đúng mức cũng không nên quan ngại
lắm. Dân chúng tại các quốc gia đói nghèo trên thế giới bị suy dinh
dưỡng vì thiếu ăn nên không đầy đủ calories chớ không phải thiếu
protein. Cơ thể của con người nếu thiếu protein thì không được,
nhưng nếu thặng dư thì lại gây ra nhiều loại bệnh tật. Chúng ta chỉ
cần ăn nhiều loại trái cây và rau cải khác nhau thì không sợ thiếu
protein và sinh tố.
Trẻ con cần nhiều chất béo hơn người lớn. Đậu nành có khả năng đáp
ứng trọn vẹn cho nhu cầu này. Tuy nhiên thặng dư chất béo lại là một
điều không tốt. Khá đông trẻ em ở Hoa Kỳ hiện nay đã bị các chứng
bệnh phì mập, bệnh tim mạch trước khi hoàn tất chương trình trung
học. Trái lại ở Nhật Bản, tỷ số trẻ em bị bệnh phì mập và bệnh tim
mạch rất thấp so với Hoa Kỳ và các nước Tây phương.
Sinh tố B12 hàm chứa rất nhiều trong thực phẩm thuộc nhóm cốc loại
(cereals) đã chế sẵn được bày bán đầy đủ tại các siêu thị hoặc tại
các tiệm thực phẩm. Thực ra lượng sinh tố B12 cần thiết cho cơ thể
mỗi ngày là 3 microgram. Tiêu chuẩn này có thể đạt được d dàng nếu
được ăn chay đầy đủ.
Trẻ con cũng cần ánh nắng mặt trời để tạo ra sinh tố D cho xương
được rắn chắc. - dưới lớp da của mỗi người đều có một chất gọi là
tiền sinh tố D (ergosterol). Một khi tiếp nhận được ánh nắng da sẽ
chuyển hóa chất tiền sinh tố D đó thành sinh tố D thật sự và hữu ích
cho cơ thể. Điều cần yếu là sự ăn uống có phương pháp và điều độ sẽ
làm cho cơ thể luôn luôn được khỏe mạnh và kéo dài được tuổi xuân.
Những trẻ em nào chuyên ăn các loại thịt nướng, các thức ăn chiên
xào bởi các tiệm thực phẩm bán thức ăn vội (fast food) thường là
bệnh nhân của các bệnh tim mạch và ung thư trong một tương lai rất
gần. Trong khi đó các nghiên cứu cho thấy những trẻ em ăn chay
trường ban đầu phát triển chậm hơn, nhưng sau đó tăng trưởng rất
nhanh, đồng thời cũng sẽ bắt kịp tầm vóc của một con người khỏe mạnh
theo tiêu chuẩn sức khỏe.
Theo sách Food For Life của Bác sĩ Neal Barnard, năm 1980 tại
Boston, các nhà nghiên cứu đã đo lường chỉ số thông minh IQ của các
trẻ em ăn chay trường đều thấy trên mức trung bình. Chỉ số thông
minh trung bình là 116. Do đó các bậc cha mẹ khỏi phải lo lắng khi
thấy con cái của mình đã ăn chay vì lý do sức khỏe hay tín ngưỡng vì
nó không ảnh hưởng gì xấu cho sự học vấn của chúng cả. Một cuộc
nghiên cứu khác cho thấy thịt động vật không có giúp ích gì cho sự
phát triển của não bộ mà chỉ có các loại thực vật như lúa mạch, đậu
nành, rong biển, củ cà rốt, giấm táo (apple cider vinegar), mè, cam,
chanh, quít, bưởi và mật ong là những thức ăn cần thiết cho sự dinh
dưỡng và tăng cường trí thông minh. Trà cũng có rất nhiều chất dinh
dưỡng, trong đó có chứa chất cafein làm cho tỉnh não và hưng phấn.
Nên dùng nước trái cây hòa với trà xanh để nguội cho trẻ em uống.
Trà cũng làm tăng cường sức đề kháng của cơ thể đối với một số bệnh
tật. Trà còn có sinh tố C không sợ bị nhiệt độ phân hủy. Trà cũng có
chất sáp có khả năng tiêu diệt một số vi khuẩn, điều hòa sự co bóp
của mạch máu và là một thứ thức uống có tính kiềm cao.
Sinh tố B1 là thành phần dinh dưỡng không thể thiếu của tế bào não.
Sinh tố B1 có trong lúa mạch, trái khổ qua, chỉ xại (tử thái), gạo
lứt và các lọai rau. Gần đây người ta cũng phát hiện ra rằng sinh tố
C tăng cường sự hoạt động của hệ thần kinh. Thiếu sinh tố C thì trí
tuệ kém phát triển. Sinh tố C rất d tìm trong các loại rau trái như
cam, chanh, quít, bưởi, bôm, lê, nho v.v...
[^]
--- o0o ---
[Mục lục] [Bài
kế]
--- o0o ---
[Mục
lục] [Giới
thiệu tổng quát] [Phần
01] [Phần
02]
[Phần
03] [Phần
04] [Tham
khảo]
--- o0o ---
Về danh mục