3. Quan điểm các tôn giáo khác về việc ăn thịt.
^
Những quan điểm của Ðức Phật về ăn thịt phải được xét đến trong khung cảnh
thời đại của Ngài. Các bản văn tôn giáo Ấn độ sớm nhất, như Vệ-đà, lại
không cấm sử dụng thịt hay giết mổ súc vật. Thực vậy, một số lớn các
nghi thức sát tế đã trở thành qui luật, đặc biệt là nghi thức tàn nhẫn
Asvamedha đã dần dà được thừa nhận là cách tỏ rõ sức mạnh của các nhà
cầm quyền đang gia tăng.
Thoạt đầu mang tính thăm dò, chính những người Upanishads đã đề ra nguyên
tắc "không gây tổn thương" (ahimsà - vô hại) vào cuộc sống tôn
giáo Ấn độ. Nhưng ngay cả nghi thức sát tế cho các thần linh cũng được
cho phép, tuy nhiên không phải trên qui mô được thừa nhận dưới thời
Vệ-dà sau này. Nơi những người Upanishads đầu tiên, như Chandogya, lại
cho phép sử dụng thịt đặc biệt nếu một phần thịt đó đã được cúng cho các
vị thần linh. Chỉ sau thời Đức Phật, một số người theo đạo Hindu (Ấn độ
giáo, Bà-la-môn giáo) mới chấp nhận việc ăn chay như một luật chung.
Nhưng giới luật này cũng không phổ biến mấy và một số giáo phái Hindu
như những người theo việc thờ cúng Tara lại dính líu đến nghi thức giết
mổ và sử dụng thịt. Tuy nhiên đa số tín đồ Hindu lại là người ăn chay,
hay ít nhất cũng tránh sử dụng một vài loại thịt, như là thịt bò.
Chính nơi các người Kỳ-na giáo, chúng ta thấy rõ sự khẳng định đặc biệt
đối với nguyên tắc vô hại - ahimsà. Họ nghiêm cấm giết hại tất cả
các hình thức sự sống, ngay cả những sinh vật cực nhỏ. Toàn bộ nền đạo
đức của người Kỳ-na bao gồm hàng loạt những giới luật và các điểu khoản
liên quan đến qui luật Ahimsà. Thực vậy, tám điều kiêng cữ cơ bản
(mùlaguna) người cư sĩ Kỳ-na thường phải tuân thủ liên quan đến
kiêng cữ: thịt, rượu, mật, và năm loại quả vải đặc trưng. Bảy loại thức
ăn sau bị cấm sử dụng vì có thể tìm thấy một số sinh vật nhỏ sống trong
đó. Thêm vào đó, toàn bộ một loạt những giới luật khác cũng phải được
tuân thủ, thí dụ như không được dùng bữa sau khi mặt trời lặn (vì bếp
lửa nấu ăn có thể thu hút một số côn trùng đến thiêu thân.) và không
được uống nước chưa được lọc (rất có thể trong nước đó có chứa một ít
sinh vật). Những người thường dân Kỳ-na còn loại bỏ cả công việc trồng
tỉa ra khỏi những nghề tạo"sinh kế hợp lý" của họ, vì canh nông cũng đưa
đến phá hoại sự sống. Rất nhiều người chỉ làm nghề thương mại và đổi
chác. Các giới luật dành cho các tu sĩ đạo Kỳ-na (muni) còn
nghiêm khắc hơn nhiều. Một số giáo phái còn tránh không cả mặc quần áo
vì sợ có thể hủy diệt các loại ký sinh trùng sống trên thân thể con
người. Một số các tu sĩ khác còn thi hành việc tuyệt thực đến chết (sallekhana)
vì không có loại thực phẩm nào có thể thực sự không gây hại đến các thú
vật. (xin đọc phần dưới đây bàn về những luận chứng về ăn chay).
Trong số các Phật tử, một số nhóm theo phái Bắc Tông hết mực tán dương
việc ăn chay. Ðã thấy xuất hiện trong kinh Đại Niết-bàn phiên bản chữ
Sanskrit, lời tuyên bố sau đây được gán cho là do Ðức Phật nói: "Như Lai
ra lệnh toàn thể các đệ tử từ nay về sau không còn được tham gia vào các
bữa ăn có thịt." Dĩ nhiên, lời tuyên bố này không thấy xuất hiện trong
phiên bản tiếng Pàli của bài kinh có cùng tên. Một điều được biết rõ
ràng là có nhiều tuyên bố khác nữa cũng đã được thêm vào bản kinh
Sanskrit này dựa vào uy tín của Ðức Phật sau khi Ngài đã qua đời. Sự kết
án việc ăn thịt được thấy trong các kinh điển khác của Bắc Tông, như
trong phiên bản của họ về kinh Phạm Võng, và quan trọng hơn là kinh Lăng
Già. Trong chương Tám của kinh này đã được dành trọn vẹn cho vấn đề ăn
thịt, và có đến 24 luận cứ được đưa ra chống lại việc ăn thịt. Một vài
luận cứ tiêu biểu được viện dẫn chống lại việc ăn thịt trong kinh Lăng
Già là:
1.
Những thú vật hiện nay có thể là bạn bè họ hàng với chúng ta trong quá
khứ.
2. Chính cha mẹ và họ hàng chúng ta có thể được tái sinh là một con vật
trong cuộc sống mai sau.
3. Theo lý lẽ thông thường thì không có lý do gì để cấm dùng thịt một số
loài vật, đang khi đó lại không cấm sử dụng tất cả các loại thịt khác.
4. Thịt luôn được xem là ô uế vì nó luôn luôn bị nhiễm các chất phóng uế
của thân xác
5. Viễn cảnh bị giết thịt có thể khiến cho thú vật phải kinh hoàng.
6. Toàn bộ thịt chẳng là gì khác hơn là xác chết thối rữa.
7. Việc dùng thịt có thể kiến cho người sử dụng trở nên độc ác và gợi
cảm nhục dục.
8. Theo bản chất tự nhiên, con người không phải là con vật ăn thịt.
Trong kinh này, Đức Phật đã chỉ vẽ cho Bồ Tát Đại Huệ như sau:"Không có
loại thịt nào lại tinh khiết, xét theo ba cách thức sau đây: không được
dự tính trước, không được yêu cầu, và không bi ép buộc; chính vì vậy mà
nên tránh không ăn thịt."
Thật rõ ràng đây là câu trả lời của phái Bắc Tông về luật Tam Tịnh Nhục
của Ðức Phật đã đề ra trong kinh Pàli và trong kinh điển của các bộ phái
nguyên thủy khác. Nhưng ba điều kiện đề cập đến ở trên không ăn khớp với
những điều kiện đã được Ðức Phật qui định trong các kinh điển Pàli. Cho
dù có rất nhiều lời phê phán trong kinh điển về việc ăn thịt, những
người theo phái Bắc Tông nhìn chung trong thực tế cũng vẫn tiêu thụ
thịt. Đặc biệt điều này hoàn toàn đúng nơi các Phật tử Tây Tạng. Ðức Ðạt
Lai Lạt Ma đã đưa ra lời biện hộ cho rằng đó là vì đất đai và khí hậu
tại Tây Tạng khô cằn và khắc nghiệt, không có lợi cho việc trồng tỉa.
Nhưng điều này cũng là do những ảnh hưởng của môn phái Mật Tông trong
đó, thịt và cá là hai trong số 5 loại "thịt" mà người thuộc phái Mật
tông thường ham mê thích thú.
Như chúng ta đã thấy, phái Nam Tông cố gắng tuân giữ giới luật của Ðức
Phật. Duy chỉ có một ngoại lệ đáng chú ý nhất đó là cuộc ly khai của Ðề
Bà Ðạt Ða, trong đó Ðức Phật đã thẳng thắng từ khước ngay việc đưa ăn
chay thành giới luật. Tuy vậy một số tàn dư của của cuộc ly khai bởi Ðề
Bà Ðạt Ða vẫn thấy xuất hiện nơi một vài phái Tàpasa trong Nam
Tông. [6]
Các tôn giáo thờ độc thần đã xuất hiện tại vùng Trung Ðông (Do thái giáo,
Ky-tô giáo và Hồi giáo) đã không phát triển nền đạo đức "vô hại" cho
loài súc vật. Cả Do thái giáo lẫn Hồi giáo đều qui định dùng súc vật làm
tế cho Thượng đế. Và họ còn qui định cả cách thức giết thịt súc vật làm
thức ăn cho con người (một cách thức thường rất dã man). Theo Kinh
Thánh, ngay sau khi tạo dựng nên trời đất muôn vật, Thượng đế đã ra lệnh
cho con người phải ăn rau đậu, tuy nhiên huấn thị này không tồn tại được
lâu và đã bị hủy bỏ sau cơn "Lụt đại hồng thủy" thần thoại. Giờ đây, con
người được phép giết và ăn thịt kèm theo một số giới hạn thật là kỳ quặc
có liên quan đến việc gây đổ máu. Ðó là cơ bản của một phương pháp giết
mổ dã man được người Do thái và người Hồi giáo sử dụng. Kinh thánh Do
thái và Ky-tô giáo thừa nhận sự "thống trị" mà Thượng đế đã đặt lên thú
vật và môi trường, và đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng trong lịch
sử.
Chúng ta sẽ thấy Phật giáo giữ một vị thế trung dung giữa lý tưởng Vô hại
của Kỳ-na giáo và sự bỏ rơi hoàn toàn trong vị thế của Do thái - Ky-tô -
Hồi giáo.
4. Phân tích về giới luật của Ðức Phật.
^
Ðâu là lý lẽ căn bản của giới luật Tam Tịnh Nhục của Ðức Phật về việc ăn
thịt? Không thể cho là bàn tay của người tiêu thụ loại "thịt nghiệp trơ"
là hoàn toàn tinh khiết, đặc biệt nếu như ta ra chợ mua thứ thịt đó như
trường hợp của hầu hết những người tiêu thụ. Chính vì luật thị trường
cho thấy là nếu không có cầu thì cũng không có cung [7]. Vấn đề ở đây là
mức độ can dự vào hành vi sát sinh nếu là thịt thuộc bất kỳ loại nào
được tiêu thụ (ngoại trừ khi con vật bị được giết một cách vô tình, hoặc
con vật chết một cách tự nhiên.) Chúng ta có thể xác định được nhiều mức
độ can dự của người tiêu thụ với hành vi sát sinh:
*
Mức độ trực tiếp nhất là khi người tiêu thụ trực tiếp giết con vật để
lấy thịt sử dụng.
*
Mức độ can dự thứ hai là khi người làm công của ai đó dưới quyền trực
tiếp của người tiêu thụ được yêu cầu thực hiện việc sát sinh đó. Các chi
tiết khác nhau về mức độ can dự này là: khi người tiêu thụ dùng bữa với
món thịt do người bạn gửi tặng hay một người trong gia đình lần lượt
hoặc trực tiếp sát sinh hoặc tạo cớ cho con vật trực tiếp bị giết. Cả
hai mức độ can dự nêu trên đều nằm ngoài phạm vi Tam Tịnh Nhục của Ðức
Phật và đều bị nghiêm cấm đối với cộng đồng Phật tử.
*
Mức độ can dự thứ ba là khi người tiêu thụ mua thịt ở chợ. Hình như đức
Phật đã xem mức độ này là phù hợp với luật Tam Tịnh Nhục của Ngài, và
mức độ này được xem như "nghiệp trơ" hay "nghiệp trung tính". Những lý
do thừa nhận mức độ dính líu thứ ba này với hành động sát sinh đã không
được trực tiếp bàn đến trong Thánh điển. Cho nên, các lý do đó chỉ được
phỏng đoán từ vị thế của đức Phật nói chung. Đó là lý lẽ chúng tôi hy
vọng sẽ được trình bày trong chương này.
Trước hết, tương quan nơi mức độ can dự này trong việc sát sinh đối với
giới luật đầu tiên trong Phật giáo (kiềm chế không được sát sinh) phải
được khai triển. Nghiệp gắn liền với những hành vi lựa chọn tuyệt đối.
Thực vậy, người đồ tể chỉ giết súc vật đề bán thịt mà thôi, nếu như
người tiêu thụ không mua thịt, chắc hẳn người đó đã không giết mổ. Nhưng
để thực hiện được điều đó, người đồ tể đã thực hiện một sự lựa chọn
tuyệt đối. Không có cưởng bách nào đối với người đó để trở thành đồ tể,
cũng như người làm nghề nướng bánh hay ngưòi sản xuất chân nến. Nếu
không có người cung cấp và bán thịt thì người tiêu thụ, nếu như họ muốn
tiếp tục sử dụng thịt, sẽ buộc phải tự mình là chuyện sát sanh, như vậy
họ phải gánh chịu trách nhiệm nghiệp chướng. Chính vì thiếu sự thúc bách
về phía người tiêu thụ, đã thực sự giải thoát người tiêu thụ thịt khỏi
toàn bộ trách nhiệm nghiệp chướng về hành vi sát sanh, khiến cho người
này có thể mua thịt ngay tại chợ. Thế nên Ðức Phật đã chủ trương một
cách hợp lý cả giới luật đầu tiên của Phật giáo và giới luật Tam Tịnh
Nhục về việc ăn thịt để cả hai không dẫn đến xung khắc.
Luận chứng thuyết phục nhất về giới luật của Ðức Phật chính là toàn bộ sự
hiện hữu của cõi Ta-bà đều có dính líu đến sát sanh, bằng cách nầy hay
cách khác. Như sẽ được trình bày ở phần kế tiếp, việc cung cấp thực phẩm
cho người ăn chay cũng có can dự đến việc tiêu diệt sự sống, đôi khi còn
sâu rộng hơn cả việc cung cấp các sản phẩm có chứa thịt. Một thực tế phủ
phàng là cả người ăn chay lẫn người ăn thịt - từ ngay chính sự hiện diện
của họ trong cõi Ta-bà này - đều tạo ra sự giết hại những dạng sinh vật
khác nhau. Thực vậy, ta không thể nào sinh tồn mà không gây tàn phá cho
sự sống (như các vị tu sĩ Kỳ-na giáo đã nhận thức được).
Ðiều căn bản nhất nơi giáo lý của Ðức Phật chính là toàn bộ sự hiện hữu
luân hồi đều dính líu đến một vài hình thức giết hại. Ðó chính là khía
cạnh của đau khổ (dukkha), một thực tế luôn luôn tồn tại khắp nơi. Thay
vì phải cố gắng vô vọng để kết thúc mọi hình thức sát sanh, và biến thế
giới trở nên hoàn hảo theo kiểu đó, Ðức Phật đã tạo ra một lối thoát
khỏi cõi Ta-bà và mọi khiếm khuyết của nó. Ðiều này bao gồm sự xa lánh
những hình thức thô sơ của tội lỗi, kể cả việc tránh sử dụng "thịt
nghiệp tác", cùng với việc phát triển những yếu tố khác của Bát Chánh
Ðạo.
Ðức Phật còn nhấn mạnh đến những khiếm khuyết luân lý nghiêm trọng hơn là
việc ăn thịt. Một bài kinh điển hình về vấn đề này là kinh Àmagandha
trong Kinh Tập, một trong các quyển kinh nguyên sơ nhất của bộ Thánh
điển Pàli. Trong bài kinh này, một nhân vật Bà-la-môn ăn chay trường
khuyết danh đã đối diện với Ðức Phật, và ông ta tuyên bố những tội ác về
việc sử dụng thịt và cá. Danh từ "àmagandha" theo nghĩa đen có
nghĩa là mùi hôi thối của thịt cá, và cũng được dùng để ám chỉ sự ô uế.
Trong khi trả lời ông ta, Ðức Phật đã thốt ra một số vần thơ liệt kê ra
sự ô uế thực sự đang hủy hoại tư cách đạo đức, chứ không phải là việc ăn
thịt cá. Ở phần cuối của mỗi đoạn kinh, Ngài đều thốt ra cùng một điệp
khúc: "... đấy chính là thứ mùi hôi thối tạo hủy hoại, chứ không phải
chỉ là việc sử dụng thịt mà thôi." ("esàmagandho ni hi mamsabhojanam").
Cách tiếp cận vấn đề của Ðức Phật được minh chức nơi học thuyết Darwin.
Ông Darwin cho rằng muôn loài vạn vật đều xung đột liên tục với nhau và
chỉ có loài nào mạnh nhất mới tồn tại được. Theo học thuyết này thì sự
sống còn của bất kỳ một chủng loại nào đều gây ra sự hủy hoại cho bất kỳ
chủng loại nào khác đang tranh dành lấy cùng một không gian sinh học có
giới hạn. Sự sống còn và sự sinh sôi nảy nở của nhân loại cần thiết phải
dính líu đến sự hủy diệt của vô số sinh vật khác, bất kể chế độ ăn uống
của nhân loại có tên là ăn chay hay ăn mặn.
5.
Những luận chứng về ăn chay
^
Kế
đến, chúng ta phải xem xét đến ý nghĩa đạo đức và những tác động khác
của chủ nghĩa ăn rau đậu. Có nhiều luận chứng được đưa ra về vấn đề ăn
chay, trong số đó những luận chứng sau đây cần phải cứu xét: luận chứng
đạo đức, sinh học, sinh thái, và văn hóa - xã hội.
*
Xét theo quan điểm tôn giáo thì luận chứng đạo đức là quan trọng nhất và
sẽ được đề cập đến đầu tiên. Nhiều người ăn chay rất thích thú dùng cơ
sở đạo đức cao. Họ cho là khẩu phần ăn của họ không liên quan gì đến sát
sinh và gây đau khổ cho thú vật, hoặc cho dù nếu có liên quan đi chăng
nữa thì nếu họ chấp nhận chế độ không ăn chay thì mức độ gây đau khổ cho
súc vật và sát sinh sẽ còn lớn hơn. Tuy nhiên, một thực tế đơn giản là
nền nông nghiệp thương mại, vốn là căn bản cho khẩu phần ăn chay, sẽ
không thể thực thi được nếu không có sự hủy diệt sự sống. Ngay cả chỉ
một hành động cày đất thôi thì cũng đã hủy hoại cuộc sống của nhiều côn
trùng sống trong đất, nhưng hình thức sát sinh chính yếu lại xuất hiện
từ nhu cầu bảo vệ mùa màng và vụ thu hoạch khỏi côn trùng, dã thú và một
số thú vật phá hoại khác. Chúng ta chỉ cần ngẫm nghĩ đến việc giết hại
toàn bộ các loài heo rừng, thỏ rừng, kăng-ga-ru v.v... cho mục đích này.
Các loại thuốc độc, cạm bẫy, và những bệnh dịch cho chính con người gây
ra đã tạo ra những sự hủy diệt chết chóc tàn bạo và khủng khiếp. Những
con ốc sên, châu chấu, các con giòi, cào cào, và nhiều côn trùng khác đã
bị hủy diệt bằng các chất thuốc trừ sâu cực mạnh, và con số phải lên đến
hàng triệu. Ngay cả số chuột bị tiêu diệt để bảo vệ những kho chứa ngũ
cốc khỏi bị chúng phá hoại thì còn lớn hơn con số đoàn gia súc bị giết
mổ để phục vụ cho những người sử dụng thịt. Thật thế, có thể tranh luận
là con số thú vật và côn trùng bị giết hại để làm ra một bữa ăn trung
bình cho người ăn chay còn lớn hơn con số súc vật bị giết để làm ra một
bữa ăn cho người ăn thịt với cùng một giá trị dinh dưỡng. Nếu quả đúng
như thế, sự chấp nhận khẩu phần ăn chay thực sự có thể gia tăng số sinh
vật bị giết trong quy trình sản xuất thực phẩm.
Còn nữa, nhiều người ăn chay còn dùng các sản phẩm lấy từ gia súc như sữa.
Trong khi xem ra các sản phẩm này "nhân đạo" vì không phải sử dụng đến
sát sinh, nhưng thực chất không phải là như vậy. Giả sử như mọi người
đều bỏ không dùng thịt nữa và chỉ duy trì uống sữa mà thôi. Một hậu quả
chắc chắn sẽ xảy ra ngay đó là các con bò đực sẽ bị giết ngay từ lúc mới
sinh (trừ một số được giữ lại để dùng vào mục đích lấy giống), trừ phi
các bò đực không có giá trị sản xuất lại được lưu giữ và điều này rất
khó xảy ra. Sữa là sản phẩm đuợc thiên nhiên dành cho các con bê con, và
việc ép buộc dành riêng cho con người lại là một vấn đề luân lý gây
tranh cãi. Một điều lạ kỳ cần lưu ý là một số người ăn chay nghiêm khắc
nhất, như nhóm Hare Krishna, lại là những người rất thích dùng các loại
sản phẩm lấy ra từ sữa . Hình như họ không nhìn ra sự mâu thuẩn đạo đức
liên quan đến những thói quen ăn uống của họ. Giới luật Tam Tịnh Nhục
của Ðức Phật, tuy không phải là giới luật hoàn chỉnh nhất, bởi vì không
có giới luật nào mà tuyệt đối hoàn chỉnh, nhưng ít nhất cũng tránh được
những vấn nạn luân lý đã làm bối rối người ăn chay vì lý do đạo đức.
*
Luận chứng sinh học cho chủ nghĩa ăn rau đậu có giá trị hơn luận chứng
đạo đức. Một điều rất rõ ràng là cơ thể con người không được thiết kế để
tồn tại chỉ nhờ vào thịt (như là kinh Lăng Già khẳng định). Hai khía
cạnh cơ thể học con người cho thấy thực phẩm chay là thực phẩm thích hợp
cho con người. Ðầu tiên là cấu tạo của răng con người (trong đó răng hàm
lại quan trọng hơn là răng cửa) và một khía cạnh khác nữa là ruột con
người chiếm một tỷ lệ chiều dài, dài hơn là cơ thể con người. Những loài
thú ăn thịt có răng cửa sắc bén để xé thịt, và có bộ ruột ngắn hơn để
cho lượng thịt bị thối rữa nhiễm trùng có thể được tống ra khỏi cơ thể
càng nhanh càng tốt. Cơ thể con người ta thường giống hơn với loài vật
ăn cỏ, nhưng không hoàn toàn là loại ăn cỏ vì chúng lại có một cấu trúc
dạ dày khắc hẳn. Thực ra, cơ thể con người là một sự thỏa hiệp giữa loài
ăn cỏ thuần túy và loài ăn thịt thuần túy -- do đó, con người là một
loài ăn tạp. Còn nữa, hiệu quả gây tác hại từ việc sử dụng các sản phẩm
động vật (thí dụ Cholesterol) đã không được cân bằng do thiếu hụt các
chất đạm cao trong các thức ăn chay. Sau khi cân nhắc kỹ, thì luận chứng
sinh học xem ra có phần thiên về ăn chay hơn là ăn thịt.
*
Luận chứng sinh thái cũng có phần thiên về ăn chay. Thịt là một cách
thức thiếu hiệu quả để chuyển đổi toàn bộ năng lượng thành thực phẩm.
Thật dễ dàng và rẻ tiền hơn nhiều để chuyển đổi năng lượng thành sinh
khối (biomass) rất thích hợp cho con người tiêu thụ trực tiếp hơn là một
cách gián tiếp sau khi đưa sinh khối đó vào thú vật và rồi lại tiêu thụ
thịt thú vật. Sản xuất hàng loạt gia súc (gà, heo, bò) có thể dẫn đến
hoặc là phá hủy toàn bộ những cánh rừng nguyên sinh để tạo đồng cỏ chăn
nuôi, hoặc là với phương pháp nuôi gà công nghiệp dẫn đến sự tàn nhẫn
cùng cực, thải ra lượng khí mêtan v.v... Sự gây giống chọn lọc ở các
trại chăn nuôi súc vật và việc sử dụng hóa chất và các chất kích thích
hóc-môn để làm tăng trọng có thể tạo ra những hậu quả phụ thuộc không
ngờ được trong một số lãnh vực khác. Nhưng cũng cần phải được đề cập đến
ở đây là việc chuyển đổi sang chế độ ăn chay sẽ không nhất thiết có thể
cải thiện được môi trường sinh thái. Ðiều cần thiết chính là giảm gia
tăng dân số và áp dụng những tiêu chuẩn sinh sống lâu bền mà không gây
tác hại đến môi trường.
*
Luận chứng văn hóa - xã hội lại dính líu đến luận chứng thẩm mỹ thuộc về
những gì xã hội cho là thích hợp để ăn. Các qui luật xã hội rất khác
biệt nhau về khía cạnh này. Ða số các xã hội đều loại bỏ tục ăn thịt
người và không cho phép tiêu thụ xác chết thối rữa và ăn xác các súc vật
chết. Tại hầu hết các quốc gia Tây phương và nơi tiểu lục địa Ấn độ đã
có một sự chống đối ăn thịt các thú vật yêu chuộng (chó, mèo) hay các
loài bò sát. Tuy nhiên không có sự ngăn cấm như vậy tại một vài nơi khác
ở Phi Châu và vùng Viễn Ðông (mặc dù ở Trung Hoa vào năm 511 Tây lịch,
Lương Vũ Đế đã ra lệnh cấm ăn thịt). Thực ra, không có gì khác nhau
trong việc tiêu thụ thịt của một loại thú vật này và tránh ăn thịt của
loại khác. Nhưng xét dưới khía cạnh thẩm mỹ và văn hóa, ta thấy có khác
biệt đáng kể. Chắc chắn là các thực phẩm chay thì hay hơn so với các sản
phẩm về thịt xét dưới góc độ thẩm mỹ, cho dù sản phẩm thịt được đóng gói
để dễ nhìn hơn.
6. Kết luận.
^
Những luận chứng trên đây không nên xem như là cách bào chữa cho việc ăn
thịt. Ðiều chúng tôi quan tâm là cố suy đoán về những lý lẽ căn bản đàng
sau giới luật Tam Tịnh Nhục vốn đã được Ðức Phật đặt ra, và phản bác lời
chỉ trích rằng giới luật của Ðức Phật hàm chứa một mâu thuẫn luân lý với
những phần giáo lý khác của Ðức Phật, vì Ngài đã từng nhấn mạnh đến lòng
từ bi và giới luật cấm sát sanh.
Có
nhiều luận chứng có tính thuyết phục về việc ăn chay, quan trọng nhất là
về khía cạnh sinh học, môi sinh và xã hội mà chúng tôi đã xác định ở
phần trên. Luận chứng đạo đức mà nhiều người ăn chay chấp nhận, để cho
là có đạo đức còn cao hơn cả điều Ðức Phật đã dạy, đã được cho thấy là
không có giá trị. Thật ra, nếu chúng ta chuyển từ ăn thịt sang ăn rau
đậu, vẫn không cần thiết phải có sự sút giảm về số lượng sát sanh và tàn
nhẫn liên quan đến việc cung cấp thực phẩm. Chỉ có những loại sinh vật
khác có thể phải chịu đau khổ.
Cũng còn có một quan điểm đạo đức rất thú vị cần được giải quyết. Toàn bộ
những thú vật bị giết để cung cấp thịt đã được cố ý gây giống và chăn
nuôi cho mục tiêu này (thí dụ: gà công nghiệp, heo và đàn bò thịt). Nếu
không có nhu cầu về thịt, thì điều đơn giản là chúng sẽ không còn tồn
tại nữa. Như vậy, loại bỏ việc ăn thịt về lâu về dài sẽ không "cứu" được
bất kỳ loại gia súc nào khi mà chúng không còn được gây giống nữa. Vấn
đề là dựa trên căn bản đạo đức nào để quyết định duy trì sự sống cho một
số loài gia súc trong một thời gian có giới hạn hay là hoàn toàn chấm
dứt sự hiện hữu của chúng. Không có người tiêu thụ thịt thì hầu hết các
súc vật không bị giết mổ vì thực phẩm sẽ không còn hiện hữu nữa. Chúng
ta sẽ không xem xét khía cạnh đạo đức khó khăn của câu hỏi này.
Yêu cầu của Ðức Phật chỉ nhằm đạt đến sự điều độ trong ăn uống (mattamuta
ca bhattasmi). Dù các chế độ ăn uống có thể là ăn chay hay ăn thịt
thì việc ăn uống nên phải được hạn chế tới mức tối thiểu, chỉ cần thiết
để giữ cho các chức năng cơ thể tiếp tục họat động. Giới luật không được
ăn sau giờ ngọ có liên quan với qui luật giữ điều độ trong việc ăn uống.
Nhưng cho dù có cẩn thận đến đâu trong chế độ ăn uống, cũng không có
cách nào duy trì thể xác chúng ta ổn định về mặt thể chất mà lại không
gây tác hại cho một số sinh vật khác. Vì có phụ thuộc lẫn nhau giữa các
sinh vật, sự sống còn của bất cứ một loại sinh vật nào - kể cả loài
người chúng ta nữa - chắc chắn đưa đến sự tàn phá những dạng thức khác
của sự sống
Ngay cả nếu như không có qui định bao trùm về ăn thịt trong trong giáo lý
của Ðức Phật, giới luật Tam Tịnh Nhục mà Ngài đã đề ra vẫn có giá trị
đáng kể. Ðức Phật quan tâm đến việc đặt ra một giới luật thực tiễn có
thể hài hòa được vấn đề nan giải liên quan đến việc sống trong cõi Ta-bà
và cho phép những sinh dạng khác được hiện hữu. Sự kiện mà luật Tam Tịnh
Nhục không là một quy luật lý tưởng không phản ảnh vào Đức Phật, mà là
phản ảnh của một thực trạng của thế giới Ta-bà nầy, liên quan đến sự tác
hại đến các sinh vật khác. Giải pháp tối hậu của Đức Phật có lẽ là một
phương cách duy nhất để vấn đề này được giải quyết ổn thỏa. Giải pháp đó
là vạch ra một hướng đi để thoát ra khỏi sự hiện hữu này, có nghĩa là
vạch ra con đường đưa đến Niết-bàn.
Ghi Chú
1. Chữ "parisuddha" được dịch sát nghĩa nhất có thể là "blameless -
không chê được, không khiển trách được", đúng hơn là dịch "pure - tinh
khiết. Đó cũng là cách dịch mà bà Horner thích dùng (bà đã dịch tạng
Luật cho Pàli Text Society). Nó có nghĩa là một đặc tính nghiệp chướng
về thịt rất quan trọng, không phải là sự tinh khiết của thịt về các khía
cạnh khác.
2. Chữ "meat - thịt" được dùng để chỉ tất cả các loại thực phẩm có xuất
xứ từ loài vật. Cho dù là cá, thịt hay là gia cầm (gà, vịt, chim), từ
góc độ luân lý đạo đức không hề có sự khác biệt cơ bản nào giữa các loại
thịt đó.
3. Mối tương quan giữa ăn thịt và nghiệp đã không được Ðức Phật xác định
cụ thể. Sự phân biệt chúng ta bàn luận ở đây phải được xem xét một cách
cẩn thận. Ngay cả những việc tiêu thụ những thứ mà chúng ta qui cho là
loại thịt "nghiệp trơ" (hay "nghiệp chướng vô can", "nghiệp trung tính",
karmically neutral) có thể tạo nghiệp xấu tùy thuộc vào các sát-na tâm
đi kèm với việc sử dụng loại thịt đó. Tuy nhiên, tiêu thụ loại thịt
"nghiệp tác" (karmically effective) thì luôn luôn sẽ có nghiệp quả xấu,
còn tiêu thụ loại thịt "nghiệp trơ" thì có thể có hoặc không có nghiệp
quả xấu. Trong cả hai trường hợp, không thể có nghiệp quả tốt.
4. Giới luật về ăn chay là giới luật thứ năm trong danh sách mà
Đề-bà-đạt-đa đã đề nghị với Ðức Phật. Đề-bà-đạt-đa là một người lập nên
phong trào Tàpasa trong Phật giáo và những giới luật đặc biệt của ông ta
có liên quan đến những cách hành trì mang tính khổ hạnh khắc nghiệt
(sống trong rừng, chỉ mặc y rách, v.v...) Ðức Phật đã bác bỏ tất cả các
đề nghị của Đề-bà-đạt-đa. Và cũng chính vì liên quan đến vấn đề này mà
Ngài đã tái khẳng định lại giới luật Tikoiparisuddha (về vấn đề này, xin
đọc cuốn "Western Buddhism and a Theravada Heterodoxy" của tác giả).
5. Nhìn chung, Ðức Phật thường có khuynh hướng chấp nhận những phong tục
xã hội đang thịnh hành, chỉ trừ khi có gì mâu thuẫn với những nguyên lý
giáo pháp của Ngài. Trong trường hợp này, không cần thiết phải có những
thay đổi hiện hành. Thật thú vị khi ghi nhận rằng trong 10 con vật lại
không có con bò đực hay bò cái trong đó. Sau này bò cái lại trở thành
một trong những vật cấm kỵ lớn nhất trong Ấn độ giáo. Có lẽ ở vào thời
Ðức Phật, khía cạnh Ấn độ giáo (Hinhduism) này chưa được phát triển và
sự quan trọng của nó sau này mới được thừa nhận.
6. Về vấn đề này, xin đọc cuốn "Western Buddhism and a Theravada
Heterodoxy" của tác giả.
7. Luận chứng cho là súc vật đã chết khi chúng ta mua thịt là không có
cơ sở. Ða số những người bán thịt và các cửa hàng bán thịt đều bán hết
số lượng hàng tồn kho. Khi đã hoàn tất bán lượng hàng đó, người buôn lại
đặt thêm hàng hóa để thay thế số lượng hàng đã bán ra. Như thế, khi gà
được làm thịt đã bán hết thì nhà buôn lại viết đơn đặt hàng để nhiều con
gà khác được giết để thay vào số thịt gà đã bán.
Nguyên tác: "Buddhism and
Vegetarianism - The Rationale for the Buddha's View on the Consumption
of Meat", V.A. Gunesekara. Tỳ kheo Thiện Minh dịch.
---o0o---
[
Mục Lục
] [
01] [
02] [
03] [
04] [
05]
[
06] [
07] [
08] [
09]
[
10] [
11]
Về danh mục