Tất
cả các Phật Tử đều "ăn chay trường" có phải không?
Không phải thế. Giới luật đầu tiên chỉ khuyên chúng ta kềm chế đừng sát
sanh, nhưng ăn thịt không xem là sát sanh, và kinh Phật không cấm chúng
ta ăn thịt (Ở đây, chủ yếu là
chúng ta đề cập đến kinh điển Pali. Một số kinh Bắc Tông, nhất là Kinh
Lăng Già- Lankavatara Sutra, lại hết sức ủng hộ thực hành việc ăn chay.
Xin xem phần ghi chú ở cuối bài.)
Theo như ghi chép trong kinh tạng Pali, Ðức Phật không cấm sử dụng thịt,
kể cả các vị tăng ni nữa. Thực vậy, Ngài đã dứt khoát bác bỏ lời đề nghị
của Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa) bắt buộc chư tăng ni phải "ăn chay trường".
Nơi các xã hội thuộc hệ phái Phật Giáo Nam Tông hiện nay, một vị tỳ kheo
nào bám víu lấy việc ăn chay để gây uy tín nơi người khác là mình có
tinh thần siêu nhiên vượt trội hơn người khác thì xem như vi phạm giới
luật tu sĩ.
Mặt khác, Ðức Phật đã nghiêm cấm thẳng thừng việc sử dụng các loại thịt
của bất kỳ con vật nào đã được mắt thấy, tai nghe và không nghi ngờ gì
con vật đó được giết mổ rõ ràng là để thiết đãi các vị tăng ni ( Kinh
Jivaka, Trung Bộ 55). Giới luật này chỉ áp dụng cho các vị tăng ni mà
thôi, nhưng cũng được xem như là một hướng dẫn hợp lý cho các cư sĩ sùng
đạo.
Ðể
hiểu rõ cách tiếp cận "lý Trung đạo" này về việc ăn thịt, chúng ta cần
phải nhớ là vào thời Phật Thích Ca chưa có các "Phật tử". Lúc đó, chỉ có
các khất sĩ chia thành nhiều loại khác nhau (kể các môn đệ của Ðức
Phật), cộng với những người cư sĩ là những người bố thí cúng dường mà
không quan tâm đến nhãn hiệu của các loại giáo lý.
Nếu người chủ nhà cố ý chọn thịt là thực phẩm để bố thí, thì các vị khất
sĩ đó cũng phải nhận, không được phân biệt hay tỏ vẻ không hài lòng gì
cả. Từ bỏ của bố thí như vậy có thể xúc phạm đến lòng mến khách và có
thể làm mất đi cơ hội cho người chủ nhà được tạo phước -- và cũng không
mang lại lợi ích gì cho con vật vì nó đã chết. Ngay cả những người Kỳ-na
giáo có lẽ cũng đã có cùng một quan điểm tương tự như vậy ở cùng một
thời kỳ lịch sử, mặc dù giáo lý Vô hại (Ahimsa) rất nghiêm khắc.
Ăn
chay không phải là nguồn gốc những bất đồng nghiêm trọng trong Tăng đoàn
(Sangha), cho đến khi có xuất hiện các cộng đồng tu sĩ trú ngụ tại những
nơi cố định và họ không còn thực hiện việc đi khất thực trì bình. Tại
các cộng đồng đó, bất kỳ loại thịt nào do các Phật tử mang cúng cho Tăng
Ni, rất có thể là từ thú vật bị giết đặc biệt cho mục đích đó. Ðó là một
lý do của sự khác biệt trong quan điểm giữa hai phái Bắc Tông và Nam
Tông về việc ăn thịt - sự phát triển của các cộng đồng tu sĩ thường trú
tại một nơi cố định, chính yếu xảy ra trong Bắc Tông.
Vấn đề ăn thịt đưa đến các câu hỏi khó khăn về đạo đức. Có phải chăng thịt
bày bán ở các siêu thị và các nhà hàng được giết mổ "nhằm" phục vụ chúng
ta? Có phải chăng ăn thịt là gián tiếp giết hại?
Rất ít người trong chúng ta có đủ tư cách để phán quyết những người ăn
thịt hoặc bất kỳ người nào khác vì tội "ủy nhiệm sát sanh" (killing by
proxy). Bởi vì chúng ta đang dự phần trong nền kinh tế toàn cầu, và điều
này đưa đến "ủy nhiệm sát sinh" trong mọi tác động tiêu thụ của chúng
ta. Ðiện khí chúng ta dùng để chạy máy vi tính là bắt nguồn từ những
phương tiện đang làm hủy hoại môi trường. Những cuốn sách về kinh điển
Phật được in trên giấy do một công nghệ đang phá hủy môi trường sống của
thú rừng. Sâu bọ, côn trùng, các loài gậm nhấm và nhiều động vật khác đã
bị giết một cách đều đặn hàng loạt trong quá trình sản xuất những nguyên
liệu cho các loại thực phẩm chay. Xin chào đón vào cõi Ta-bà! Ðối với đa
số trong chúng ta, thật không thể nào thoát ra ngoài khỏi mạng lưới này.
Chúng ta chỉ có thể cố gắng có ý thức về những vướng mắc này mà thôi.
Chỉ có một cách thực hiện điều này, đó là suy gẫm về sự đau khổ và chết
chóc của các sinh vật đang phải cống hiến cho các tiện nghi của chúng
ta. Ðiều đó có thể giúp chúng ta bớt thiên về sự tiêu thụ lãng phí đơn
thuần do lòng tham lam thúc đẩy.
Ngoài tất cả những gì đã được nói ở trên, một điều không thể chối cãi được
là cỗ máy kinh tế sản xuất ra thịt cũng đã gây ra biết bao nhiêu sợ hãi
và đau khổ cho một số lớn các súc vật. Thật ích lợi biết bao nếu ta ghi
nhớ điều đó ngay cả khi chúng ta sử dụng thịt, để chống lại sự phát
triển của tánh lãnh đạm, chai lì trong tâm chúng ta. Nhiều Phật Tử (đặc
biệt những người theo phái Bắc tông) hành trì "ăn chay trường" như là
một phương thế để vun bồi lòng bi mẫn. Kinh Jivaka có gợi ý chúng ta có
thể thực hành "ăn chay" bắt đầu bằng một trong bốn tâm vô lượng (từ, bi,
hỷ, xã). Một điều đáng chú ý là lòng từ ái, không phải lòng bi mẫn, đã
được đề cập đến trước tiên trong kinh Jivaka đó.
Nếu bạn đang quan tâm thực tập "ăn chay" lần đầu tiên, chúng tôi đề nghị
bạn hãy bàn thảo với một vài người đã có kinh nghiệm trong lãnh vực này.
Có nhiều vấn đề cần phải được xem xét, liên quan đến sự cân bằng trong
dinh dưỡng, v.v...
Ghi chú:
Kinh Lăng Già- Lankavatara Sutra, mặc dù đã ghi lại những lời dạy của
Ðức Phật tại đảo Lanka (Sri Lanka), chủ yếu là một tác phẩm thuộc giai
đoạn phát triển trường phái Bắc Tông sau này. Theo giáo sư H. Nakamura
("Indian Buddhism", 1987), có nhiều phiên bản của bộ kinh này, và nội
dung các phiên bản có phần khác nhau. Ða số các học giả đều kết luận
rằng có lẽ kinh này được biên soạn vào những năm 350-400 Tây lịch. Thêm
vào đó, theo nhà thiền sư nổi tiếng của Thiền tông Nhật bản, ông D.T.
Suzuki (trong cuốn "The Lankavatara Sutra - A Mahayana Text", 1931),
chương đề cập đến "Ăn Thịt" trong bản kinh có lẽ mới được thêm vào về
sau này trong các phiên bản kế tiếp. Ông cũng đồng ý rằng bộ kinh này
không phải là những lời do chính Ðức Phật nói ra, nhưng được biên soạn
về sau bởi các tác giả vô danh, dựa theo triết lý Bắc Tông.
Nguyên tác: "Are all
Buddhists vegetarians?", John Kahila, Tỳ kheo Thiện Minh dịch.
---o0o---
[
Mục Lục
] [
01] [
02] [
03] [
04] [
05]
[
06] [
07]
[
08] [
09] [
10] [
11]
Về danh mục