---o0o---
Vấn đề ẩm thực trong đạo Phật
Tỳ kheo Thiện Minh
dịch Việt
Nguyên tác:
Jan Sanjivaputta, "Are you herbivore or carnivore?", England, 1992
Lời giới thiệu
^
Mạnh Tử nói "Kiếm ký sanh bất nhẩn thực kỳ nhục", nên "Quân tử bất nhập
trú phòng". Tuy có quan niệm như vậy, nhưng các nhà Nho đâu có ăn chay,
có lẽ gần giống quan điểm "Tam Tịnh Nhục" của Phật giáo?
Thành thật mà nói: tục lệ ăn chay do các tu sĩ Phật giáo về sau xu hướng
theo Bà La Môn (Ấn Ðộ giáo) ở Ấn Ðộ và Ðạo Tiên ở Trung Quốc để dễ thu
hút tín đồ của họ, như ngài Huệ Năng nói:
"Muốn toan lo độ thế
Phương tiện phải sẵn sàng
Chớ để người nghi hoặc
Tánh họ mới minh quang"
Giòng Thiền Tào Khê Trung Quốc và giòng Thiền Trúc Lâm Việt Nam, các vị tổ
cũng không quá cố chấp tập quán ăn chay. Một số nước Phật giáo Ðại Thừa
như Mông Cổ, Triều Tiên, Nhật Bổn v.v...họ cũng không bảo thủ tục ăn
chay, với họ thì "quân tử ưu đạo bất ưu thực" cũng như người Việt Nam
thường nói "ăn để sống chớ không phải sống để ăn"; hay là "tham lam sân
hận không chừa, bo bo mà giữ tương dưa ít gì!"; hoặc "uổng ngật mê chay
nan liễu đạo, khống đồ xướng niệm đạo nan thành!"
Riêng tôi thì "không chê đồ chay, nhưng không chấp nhận thành kiến ăn
chay", có lẽ ảnh hưởng tinh thần Bát nhã "cá thịt nhưng không phải là cá
thịt" (nếu lúc ăn có chánh niệm tỉnh giác, thấy các vật thực vốn là
nguyên chất đất, nước, lửa, gió...), "tuy không phải cá thịt nhưng là cá
thịt" (bởi khi ăn các món chay mà hình thức lẫn tên gọi đều là đồ mặn
như thịt quay, cá kho v.v...đồ chay mà tâm mặn). Vì vậy mới bị người ta
phê bình là "ăn mặn nói ngay, ăn chay nói dối"
Soạn giả cũng như dịch giả tập sách này chắc chắn không có ý chỉ trích,
xuyên tạc người ăn chay, chỉ muốn biện minh vấn đề ăn chay không phải là
một trong tám muôn bốn ngàn Pháp môn của đức Phật Gotama mà chỉ là "giáo
ngoại biệt truyền" thôi!
Với tinh thần phá chấp, tôi xin trân trọng giới thiệu tập sách "Vấn đề ẩm
thực trong Phật giáo" do Tỳ Kheo Thích Thiện Minh dịch, đến chư Phật tử
đọc và suy gẩm.
Biên Hòa ngày 20-6-99
Thượng Tọa Giác Chánh
Trưởng Ban Văn Hóa Phật Giáo, Tỉnh Hội Ðồng Nai
1. Bối cảnh ăn chay - Quan niệm và cách cư xử của Ðức Phật
^
Thuật ngữ tiếng Anh "Vegetarianism", nghĩa là chủ nghĩa ăn chay đã ra đời
lần đầu tiên vào năm 1847 [1]. Nhưng trong thực tế ý niệm về ăn chay đã
có từ ngàn xưa. Từ bỏ việc ăn cá thịt được người ta tìm thấy trong học
thuyết của triết gia Hy Lạp Pythagoras, về sau Plato, Epicurus, Plutarch
và những nhà triết học khác tiếp tục kế thừa. Trong Jambudvipa (Ấn Ðộ
trong thời kỳ Ðức Phật tổ Gotama), những tín đồ của Kỳ Na giáo được sự
hướng dẫn bởi Mahavira, được hiểu như là những nhà đạo sĩ tuyệt đối thực
hành phương pháp ăn chay [2]. Trong số những người đệ tử của Ðức Phật,
Devadatta là người chính thức đề cao việc ăn chay. Cùng với bốn người
bạn đồng tu khác, Devadatta cố gắng đề xuất năm giáo điều khổ hạnh cho
các tu sĩ của Tăng đoàn, một trong năm giáo điều đó là tu sĩ tuyệt đối
không được ăn cá thịt. Trong việc đề xuất này, Ðức Phật tổ Gotama dạy
rằng những Tỳ khưu nào cảm thấy an lạc trong việc ăn chay thì cứ ăn. Tuy
nhiên ngài từ chối để phê chuẩn hay áp dụng giới luật này cho các Tỳ
khưu một cách cưỡng ép.
Từ
những lời khẳng định được Ðức Phật tổ Gotama dạy, rõ ràng là ăn chay
thực sự không phải là một phần chính yếu của pháp luật. Ăn chay là việc
không quan trọng và không cần thiết lắm. Ăn chay không làm cho con người
thanh tịnh, trong sạch và đạt đến giác ngộ Níp-bàn được. Nói một cách
khác, dù có ăn chay hay không, người ta vẫn có cơ hội và có khả năng
thành đạt sự thanh tịnh và giác ngộ thực sự.
Ðức Phật tổ Gotama đã nhiều lần gặp phải những vấn đề về ăn chay. Nigandha
Nathaputta - cũng được gọi là Mahavira - vị lãnh đạo Kỳ Na giáo đã
thường xuyên nhạo báng ngài. Các đệ tử của Mahavira thảo luận vấn đề này
trong hang động: "Này các bạn - Ðạo sĩ Nathaputta nói - Sa môn Gotama ăn
thịt đã được chuẩn bị riêng cho ông ta, với đôi mắt mở". Nghe như vậy,
Ðức Phật dạy: "Ðây không phải là lần đầu, môn đệ Nathaputta đã nhạo báng
Như Lai ăn thịt mà việc ăn thịt này do chính Như Lai làm; trong quá khứ
ông ta đã nhạo báng Như Lai nhiều lần rồi".
Sau đó ngài kể cho chư vị nghe một câu chuyện tiền kiếp (Telovada jataka).
Vào thời khi vua Brahma-datta ở Benares, đức Bồ Tát sinh ra trong một
gia đình Bà la môn khi trưởng thành ngài chọn đời sống xuất gia. Từ
Himalaya ngài bay xuống trần tìm muối và đồ gia vị, sau đó đi khất thực
trong thành phố. Một người giàu có chuẩn bị kế hoạch để phá hại Bồ Tát,
cho nên người ấy thỉnh ngài về nhà và phục vụ ngài bữa ăn có cá. Sau bữa
ăn người đó ngồi xuống một bên và nói: "Thực phẩm này làm được là tôi cố
ý cho ngài ăn, bằng cách là giết thú sống. Tội lỗi này không phải của
tôi mà là của ngài!" Và người đàn ông ấy nói lên câu thứ nhất: "Người ác
sát sinh, nấu nướng và cho ăn, ngài ăn bữa cơm đó cho nên ngài có tội".
Nghe sự việc này, đức Bồ-Tát đọc câu thứ hai: "Người ác có thể giết vợ
và con đem cho người khác; tuy nhiên, nếu người thánh thiện ăn thì không
có tội" [3]. Vì vậy có thể nói rằng ai sát sinh thì có tội, nhưng người
ăn thì không. Chư Tỳ khưu được phép độ bất cứ loại thực phẩm nào theo
tập tục quốc độ của mình, miễn là không ăn vì tham đắm hay ác ý.
Một vị Phật tổ không có quyền ngăn cản bất kỳ ai đó sát sinh. Một người có
thể làm bất cứ điều gì mình mong muốn, nhưng người ấy sẽ chịu trọng
trách và gánh chịu nghiệp quả của mình. Rất nhiều lần, Ðức Phật tổ
Gotama dạy rằng sát sinh là hành động bất thiện (akusala - kamma) sẽ gây
nhân đau khổ. Cũng như nghề bán thịt cá (mamsa - vanijja) [4] là một
trong năm nghề cấm đối với người Phật tử tại gia. Do đó người Phật tử
tại gia đã có tâm hỉ xả rồi (upekkha), họ luôn có tâm từ bi đối với sinh
linh. Bất kỳ hành động nào họ làm - thiện hay ác - họ sẽ là người thừa
hưởng.
Quan niệm và cách cư xử của Ðức Phật tổ Gotama đối với vấn đề ăn chay biểu
lộ được trí tuệ của một bậc vĩ nhân. Sau khi xét đoán Sa môn Gotama một
cách khách quan, y sĩ Jìvakakomarabhacca không do dự trở thành một đệ tử
của Ðức Phật. Có một lần Jìvaka viếng thăm bậc đạo sư. Sau khi đảnh lễ
và ngồi một nơi thích hợp ông nói:
--
Bạch Ðức Thế Tôn, đây là những điều con đã nghe như vầy: "Người ta sát
sinh cố ý cho sa môn Gotama và sa môn Gotama dùng thịt này một cách cố
tình". Thưa ngài, những người đó nói như thế có đúng chân lý không?
Sa
môn Gotama trả lời:
--
Họ nói không đúng chân lý, bởi vì Như Lai đã dạy có ba trường hợp không
được ăn thịt cá. Này Jìvaka, đó là thấy, nghe và nghi (người cố ý sát
sinh cho mình ăn). Nhưng này Jìvaka, ngoài ba trường hợp trên, Như Lai
nói có thể dùng được.
Hơn nữa, bất cứ ở nơi nào các tu sĩ trong pháp và luật này luôn luôn tu
tập hạnh từ, bi, hỷ, xả cho tất cả chúng sinh xa gần và không có oan
trái lẫn nhau. Nếu thí chủ mời chư vị dùng bữa, chư vị nhận một cách
chánh niệm bất cứ món gì. Chư vị không bao giờ nghĩ đồ ăn của thí chủ
này ngon hay không ngon. Chư vị không bao giờ mong đợi sẽ được thí chủ
cúng dường đồ ăn ngon. Chư vị thọ lãnh món ăn cúng dường nhưng không có
tham đắm mà quán tưởng thực phẩm cúng dường và chuyên cần tu tập giải
thoát.
Rồi Sa môn Gotama hỏi:
--Này Jìvaka ông nghĩ sao? Lúc đó chư vị thọ lãnh thực phẩm không phạm
luật chứ?
Jìvaka đáp:
--Ðúng như vậy, thưa ngài. Tôi được nghe như thế này: "Vững chãi trong
tình thân hữu là cao thượng. Ngài là điểm tựa bởi vì ngài vững chãi
trong tình thân hữu".
Ðức Phật cũng giải thích rằng ai cố tình sát sinh cho Như Lai hoặc đệ tử
của Như Lai là có tội trong năm cách. Người ấy có tội khi nói: "Hãy đi
bắt sinh vật này hay sinh vật nọ"; người ấy có tội khi con vật bị đau và
bị bắt. Người ấy có tội khi nói: "Ði giết con vật đó"; người ấy có tội
khi con vật này bị giết đau đớn và khổ sở; và có tội khi người này mang
đến cúng dường cho Như Lai và đệ tử của Như Lai.
Dựa vào lời dạy của Ðức Phật, có thể kết luận rằng, bất kỳ thú vật nào bị
giết (do mình hay người khác) rồi đem dâng cúng (udissa - mamsa) làm
thực phẩm thì điều đó là không được phép đối với một tu sĩ, nhưng trái
lại thịt hay cá do tín đồ mua ở chợ, bán ở nơi công cộng cho mọi người
tiêu thụ (pavatta - mamsa) thì thực phẩm đó được Ðức Phật cho phép và tu
sĩ có thể dùng được.
2. Quan niệm Phật giáo Nam tông về thú vật và chủ nghĩa ăn chay
^
Phật giáo Nam tông thừa nhận thú vật là chúng sinh có tri giác. Thú vật
không những chỉ có thân thể (rùpa) và bản năng, mà còn có chức năng của
tâm như cảm thọ (vedana), tưởng (sanna), hành (sankhàra) và thức
(vinnàna) [5]. Ðể chứng minh một cách có khoa học rằng bản năng của thú
vật chỉ do trực giác thúc đẩy là một điều rất khó; những bản năng như
nhận dạng được đồng loại, chăm sóc con cái, chọn nơi trú ẩn an toàn, nhớ
con đường trở về tổ, biết sự chết, biết vui khi được chủ yêu thương và
biết trung thành với chủ. Trong thực tế người ta sẽ nói, ai cho rằng thú
vật chỉ có bản năng thì người đó chỉ dùng bản năng hơn là dùng tri giác
của một con người. Thú vật không chỉ sống một kiếp mà sống nhiều kiếp,
sau kiếp sống hiện tiền, còn đi tái sinh kiếp khác.
Thú vật không phải là những sinh vật thấp hèn hay bị đọa đày để loài người
đối đãi độc ác. Tàn sát thú vật để cúng tế các vị thần linh khao khát
máu hoang tưởng của các tôn giáo sơ khai là một việc làm phạm tội sát
sinh. Xa hơn nữa Phật giáo truyền thống không bao giờ cho phép giết thú
vật làm thực phẩm tiêu thụ hay phục vụ cho bất kỳ mục đích nào khác.
Cũng cần thiết để hiểu rằng thú vật không được tạo ra cho loài người. Tiến
sĩ K.Sri Dhammananda, một nhà lãnh đạo Phật giáo Nguyên thủy Tích Lan,
một vị giảng sư (dhammaduta) ở Malaysia nhiều năm qua đã tuyên bố: "Nếu
chúng ta tin tưởng rằng thú vật được tạo ra cho con người thì cũng có lý
do cho rằng con người tạo ra cho loài thú bởi vì có loài thú ăn thịt
người." [6].
Tuy nhiên Phật giáo truyền thống không đồng tình với quan điểm là giết thú
vật có thể được ngăn chặn bằng phương cách phát động một cuộc phản đối
mang hình thức là ăn chay. Phương pháp hữu hiệu để làm giảm thiểu việc
sát sinh là phổ biến cho mọi người hiểu biết về lời dạy của Ðức Phật.
Chỉ có cách này họ mới thật sự hiểu biết giá trị của sự sống rất quan
trọng cho loài người và thú vật. Ðiều này có nghĩa là tất cả chúng sinh
đều có quyền sống. Loài thú cũng thích yên vui và không muốn khổ đau.
Mạng sống của loài thú không thể nào bị hủy hoại bằng bất cứ lý do gì -
như vậy đáp ứng lòng mong mỏi của loài người. Nhờ hiểu biết đúng đắn như
vậy, người ta sẽ không giết thú vật cho việc tiêu thụ cá nhân hay bán
ngoài chợ.
Như vậy mạng sống của loài thú được cứu nguy chứ không phải bằng cách cấm
ăn thịt hay xem thịt là dơ bẩn, mà bằng phương cách đề cập đến giá trị
của sự sống, đấu tranh cho quyền sống cơ bản của loài thú. Thật vậy
phương pháp thực hiện của Phật giáo truyền thống trong việc đối phó tình
trạng giết thú vật được xem là giải pháp trực tiếp tối ưu. Ðiều này hoàn
toàn khác hẳn, từ giải pháp được đặt ra và áp dụng bởi những người ăn
chay, có thể được xem như là một phương pháp không có hiệu quả, một
người bảo vệ mạng sống loài thú bằng hình thức.
3. Quan niệm Phật giáo Bắc tông về việc ăn chay
^
Nhiều người cho rằng ăn chay là một phần không thể tách rời của tư tưởng
Phật giáo Ðại thừa. Một điều giới luật về việc thực hành ăn chay được
ghi rõ trong kinh Bồ-Tát giới: "Một Tỳ khưu ăn thịt từ con thú sống là
một điều tội lỗi" [7].
Ðặc biệt trong kinh Níp-bàn (của Ðại thừa), được tìm thấy một lời dạy mạnh
mẽ: "Ăn cá, thịt là phá vỡ hạt giống từ bi".
Trong kinh Phạm võng (Brahmajàla sutra) của tạng Sanskrit cũng dạy tương
đương: "Một môn đệ của Ðức Phật không nên cố ý ăn cá, thịt của bất cứ
loại chúng sinh nào vì nếu hành động như vậy, vị đó đánh mất lòng từ bi,
giới hạnh và hạt giống giác ngộ. Ðiều đó cũng là nguyên nhân làm cho các
sinh vật gặp người đó sẽ xa lánh. Do đó chư Bồ-Tát xa lánh việc ăn cá,
thịt của bất kỳ sinh vật nào. Việc ăn cá, thịt là cội nguồn của tội lỗi
vô biên".
Bộ
kinh Lăng-nghiêm (Surangama sutra) phê bình nghiêm túc về việc ăn cá,
thịt: "Sau khi Như Lai nhập Níp-bàn, thời mạt pháp, ma quỷ sẽ lộng hành
khắp thế giới, và sẽ khoe khoang là chúng ăn thịt để đạt giác ngộ. Này
Ananda! Như Lai cho phép chư Tỳ khưu ăn năm loại thịt thanh tịnh, là sản
phẩm của năng lực phi phàm của Như Lai chứ không phải là thú bị giết
chết. Này Bà la môn, sống nơi cây trái không mọc được vì quá ẩm và oi
bức và vì toàn sỏi đá, Như Lai sẽ dùng năng lực phi phàm của tình thương
để trợ cấp cho các ngươi ăn thịt ảo tưởng để cho các ngươi qua cơn đói
khát. Vậy thì, sau khi Như Lai Níp-bàn, các người ăn cá, thịt chúng sinh
mà còn dám tự nhận là đệ tử của Như Lai sao? Các người phải biết rằng
những ai ăn cá, thịt, dù tâm trí họ mở mang và thực chứng được định tâm
thì cũng chỉ là ma quỉ to lớn mà sau kiếp này sẽ bị sinh tử luân hồi và
không thể nào là môn đệ của Như Lai. Họ sẽ ăn thịt và giết nhau liên
tục; làm sao họ có thể thoát khỏi vòng tam giới này được" [8].
Hơn nữa, trong kinh Lăng-già (Lankavatara sutra) có một chương đặc biệt
thảo luận về vấn đề ăn cá, thịt. Ðây là cuộc đàm thoại với vị Bồ-Tát tên
là Mahamati. Một phần của cuộc đàm thoại được ghi lại như sau: "Này
Mahamati, không đúng khi cho rằng thịt là thực phẩm thích hợp và được
phép cho các Tỳ khưu khi thú không bị giết hại do chính người ấy, khi
người ấy không ra lệnh giết, khi thực phẩm đó không dành riêng cho người
ấy. Thêm nữa, này Mahamati, có thể có người u mê trong đời sau, bắt đầu
công việc xuất gia theo giáo lý của Như Lai, được xem như là đệ tử của
ta, mặc áo cà sa như là một biểu hiện, tuy nhiên người đó trong tư duy
bị ô nhiễm bởi những lý thuyết sai sót. Họ có thể nói về những điều khác
biệt nhau mà họ lấy trong giới luật của họ, do bị si mê bởi quan niệm về
linh hồn cá thể, do ảnh hưởng thèm khát hương vị thịt, họ đúc kết lại
những phương pháp luận khác nhau để biện minh cho việc ăn cá, thịt. Vả
lại, chính họ bịa ra một giới luật mười điều học về thịt thú vật được
tìm thấy đã chết rồi. Tuy nhiên, trong quyển kinh này với bất cứ hình
thức ăn cá, thịt nào, mọi lúc, mọi nơi đều bị nghiêm cấm vô điều kiện và
tuyệt đối không cho tất cả... Không có loại thịt nào được xem là thanh
tịnh ở ba cách: không cố ý, không đòi hỏi, và không xúi giục, cho nên
ngăn cấm ăn cá thịt. Tuyệt đối không ăn cá, thịt, dù ai có nói vấn đề
tam tịnh nhục: thấy, nghe và nghi; những nhà lý luận sinh ra trong gia
đình ăn cá thịt thì không hiểu điều này." [9]
Chống đối việc ăn cá, thịt và khuyên ăn chay được tìm thấy trong những bản
kinh bằng tiếng Sanskrit khác, đó là quyển Hastokakshya, Mahamegha,
Nirvana và Anglimalika. Tuy nhiên những bản kinh này không có phần nào
tương đương trong Tam tạng Giáo điển được chấp thuận của Phật giáo
Truyền thống (Theravàda).
Nơi đây, vấn đề được nghiên cứu là nguồn kinh điển nào đáng tin tưởng hơn?
Nguồn kinh điển đó có được xem là nguyên thủy hay không? Phật giáo
Nguyên thủy có loại bỏ một số đoạn kinh sách nào không? Hay đó là những
điều Phật giáo Ðại thừa thêm vào? Kinh và giới luật đó có thật sự được
Ðức Phật dạy và thiết lập hay không? Phật giáo Ðại thừa và Phật giáo
Nguyên thủy vẫn cho là quan niệm của các kinh văn của tông phái mình là
nguyên thủy. Cần tìm hiểu vấn đề này thật sâu sắc hơn mà không thiên vị
Therevàda hay Mahayàna. Phương pháp tìm hiểu chính xác nhất là nghiên
cứu giá trị kinh và luật bằng chứng tích lịch sử.
Trong kinh Bồ-Tát giới (Bodhisattva sutra) do ngài Kumarajiva
(Cưu-ma-la-thập) dịch, có năm mươi tám điều luật, được phân chia làm hai
loại. Mười điều tội nặng (garukapatti), trong đó bốn điều giới luật đầu
tiên thì tương đương với bốn điều giới bất cộng trụ (parajika) trong
luật tạng Pàli. Tội nhẹ (lahukapatti) có bốn mươi tám điều, trong đó
điều giới luật thứ ba đề cập đến ăn chay. Ðiều được phân tích thêm là
giới luật thứ tám của phần tội nhẹ có viết: "Một Tỳ khưu mà nói xấu hay
lên án Phật pháp Ðại thừa (Mahayàna) thì vi phạm một tội nhẹ" [10].
Sự
xuất hiện danh từ "Ðại thừa" trong điều luật có vẻ hơi kỳ dị rõ rệt.
"Trong việc nghiên cứu lịch sử về danh từ Ðại thừa và Tiểu thừa
(Mahayàna and Hìnayàna) và Phật giáo gốc của Ðại thừa", giảng viên
Ryukan Kimura ở trường đại học Calcutta, khoa lịch sử và văn hóa cổ Ấn
Ðộ, kết luận rằng danh từ Ðại thừa không được biết đến trong cộng đồng
của Phật giáo thời Ðức Phật tổ Gotama còn sinh tiền. Theo Pàli tạng
Nikàya [11] và Hán tạng Agama [12] là những tạng đáng tin tưởng nhất về
tính chất nguyên thủy, không tìm thấy được danh từ Ðại thừa.
Danh từ Ðại thừa xuất hiện lần đầu sau đại hội kết tập kinh điển lần thứ
hai, khoảng một trăm năm sau khi Thế Tôn Níp bàn, là hậu quả của sự chia
rẽ trong Tăng già. Những người thuộc phái Ðại chúng bộ tức giận và bị
gọi là "Tỳ khưu xấu" và "đệ tử tà giáo" bởi những người theo phái Trưởng
lão bộ, trung thành với giáo lý của Ðức Phật Gotama. Chư vị tìm một danh
từ mới cho phái của mình để duy trì và xiển dương ý kiến, quan niệm và
chân lý của họ, cũng như châm biếm các bộ phái khác. Một số danh từ như
Bồ Tát thừa (Bodhisattvayana), Phật thừa (Buddhayana), A la hán thừa
(Arahatyàna), Thinh văn thừa (Sravakayàna), Thiên thừa (Dviyàna) đã được
họ áp dụng trong một thời gian tương đối ngắn. Nhưng dường như họ không
thỏa mãn với những danh từ này bởi vì tất cả đều là chi tiết, duy nhất
có thể chỉ ra những sự khác nhau trong những khía cạnh nào đó. Họ cần
một danh từ mà sẽ tích hợp, đại diện và bao trùm những ý kiến, quan niệm
và giáo điều khác như một đoàn thể. Cuối cùng họ mới chọn danh từ Ðại
thừa (Mahayàna), cổ xe lớn, dành cho phái của họ và danh từ Tiểu thừa
(Hìnayàna), cổ xe nhỏ, dành cho những tông phái khác.
Từ
thời điểm đó cho đến thời luận sư Long Thọ (Nagarjuna), thế kỷ thứ hai
sau công nguyên, danh từ Ðại thừa và Tiểu thừa chỉ được sử dụng để ám
chỉ những sự khác nhau về giáo lý cơ bản - như được dùng trong kinh Diệu
pháp liên hoa (Saddharmapundarika sutra). Thời điểm Long Thọ trở về sau,
danh từ này chịu một sự thay đổi có ý nghĩa, nó không những đề cập đến
sự khác nhau về giáo lý căn bản, mà còn nói đến sự khác nhau về trường
phái - như được viết trong kinh Bát nhã ba la mật đa (Prajnaparamitta
sutra). Không những phái Trưởng lão bộ (Theravàda) và Nhất thiết hữu bộ
(Sarvastivada) được xếp loại là Tiểu thừa mà còn phái Ðại chúng bộ
(Mahàsanghika), tiền thân của phái Ðại thừa, cũng bị cho là Tiểu thừa
nữa.
Từ
những sự phân tích trên, rõ ràng rằng danh từ Ðại thừa thật sự không
được biết đến trong cộng đồng Phật giáo cho đến sau này. Trở lại bài
viết này với câu hỏi: Vì sao danh từ Ðại thừa mới có, lại xuất hiện
trong một điều luật của kinh Bồ Tát giới? Chắc chắn là người ta không
thể trả lời, nhưng người ta kết luận rằng, danh từ này mới thêm vào.
Ðiểm kế tiếp để xem xét là: khi nào họ không cảm thấy "có tội" gì về việc
gán danh từ Ðại thừa và dọa nạt những ai hạ thấp và chống đối lại giáo
lý của họ, họ có cảm thấy "có tội" về việc gài một giới luật mới là việc
ăn chay vào trong kinh Bồ Tát giới và lạm dụng danh nghĩa của Ðức Phật
như một người cấm chế điều luật đó? Về danh xưng Bồ Tát giới trong quyển
sách này thì không phù hợp cho lắm. Tất cả các giới được đặt ra ở đó, là
những giáo điều dành cho các thầy Tỳ khưu. Trong trường hợp này, người
biên soạn quyển Bồ Tát giới có thể được xem là dẹp qua một bên sự kiện
là chư Bồ Tát không luôn luôn sinh ra làm người, nhưng có thể sinh ra
làm các loài khác như súc sinh. Nếu như giới luật trong kinh Bồ Tát giới
được áp dụng cho chư vị Bồ Tát sinh ra trong bất kỳ thế giới nào, thì sự
thực hành sẽ chắc chắn dị thường và buồn cười lắm. Mà nếu cho Bồ Tát
giới là giáo điều áp dụng đặc biệt cho một vị Bồ Tát chào đời như là một
Tỳ khưu, thì việc sử dụng thuật ngữ "Bồ Tát" của quyển kinh này có thể
được xem là không chuẩn lắm.
Chư vị Tỳ khưu thời của Ðức Phật và cả chính Ngài nữa, có dùng cá thịt hay
không, điều đó rất dễ để chứng minh bằng sự kiện lịch sử. Trong quyển
luật tạng Pratimoksa sutra bằng tiếng Sanskrit của phái Ðại chúng bộ
(Mahàsanghika), tiền thân của phái Ðại thừa (Mahàyàna), tư tưởng Phật
giáo, trong giới luật thứ ba mươi chín của Paccattika [13] có một điều
luật sau: "Tỳ khưu nào không bệnh mà hỏi xin hay thọ lãnh thực phẩm,
được cho là ngon, để mình ăn, thì phạm tội ác". Những thứ thực phẩm được
xem ngon (pranitasammatanibho janani) như là sữa, bơ, dầu, mật ong, mật
mía, cá và thịt [14]. Một cách chính xác, điều luật này hàm ý là một Tỳ
khưu bị bệnh có thể hỏi xin cá hay thịt, còn một Tỳ khưu không bệnh cũng
có thể dùng cá và thịt, miễn là Tỳ khưu đó không tự mình hỏi xin. Như
vậy, tin chắc rằng thịt và cá là thực phẩm được phép dùng và phổ thông
cho các Tỳ khưu trong thời của Ðức Phật [15 ].
Một nhà nghiên cứu Phật giáo nổi tiếng người Nhật, Daisetz Teitaro Suzuki,
đã nói đến trong lời giới thiệu bản dịch của kinh Lăng-già (Lankavatara
sutra) và cũng nói đến trong quyển sách chú giải của ông ta "Nghiên cứu
kinh Lăng già" rằng chương thứ tám của quyển kinh, "Về việc ăn cá thịt",
là được cho thêm vào sau này, giống như chương đầu, kể lại cuộc đàm
thoại với Ravana - một nhà vua trong thần thoại Ấn Ðộ giáo. Chắc chắn
chương thứ tám này đã được thêm vào trong quyển kinh. Chương này cũng đã
được sửa đổi nhiều lần. Việc ăn cá thịt chắc chắn đã được thừa nhận
trong tín đồ Phật tử thời kinh Lăng-già đã được biên soạn. Rõ ràng Ðức
Phật không cấm họ ăn cá thịt, nếu như con vật đó không do chính họ giết.
Ðiều này gây ra những lời phê bình không hay của các tôn giáo khác. Do
đó giới Phật giáo bị bất mãn với lời phê bình này, điều đó dẫn đến một
sự nỗ lực mới là cấm ăn cá thịt trong phái Ðại thừa. Hơn nữa, kinh
Lăng-già, là tập hợp những điều được nối lại với nhau một cách không có
phương pháp, và không phải là lời thuyết giảng trực tiếp của Ðức Phật,
mà được biên soạn ra sau khi Ðức Thế Tôn viên tịch.
Dựa trên những kết quả nghiên cứu của ngài D.T. Suzuki - như đã kết luận ở
trên, tạp chí Pancaran Dhamma Matrodevi, Indonesia, viết: "Nếu quyển
kinh nào thuộc Tam tạng Kinh điển, thì quyển đó đúng là lời thuyết giảng
của Ðức Phật, như quyển kinh Lăng-già". Ðây là câu nói thiếu tế nhị,
không dựa trên sự kiện lịch sử, mà chỉ là đức tin mù quáng và là sự nỗ
lực ngây ngô để thống nhất Phật giáo. Trong quyển Dipavamsa nói thẳng
rằng các tu sĩ lạc hướng của phái Vajjiputtaka, những người thành lập
giáo phái Ðại thừa, họ không hiểu đúng ý nghĩa của giáo pháp thuần túy
của Ðức Phật, đã tự ý lượt bớt một phần khá quan trọng trong kinh và
luật và biên soạn kinh và luật mới (giả). Ðiều đó cho thấy rằng Phật tử
Indonesia ngày nay không tuân hành theo lời dạy của Tỳ khưu Narada:
"Ðừng có tin tưởng rằng một quyển kinh bắt đầu bằng một câu giả tạo 'Như
vầy tôi nghe, một thời Ðức Phật ngụ ở thành Xá Vệ (Sravasti)...'. Ðây là
những lời thuyết giảng của Ngài. Ðối với một số tôn giáo, viết một cụm
từ như vậy cũng dễ như viết tiểu thuyết, và gài những quyển kinh mới vào
trong Tam tạng dễ như đặt một quyển sách mới vào trong kệ sách thư viện
vậy".
4. Ăn chay và sự
thanh tịnh
^
Thực hành việc ăn chay thường được cho là một yếu tố để có được sự thanh
tịnh. Người xa lánh việc ăn cá, thịt được xem như là người thánh thiện.
Sự thanh tịnh có thể đạt được dễ dàng không? Chắc chắn là không! Sự
thanh tịnh tùy thuộc vào tâm của con người, chứ không tùy thuộc điều gì
bên ngoài. Sự thanh tịnh của một người có thể được đánh giá bằng "sự hạn
chế và đoạn trừ lòng ham muốn thực phẩm", chứ không quan niệm từ thực
phẩm mà người đó ăn.
Trong kinh Amagandha sutta thuộc Tiểu bộ kinh (Khuddaka Nikaya) có ghi
rằng: "Không phải là không ăn cá thịt, hoặc các hình thức bề ngoài, hay
nghi lễ, mà làm thanh tịnh một người, không thành kính tin tưởng nơi
giáo lý". Ðiều này căn cứ trên lời dạy của Ðức Phật Kassapa cho Tỳ khưu
Tissa. Nếu chỉ vì ăn thực vật, rau trái mà được xem là thanh tịnh, thì
dê, ngựa, bò cũng thanh tịnh từ lúc mới chào đời!
Một lời nói có ý nghĩa tương đương được Ðức Phật tổ Gotama nói cho dân
chúng thành Jambudvipa vì họ tin tưởng rằng tắm ở những con sông (như
sông Hằng) sẽ làm cho con người rửa sạch lòng tham muốn, tội lỗi và đau
khổ. Ngài dạy: "Nếu nước dòng sông có thể rửa sạch lòng ham muốn, tội
lỗi và khổ đau, thì tin chắc rằng tất cả loài rùa, cá, tôm, cua sống
trong dòng sông được coi là linh thiêng, đã được đoạn trừ tham muốn, tội
lỗi và đau khổ từ lâu lắm rồi".
5. Thịt cá nấu chín có còn sự sống không?
^
Hiện tại, nếu có người nào hỏi điều khác nhau cơ bản giữa tu sĩ Nguyên
thủy và tu sĩ Ðại thừa là ở chỗ nào, người ta sẽ trả lời ngay: là tu sĩ
Ðại Thừa không ăn cá thịt, còn các tu sĩ Nguyên Thủy tự do ăn bất cứ món
gì mà các vị muốn. Câu trả lời này chắc chắn là sai lầm và không có căn
cứ. Nói như vậy chẳng khác nào tu sĩ Nguyên thủy là người sát sinh thú
vật.
Trong kinh Quán tưởng thực phẩm (Catuppaccaya paccavekkhana patha) [16]
dạy năm điều luật mà bậc xuất gia cần phải biết đến về thực phẩm cúng
dường. Trước khi thọ lãnh, bậc xuất gia phải biết thực phẩm cúng dường
chỉ là vật chất (dhatuso), ghê tởm (patikkulato), giả tạo (nissato),
không có sự sống (nijjivo), và là hư vô (sunno). Trong khi ăn và sau khi
ăn bậc xuất gia phải quán năm điều này.
Ðối với tu sĩ Nguyên thủy, không có sự khác nhau giữa cá thịt và rau trái.
Hai loại thực phẩm này có cùng chức năng, là để nuôi mạng sống, góp phần
làm cho đời sống thanh cao, duy trì sức khỏe tốt, làm hết cơn đói, dừng
cơn đau đớn, và làm cho đời sống nhẹ nhàng hơn. Thực phẩm không nên dùng
để vui thích, mê hoặc, làm cho thân mập mạp và đẹp đẽ.
Cá
thịt nấu chín là loại thực phẩm được Ðức Phật tổ Gotama cho phép các tu
sĩ thọ dụng. Lý do là cá thịt nấu chín không còn sinh vật sống nữa. Ngay
khi thú vật chết, tâm thức này sự sống tâm linh không sinh khởi và hiện
hữu trong nó. Chỉ có người nào cố chấp vào bản ngã vĩnh hằng mới có thể
phân biệt được cá và thịt nấu chín với con thú còn sống. Người không có
ý niệm minh bạch về thân tâm, và không thể nào thực thi được sự trong
sạch cho mình.
Nên giải thích thêm ở đây là trong Phật giáo không có tin tưởng rằng thịt
thú vật đã chết có chứa đựng những sự rung cảm huyền ảo mà sẽ làm cho
người ăn thịt trở nên mắc các chứng bệnh thần kinh, ưu phiền và lo âu.
Ðây là niềm tin sai lầm dựa trên các tôn giáo cổ xưa ở Ấn Ðộ [17]. Sự
giận hờn (patigha) hay sân hận (dosa) là một trong năm mươi hai tâm sở
(cetasika) không thể nào phát sinh trong những sinh vật chết. Mà cũng
không có tâm sở nào tồn tại, độc lập, không thể nào đi quanh quẩn hay
thế vào bất cứ hình thể vật chất nào.
6. Tâm Từ là nền tảng của sự ăn chay
^
Hầu hết những người ăn chay trong Phật giáo đều nói rằng họ không ăn cá
thịt là để huân tập tâm Từ bi (metta-karuna). Lời phát biểu này phải
được nghiên cứu lại dựa trên giáo lý thuần túy của Ðức Phật. Nhiều kinh
sách về Vi diệu pháp (Abhidhamma) [18] định nghĩa tâm Từ bi như sau: "Có
tình thương với chúng sinh đang khổ và sẽ khổ đau". Vì cá thịt đã nấu
chín rồi thì không được xem là thú sống nên không một ai có tâm từ bi
trên món cá thịt đó. Cũng như không thể có tâm Từ bi cho cây, cỏ, bàn,
ghế và những thứ không phải là sinh vật sống khác. Nên biết thêm nữa là,
tâm Từ bi không thể nào tu tập trong cõi trời vô sắc (arupa - bhumi)
được, vì cõi trời đó không có hình thể của chúng sinh bằng thân tứ đại.
Thấy chúng sinh đang đau khổ và sẽ khổ là một nguyên nhân trực tiếp của
tâm từ bi (dukkhabhibhutanam anathabha-vadassana padatthana). Như vậy,
sự hiện diện của "chúng sinh" như là đối tượng, là điều kiện chính cho
sự phát triển tâm từ bi. Cũng nên hiểu rằng việc biểu lộ tâm từ bi
thường được đi kèm theo với ý muốn, lòng mong mỏi và sự nỗ lực để cứu
vớt một sinh linh thoát khỏi đau khổ
(dukkhapanayana-karapavattilakkhana). Trong trường hợp này, không ai có
thể cứu khổ cho sinh linh đã chết bằng cách không ăn nó. Dù có ăn thịt
hay không, thú vật đã chết rồi thì sẽ không sống lại được.
Mục đích cơ bản của tất cả giáo pháp Ðức Phật là cứu vớt chính mình và
những sinh linh khác. Sự đau khổ đang hiện có hay sẽ có trong tương lai;
chứ không cứu vớt sự đau khổ đã qua; vì đau khổ đã qua thì không thể nào
sửa lại được.
Lúc còn là Bồ Tát (Bodhisatta), Ðức Phật tổ Gotama sinh làm con cò. Một
hôm, cò thấy một con cá đang nổi trên mặt nước. Vì tưởng cá đã chết, cò
mổ nó. Khi thấy cá quẫy đuôi, cò thả cá ra ngay. Bởi vì cò chỉ ăn cá đã
chết. Khi Bồ Tát sinh làm cò, cọp và những thú vật ăn thịt khác; ngài có
thể tự chịu đựng chỉ ăn rau trái hay sao? Ăn cá chết không có nghĩa là
Bồ Tát không có tâm từ bi.
Trong "Từ điển tôn giáo so sánh" của Tiến sĩ Trevor O.Ling, mục "Thực
phẩm", ông có viết: "...Trong hàng tín đồ của Phật giáo, giết sinh linh
là một việc làm tội lỗi được nhấn mạnh (vì nó là chúng sinh có cảm xúc),
còn việc ăn sinh linh chết thì không có tội. Nghiệp bất thiện đến với
người giết chứ không đến với người ăn, khác với quan niệm của Ấn Ðộ
giáo, họ quan niệm việc ăn cá thịt cũng có nghiệp quả xấu". Có sự khác
nhau giữa sự giết thú sống và ăn thịt. Như vậy, tâm Từ bi thật sự không
có liên quan gì đến việc ăn chay hay ăn mặn.
7. Trách nhiệm pháp
lý gián tiếp
^
Trong "Golden Drum" - một tạp chí đã phát ngôn cho phái Ðại thừa ở phương
Tây đang bào chữa cho việc ăn chay, tạp chí số 14, tác giả Sagaramati
viết trong tựa đề "Những người con Phật có ăn thịt, cá không?": --"Ðể
nói rằng việc ăn thịt không có liên quan đạo đức gì với hành động giết
hại hung bạo và kinh khủng do nó cảm thấy, thì đây là sự vô tình, vô
cảm, là điều phi lý. Mặc dù không tự tay mình giết hay nhờ kẻ khác giết,
thì người ấy cũng không thoát khỏi hậu quả cho việc giết hại. Kẻ giết
thú vật không riêng cho mình mà cho chợ búa tiêu thụ. Nếu không có người
ăn thịt, thì sẽ không có điểm giết thú ngoại trừ việc giết đó phục vụ
cho chính người giết. Do đó nếu một ai quyết định ăn thịt, thì người ấy
cũng quyết định trở thành những người tiêu thụ của thị trường. Và nếu
một ai trở thành một phần tử của thị trường, người ấy có liên hệ với nhu
cầu mà người giết đáp ứng. Có một sự liên hệ rất rõ giữa người ăn thịt
và hành động giết hại, giữa lòng ham muốn vị thịt và sự đau đớn thật sự
của thú bị giết".
Cùng một cách nói, John Blofeld - tác giả nổi tiếng các kinh sách Ðại thừa
- viết trong lời tựa của quyển "Luật Ðại thừa" (Mahayàna vinaya) do Tỳ
khưu Yen Kiat biên soạn: "Trong thời điểm hiện đại, đặc biệt thú vật ít
khi được giết cho những cá nhân; nhưng rõ ràng rằng, tất cả chúng ta
thật sự có trách nhiệm cho cái chết của chúng, vì những người đồ tể chỉ
đáp ứng thịt theo thị hiếu của chúng ta. Như vậy, trong điều kiện hiện
nay, hình như không hợp lý tí nào cho các tu sĩ nói là họ có thể ăn thịt
vì họ không biết việc thú vật bị giết".
Thoáng qua, lời viết hình như có lý và hợp thời. Tuy nhiên, nếu lối lý
luận như vậy được áp dụng đúng mức, thì những người ăn chay sẽ không
thoát khỏi hậu quả và sự liên hệ của việc sát hại. Ðối với lúc này, họ
có thể "rao giảng" về việc phát huy tâm từ và tâm bi, bởi vì họ chưa bao
giờ thấy tận mắt tiến trình trồng, cấy và thu hoạch rau trái và những
sản phẩm nông nghiệp khác. Nếu những nông sản nói được, có lẽ chúng sẽ
nói về sự đau đớn của loài giun đất, và những loại côn trùng khác mà
thân thể của chúng bị đứt nát do bởi cuốc và thuổng; về tiếng kêu rên
của chuột đồng bị đứt đầu vì cày và xới, về tiếng than thở của côn trùng
chịu đựng thuốc độc DDT; và nhiều điều cảm kích và đau xót khác! Chắc
chắn, thiên nhiên không sẵn sàng làm cho các sản phẩm nông nghiệp biết
làm chứng hoặc có thể nói và đòi quyền công bằng đối với những kẻ ăn
chay. Những tiếng kêu rên, than thở đó vẫn còn bị coi là những tiếng kêu
vô vọng trong cánh đồng hoang dã. Ðiều này nên hỏi lại, phải chăng chỉ
có thú vật mới thừa hưởng lòng từ bi, bác ái; còn sự sống của giun đất,
côn trùng, chuột đồng thì bị thờ ơ quên lãng hay sao? Nếu người ăn chay
nghĩ: "Thú vật sẽ hạnh phúc vô cùng nếu trên đời này không có người ăn
mặn", thì cũng sẽ công bằng, nếu người ăn mặn nghĩ: "Bò sát, chuột và
côn trùng sẽ sung sướng vô cùng nếu trên đời này không có người ăn chay
(thực vật)". Chắc chúng sẽ mở tiệc liên hoan trên cánh đồng lúa!
8. Ăn chay có thể thay đổi tánh nết không?
^
Có
một số người nói rằng ăn chay có thể thay đổi tâm tánh con người. Ðây là
ý tưởng cho rằng loài thú ăn thịt, độc ác, hung dữ hơn loài thú ăn cây
cỏ. Như vậy, câu hỏi được đặt ra là: Lối sống của loài thú đem so sánh
với lối sống của loài người có hoàn toàn khác nhau không? Trong thực tế
không thể so sánh được vì nhiều người ăn thịt mà tánh lại lương thiện,
khiêm cung, lịch sự thành kính và ái mộ tôn giáo.
Geoffrey Bell là nhân viên của hội y tế thế giới và tổ chức lương nông,
thừa nhận một cách thành thật: "Một người Eskimo có lẽ mãi mãi là người
ăn thịt, có thể là Phật tử tốt hơn tôi, mặc dù tôi ăn chay!"
Mọi người ai cũng hiểu Adolph Hitler, nhân vật sáng lập Ðảng Quốc Xã Ðức,
là con người tuyệt đối ăn chay [19], nhưng với lối sống như vậy, Hitler
phải chịu trách nhiệm và hậu quả cho cuộc tàn sát lớn nhất thế giới. Một
câu hỏi được đặt ra: Thú vật cần lòng từ bi hơn con người không?
Từ
ví dụ trên, có thể kết luận rằng: Khi đánh giá lòng từ bi và bác ái; hay
sự hung dữ, độc ác của một người mà chỉ dựa trên những gì người ấy ăn là
sự đánh giá thiếu thận trọng. Từ sự liên quan trên, ông Jim Brower nói:
"Nếu sự thật việc ăn thịt mang lại cho con người sự hung dữ, thì người
Eskimo chắc chắn là người có tiếng tăm độc ác và Ấn Ðộ có nhiều người ăn
chay chắc chắn sẽ là quốc gia bình yên nhất thế giới!". Không hẳn là
vậy! Nếu nói việc ăn chay có thể thay đổi tánh tình một con người thì đó
là một lời nói phiến diện, không căn cứ, không minh chứng.
9. Ăn chay có thể làm giảm mức sát hại không?
^
Nhiều người đã nói rằng người ăn chay cảm thấy đau buồn khi họ trông thấy,
lắng nghe, hay tưởng tượng việc giết thú để dùng làm thực phẩm. Cảm giác
buồn đau này sẽ thôi thúc họ kiên quyết không ngừng việc thực hành ăn
chay. Lời nói này có thật sự đúng hay không? Vấn đề này vẫn còn tranh
luận.
Thật sự nếu người ăn chay cảm thấy đau buồn, khi nghĩ đến chúng sinh bị
giết, thì ít nhất họ cũng ngại ngùng khi sử dụng những bộ phận thân thể
thú cho những mục đích khác. Nói một cách khác, khi người ta đã quyết
định tránh xa bất kỳ thực phẩm nào làm bằng cá thịt, thì những người đó
cũng nên quyết định tránh xa bất kỳ thực phẩm nào khác được làm từ thú
vật! Tuy nhiên điều đó dường như không phải vậy. Dễ dàng tìm thấy một
cái trống (làm bằng da thú), những ngọn nến (có mỡ thú vật) [20] trong
những tu viện Ðại thừa và không khó tìm thấy những tu sĩ Ðại thừa ăn
chay mà dùng mật ong (được ép ra từ tổ ong mà trứng và ấu trùng của nó
phải chết đi) [21], các vị cũng mặc áo lụa (làm bằng tơ tằm có thể lấy
được bằng cách hơ nóng hay luộc kén) và rất dễ dàng tìm thấy người ăn
chay sử dụng thắt lưng, giày bằng da [22], và những đồ dùng khác được
làm bằng thú vật. Người ăn chay kiên quyết cũng nên tránh sử dụng thuốc
vì việc nghiên cứu tạo ra thuốc làm nguy hại hoặc giết hại mạng sống của
những con thú được thực hiện cho việc làm thí nghiệm.
Nếu cho rằng người ăn mặn (cá thịt) có thể làm gia tăng mức sát hại, thì
cũng cần nên nghi vấn lại rằng: sử dụng những đồ dùng nói trên không có
cùng những nghiệp lực sao? Giả sử tại thời điểm này, những người Phật tử
ăn chay ủy nhiệm cho đức Ðạt Lại Lạt Ma thứ 14 (Tendzin Gyatso) công
năng ưu việt, điều đó có nghĩa là "không hề sai trái" tương tự như Ðức
Giáo Hoàng của Công giáo, lúc đó ngài có thể tuyên bố về đạo đức, học
thuyết ý niệm, và bất cứ những gì liên hệ đến chân lý mà ngài muốn đề
cập. Một lối tự do và an toàn, ngài có thể quả quyết: "vì một số lý do
thích đáng mà không nên đề cập ở đây, tôi thông báo rằng chỉ ăn mặn mới
làm tăng mức sát sinh, còn sử dụng các vật dụng thú vật khác thì không,
và các vật dụng đó được cho phép sử dụng nữa!"
Thế nhưng, giả sử ngài có năng lực ưu việt đó, Ðức Ðạt Lại Lạt Ma sẽ tư
duy nhiều lần trước khi phán như vậy. Lý do đơn giản là ngài không
thường ăn chay! Ngài kiêng cử ăn tôm bởi vì ngài bị dị ứng [23]. Việc đề
xuất ăn chay ở khắp mọi nơi nhằm làm giảm bớt mức sát sinh hại vật chỉ
là một "phương án chưa hoàn hảo". Sự thật chỉ là một ảo tưởng.
10. Chủ nghĩa ăn chay và thịt nhân tạo
^
Việc tinh tiến trong sự thực hành và quảng cáo lối sống của họ, đa số
những người ăn chay hết sức cố gắng tạo một loại thực phẩm mới lạ mà
chưa từng có trước đây, đó là "thịt nhân tạo". Thịt nhân tạo này được
làm bằng bột mì và nhiều loại gia vị khác, mùi vị hơi giống thịt tự
nhiên - thậm chí việc nấu nướng thịt nhân tạo còn khó hơn việc nấu nướng
thịt bình thường.
Mặc dù phương pháp làm rất tốn công và đắc tiền, ý niệm về sản phẩm thịt
nhân tạo rất hấp dẫn và lôi cuốn nhiều người ăn chay hoặc không ăn chay.
Những nhà hàng phục vụ những món ăn này bỗng nhiên xuất hiện nhiều trong
những thành phố lớn trên thế giới. Thậm chí những tạp chí Phật giáo ở
Indonesia đã nhanh chóng đăng những công thức dạy nấu ăn với thực phẩm
đồ chay, như gà rang đậu, thịt heo quay.
Nhiều câu hỏi được đặt ra cho người ăn chay là thích thú và ăn ngon miệng
đối với thịt nhân tạo không? Quan niệm và thực hành về việc sản xuất
thịt nhân tạo có liên hệ với tôn giáo ra sao? Nếu thực phẩm ăn là thịt
nhân tạo, thì sự trong sạch đạt được cũng không phải sự trong sạch nhân
tạo sao? Có phải thực tập như thế chẳng khác nào tẩy một vết dơ tâm trí
bằng phương tiện tạo nên một vết dơ tâm trí khác có đáng kinh tởm hơn
không? Như vậy điều này có phải là đạo đức cực kỳ giả hay không nhỉ?
Dựa trên sự tính toán đã đo lường được, khẩu vị của người ăn chay chắc
chắn không kém hơn khẩu vị của người ăn mặn. Lòng ham muốn và phiền não
thì không bao giờ tránh được. Thật sự một người ăn chay một thời gian
lâu dài có thể đoạn trừ hay quên lãng lòng ham muốn thực phẩm mặn. Tuy
nhiên, điều đó không bảo đảm là lòng tham muốn đó sẽ không thay đổi vật
thể của nó cho loại thực phẩm khác, thực phẩm chay - ý thức rằng ham
muốn thực vật, rau, trái và những sản phẩm nông nghiệp khác là điều tốt
đẹp. Như thế lòng ham muốn thật sự không thể đoạn trừ được chỉ bằng sự
thay thế hay di chuyển vật thể. Mà lòng ham muốn chỉ có thể đoạn trừ
bằng cách tiêu diệt cội nguồn của nó.
11. Bữa cơm cuối cùng của Ðức Phật Tổ Gotama: Nấm hay thịt lợn?
^
Danh từ "Sukara-Maddava" xuất hiện mười hai lần trong toàn bộ Tam tạng
Kinh điển tiếng Pàli [24]. Từ này được gặp sáu lần trong kinh Ðại Bát
Níp-bàn (Mahaparinibbana sutta) thuộc tạng kinh Trường bộ (Dìgha Nikàya)
và sáu lần nữa trong kinh Cunda (Cunda sutta) thuộc kinh tạng Tiểu bộ
(Khuddaka Nikàya). Hai kinh văn này đề cập cùng một sự kiện là gia chủ
Cunda, một thợ vàng giàu sang mời và cúng dường Ðức Phật tổ Gotama món
sukara-maddava. Thực phẩm này là bữa ăn cuối cùng của Ðức Phật trước khi
ngài nhập vô dư Níp- bàn (Mahaparinibbana).
Gần đây, có người đã dịch danh từ sukara-madava thành "một loại nấm mà lợn
thích ăn" hay "một loại nấm mọc dưới đất bị lợn dẫm chân" hay "một loại
nấm mọc ở nơi mà heo ở" [25]. Không biết chính xác ai là người đầu tiên
đã dịch danh từ này như thế, nhưng tin chắc là bản dịch này sẽ được
những người ăn chay hoàn toàn ủng hộ [26]. Từ rất lâu họ đã thể hiện
nhiều phương pháp khác nhau để chứng minh Ðức Phật ăn chay. Bản dịch này
nên thẩm xét lại kỹ hơn.
Trong quyển kinh chú giải Trường bộ (Sumaígalavilasini) của trưởng lão
Buddhaghosa [27] viết rằng những gì được gọi là sukara-maddava là "thịt
lợn loại cao cấp, trong lứa vừa phải - không quá già mà cũng không quá
non - mềm và được phục vụ ngoài thị thành cho mọi người tiêu dùng
(pavattamamsa)". Trưởng lão Dhammapala, tác giả quyển chú giải
Paramatthadipani thuộc Tiểu bộ kinh, có cùng quan niệm như vậy [28].
Ngoài ra trưởng lão Buddhadatta viết quyển Mathuratthavilasini - chú
giải bộ Buddhavamsa (Phật sử) thuộc Tiểu bộ - cũng tuyên bố rằng một
trong ba mươi điểm tương đồng của chư vị Chánh Ðẳng Chánh Giác
(sammasambuddhasa) là: bữa ăn cuối cùng của ngài trước khi Níp-bàn là
"thịt thú vật" (parinibbànadivasemaư sarasa-bhojanaư). Trong Tam tạng
Thái Lan và Miến Ðiện (đã dịch sang tiếng Anh) thì danh từ
sukara-maddava được dịch là "thịt heo mềm" [29].
Nếu nguồn gốc của từ ngữ đã được thẩm định, thì giá trị của bản dịch không
nên nghi ngờ nữa. Thuật ngữ sukara-maddava được phân chia làm hai từ:
"sukara" và "maddava". Trong từ điển Pàli được biên soạn do Robert
Caesar Childers, và trong quyển thuật ngữ Pàli do Dines Anderson biên
soạn, cũng như trong quyển Pàli-Anh, do trưởng lão Buddhadatta biên soạn
thì danh từ sukara được dịch là "lợn" mà tính từ maddava được dịch là
"mềm". Như vậy căn cứ vào nguồn gốc của từ ngữ, thuật ngữ sukara-maddava
thật sự không có liên hệ gì đến bất kỳ loài "nấm" nào cả.
Cũng nên biết rằng, gia chủ Cunda là một Phật tử [30]. Ông biết Ðức Phật
Gotama sức khỏe bị suy yếu. Ông cố ý nấu món sukara-maddava này, với
lòng mong muốn là món ăn này sẽ gia tăng sức khỏe cho ngài. Cunda lẽ nào
dám liều cúng dường bậc đạo sư một món nấm, mà đã biết rằng là "có thể"
nguy hại [31], và theo như các nhà dinh dưỡng học, có thể gây sự yếu ớt,
nhiều độc tố và lẫn cái chết nữa. Vả lại, nấm là thực phẩm có rất ít
chất dinh dưỡng để sử dụng cho việc tăng lực [32]. Nói một cách khác,
nấm không có nhiều chất dinh dưỡng bằng bắp cải, cho nên rất dại khờ mới
nghĩ rằng nó sẽ làm gia tăng sức khỏe. Cũng nên biết rằng, cái chết của
Ðức Phật thật sự không phải chết vì dùng sukara, thịt lợn
(sukara-maddava), do gia chủ Cunda cúng dường - như nhiều người lầm
tưởng - mà vì cơ thể của ngài đã cạn kiệt và vì cuộc đời của Thế Tôn đến
lúc phải ra đi. Ba tháng trước, ngài đã quyết định nhập diệt vào ngày
trăng tròn tháng tư âm lịch (vesakha). Sự việc này như đã được ghi lại
trong kinh Ðại Níp bàn (Mahàparinibbàna) và kinh Cunda, Ðức Phật Gotama
không bao giờ nói rằng thịt lợn (sukara-maddava) do gia chủ Cunda cúng
có độc tố [33]. Ngài chỉ nói là trong thế giới này không có ai dù là Bà
la môn, đạo sĩ, trời, ma vương hay Phạm thiên nào có thể tiêu hóa
(jirapeti) thực phẩm đó, ngoại trừ Như Lai. Ngài Nagasena và Buddhaghosa
đã chú giải là khi thịt lợn (sukara-maddava) được nấu, có nhiều vị chư
thiên thêm gia vị cực bổ vào, lý do là các vị nghĩ rằng đây là bữa cơm
cuối cùng của Ðức Phật Gotama. Nhận biết được điều này, Ðức Phật gọi gia
chủ Cunda đừng có cúng dường món thịt lợn chứa gia vị cực bổ này cho chư
Tỳ khưu tháp tùng theo ngài, bởi vì nó có lẽ "quá liều" đối với chư vị
mà chỉ có đức Như Lai mới có thể thọ dụng được. Như vậy việc dịch thuật
ngữ sukara-maddava thành nấm và đoán chừng rằng cái chết của Ðức Phật là
do độc tố của nấm thì thật sự không đúng.
Ðiều này thực sự không quan trọng và người Phật tử không nên sử dụng vấn
đề này để tranh luận. Cho dù "sukara-maddava" có thật sự là nấm hay
không, thì không thể nào sử dụng thuật ngữ trên để làm cứ điểm cho việc
biện hộ ăn chay. Loại thực phẩm mà Ðức Phật dùng không thể dựa vào bữa
ăn cuối cùng của Ðức Thế Tôn. Nhiều nguồn kinh điển Tam tạng quả quyết
cho là Ðức Phật đã có thái độ của ngài về việc ăn chay, và ngài đã áp
dụng ăn chay cho chư vị đệ tử.
12. Một vị Bồ-tát phải thực hành việc ăn chay không?
^
Một số người nói rằng, ý tưởng hình thành việc ăn chay là do Bồ Tát Sĩ Ðạt
Ða khổ hạnh sáu năm ở chốn rừng già Uruvela, bởi vì lúc đó ngài chỉ dùng
trái cây thôi, không ăn cá hay thịt. Thật sự đây là một sự lầm lẫn - nếu
không muốn nói đây là chuyện bịa đặt. Ngài khổ hạnh chỉ vì hành động bất
thiện của Ngài trong kiếp quá khứ, đó là Ngài nhục mạ Ðức Phật Ca Diếp
(Kassapa). Như vậy thực sự khổ hạnh không có hàm ý là Bồ Tát luyện tập
tâm bác ái. Việc ăn chay không phải là một trong những hạnh tu pháp độ
(paramita) do chư vị Bồ Tát tu tập. Vả lại, những pháp độ của ngài phải
hoàn thành trước khi Bồ Tát tái sinh lên cõi trời Ðâu suất (Tusita) nơi
mà Bồ Tát đợi lúc thích hợp để giáng trần.
13. Việc thực hành ăn chay do các tu sĩ
^
Ðức Phật Gotama không bao giờ yêu cầu hay cấm các tu sĩ ăn chay. Nếu tu sĩ
nào cảm thấy hoan hỉ, chấp thuận và thoải mái trong việc ăn chay, thì tự
do mà ăn. Tuy nhiên việc ăn chay không nên tu tập chỉ vì các giáo điều
khác nhau do chính Ðức Phật cấm chế và cũng không nên tu tập một cách mù
quáng và mê tín, vì việc ăn chay không có cơ sở trên mặt giáo lý. Giới
luật cấm các tu sĩ hỏi xin bất cứ thực phẩm nào từ thí chủ - ngoại trừ
bị bệnh - một thầy Tỳ khưu ăn chay không được chỉ dẫn cho thí chủ chuẩn
bị thực phẩm đặc biệt mà không có dung chứa cá hoặc thịt. Vị ấy phải thọ
nhận bất cứ lễ phẩm cúng dường nào của đàn-na dâng cúng. Nếu không, vị
ấy không phải là Tỳ khưu để cúng dường (subharo).
Sự
khó khăn trong việc tìm kiếm thực phẩm chay không phải là vấn đề cho sự
vi phạm của bất cứ luật lệ chính nào khác. Vị Tỳ khưu nên hiểu và ý thức
rằng luật nào là căn bản, và luật nào là kém quan trọng; luật nào phải
ưu tiên gìn giữ và luật nào chỉ phụ thuộc thôi.
Lại nữa, thầy Tỳ khưu không nên khoe khoang với người khác hoặc đại chúng
là mình không ăn cá, thịt. Vị ấy phải biết an lạc cho chính mình. Trong
bất cứ hoàn cảnh nào, mục đích chính của các giới luật là tu tập, kiểm
điểm chính mình, không có cống cao ngã mạn, khoe khoang hay ích kỷ. Nói
khác hơn, ăn chay phải được tu tập không vì đó mà xem thường, lỗi phải
hay nhạo báng những Tỳ khưu không ăn chay [34], hay vì mục tiêu nào khác
không phù hợp pháp luật - như Ðề Bà Ðạt Ða (Devadatta) đã làm, ông là
một trong những người ăn chay đầu tiên. Nếu không, vị Tỳ khưu ăn chay sẽ
không làm giảm bớt, mà trái lại còn tăng thêm phiền não cho mình.
Vả
lại, vị Tỳ khưu ăn chay phải ý thức rằng ăn chay chỉ là việc thực tập và
không nên tuân theo một cách mù quáng. Nếu như coi thường điểm chính yếu
này, vị ấy sẽ không thể đạt được sự thanh tịnh hay giác ngộ. Thậm chí
đạo quả thấp nhất, Tu đà huờn (Sotapanna), cũng không bao giờ thành tựu
được vì vị đó tự mình dính mắc mình vào các giới luật và giới cấm thủ
(sìlabbataparàmàsa).
Ðối với những Tỳ khưu, việc thực hành ăn chay đôi khi là một cảm nhận vui
thích. Có một Tỳ khưu nói với đệ tử của mình là thầy sẽ ăn chay vài
tháng thôi. Vì theo giới luật, Tỳ khưu không được từ chối bất cứ thực
phẩm nào đã dâng cúng cho mình - ngoại trừ nó trái với pháp và luật. Vị
đó nhận, nhưng không ăn thực phẩm có dung chứa cá và thịt.
Một ngày nọ, có thể cho là ngày bất hạnh, một đệ tử hỏi Tỳ khưu: "Thưa
ngài, ngài có biết là thực phẩm người nọ cúng dường, mà ngài vừa ăn có
thịt không?" Gặp phải câu hỏi lắc léo này, Tỳ khưu im lặng một lát. Tuy
nhiên vì ngài sáng trí, nên ngài lấy lại điềm tỉnh, tìm ra câu giải đáp
với ba tiêu chuẩn được dùng thịt. Ngài nói: "Này ..., tôi không thấy,
nghe hay nghi ngờ thực phẩm đó có thịt. Nếu tôi biết trước, dĩ nhiên tôi
sẽ không ăn". Câu trả lời này được chấp nhận bằng một nụ cười và cái gật
đầu nhẹ giống như cậu bé đã bị cha khiển trách.
Ðiều khác nhau giữa ăn chay và tam tịnh nhục ví như thanh gươm và vỏ kiếm.
Tam tịnh nhục có thể so sánh với thanh kiếm, còn ăn chay giống như bao
kiếm. Trong điều kiện an toàn, người ta có thể thưởng thức và khoe
khoang vẻ đẹp của bao kiếm có cẩn và trang trí ngọc ngà trong khi đó
lưỡi kiếm thì có thể quên lãng trong bao. Tuy nhiên trong hoàn cảnh nguy
cấp, thanh kiếm có thể được sử dụng để tự vệ và hữu ích hơn bao kiếm
nhiều.
Từ
ví dụ trên, chúng ta thực sự biết thực hành ăn chay là một điều kiện khó
khăn, đặc biệt đối với những ai không nấu ăn giỏi. Ví dụ người tu khó
phân biệt được đậu hủ chiên với dầu dừa và đậu hủ chiên với mỡ lợn.
Thiên nhiên không có ưu đãi tỉ giác của con người giống như thú vật.
Nhưng giả sử vị ấy đã có khả năng đặc biệt như vậy, thì vị xuất gia đó
sẽ đối diện một số khó khăn, đặc biệt là trong điều kiện giao tế. Chắc
chắn điều đó không phù hợp cho bậc xuất gia ngửi thực phẩm nhiều lần khi
mình sắp sửa ăn.
14. Người cư sĩ thực hành việc ăn chay
^
Khác biệt với những người xuất gia, người cư sĩ sẽ không gặp nhiều khó
khăn trong việc ăn chay bởi vì họ có thể, chọn lựa và nấu nướng cho
chính mình, sử dụng hương vị nào họ muốn. Một khó khăn nữa có thể đương
đầu là để ngăn chặn không cho côn trùng rơi vào thực phẩm. Nếu việc này
xảy ra, họ sẽ rơi vào tình trạng nghi hoặc bởi vì không có thánh điển
nào chứng minh rõ cho người cư sĩ là thực phẩm đó vẫn còn là thực phẩm
nguyên chất hay không. Căn cứ trên mặt luận lý, thực phẩm này không thể
được coi là thanh tịnh nữa. Tuy nhiên, nếu thực phẩm được cho là món ăn
không còn là chay, thì không người nào thành công trong việc thực hành
ăn chay thanh tịnh! Có bất cứ thực phẩm nào mà chưa từng bị xác chết của
côn trùng làm ô uế hay đụng chạm vào? Câu hỏi này được người tại gia trả
lời: Nếu gạo, bột mì và những món khác bị pha tạp với xác chết côn trùng
thì được xem là thực phẩm chay hay không? Nếu rau trái và những sản phẩm
nông nghiệp khác có dung chứa sâu bọ, côn trùng hay trứng của nó thì có
được cho là thực phẩm chay hay không? Ðậu hủ do những người khác cầm tay
mà tay người đó vừa mới cầm thịt thì đậu hủ đó còn là thực phẩm chay hay
không?
Cho đến nay chưa có tiêu chuẩn nào để giải tỏa sự thắc mắc này. Cho nên sự
thành tựu trong việc ăn chay vẫn còn hoài nghi [35].
15.
Ăn chay trong thời đại mới
^
Không có phủ nhận rằng thời đại hôm nay con người cần phải có, và thậm chí
bắt buộc phải có những nhu cầu sống cơ bản như quần áo, thực phẩm, chỗ
ngụ và thuốc men, được sản xuất ở những nhà máy và được buôn bán ngoài
chợ. Hiện nay trong những sản phẩm đó có nhiều loại được làm bằng nguyên
liệu lấy từ nguồn gốc động vật. Thậm chí những thứ vật dụng dùng hàng
ngày, được phục vụ mọi nơi, cũng không tránh khỏi chúng. Những nhà quan
sát học nói rằng kem đánh răng Colgate, xà bông Camay, Palmolive bán ở
thị trường Los Angeles, Hoa Kỳ có dung chứa mỡ lợn [35].
Theo quan niệm thực tế này, thời nay người ta có thể ăn chay một cách
nghiêm túc được không? Nếu có thể, người ta sẽ đánh răng bằng bột; tắm
bằng đá sông thay cho xà bông, hay nói khác hơn là người ta trở về lối
sống nguyên thủy. Một lối sống khoan dung hơn, là không biết tới nguyên
liệu hay những thành tố của sản phẩm do nhà máy sản xuất. Giá như không
có xương động vật vào trong kem đánh răng, xà phòng, nước tương, dầu
ăn... nên xem xét các sản phẩm cho phép, không chế tạo bằng bất cứ bộ
phận nào của thú vật! Tuy nhiên nếu chọn lối sống này thì nên trả lời
câu hỏi: "Cách sống này có thích nghi với tinh thần ăn chay ngày xưa
không?"
16. Việc ăn chay hay Bát giới: Một sự lựa chọn tùy duyên
^
Vì
cả hai đều liên quan đến cái ăn, sự ăn chay thì thường nối tiếp với tám
giới (Atthasila), giới thứ sáu là không dùng thực phẩm phi thời. Hầu hết
những tu sĩ Ðại thừa ăn chay mà không gìn giữ giới luật này theo giới
luật của hệ Pàli tạng thì điều này sẽ phạm tác ác (paccittiya) [36].
Dường như là hai giới luật đó được xem như là có thể thay đổi cho nhau,
hoặc chọn lựa tùy duyên. Theo sự lý giải: "Ai cảm thấy ăn chay thoải mái
thì cứ ăn chay, còn ai hoan hỉ giữ giới thứ sáu thì cứ gìn giữ. Dù sao
đi nữa cả hai đều có chiều hướng phát huy đức hạnh như được thấy trong
pháp của Ðức Phật" [37].
Thật sự lời lý luận này không phù hợp với giáo lý chơn truyền của Ðức Phật
tổ Gotama. Tối thiểu lời lý luận này cũng soi sáng sự ngang bằng giáo lý
của Ðức Phật và kiến nghị việc không ăn cá, thịt của Devadatta.
Việc đối chiếu ăn chay với điều giới luật thứ sáu của bát giới là một điều
không phù hợp, khác với vị trí không chính thống của ăn chay. Tám giới
chính thức do Ðức Phật Gotama dạy như là phương tiện sinh thiên hoặc
thanh tịnh hóa. Cho nên người nào thay thế giới thứ sáu với điều ăn chay
là một điều không thận trọng lắm. Chắc chắn còn nhiều người vẫn chưa
hiểu giới luật thứ sáu.
Giới luật thật sự không chỉ là quy luật về oai nghi tế hạnh, mà còn là
truyền thống tu tập của chư Phật, chư Tỳ khưu và người tại gia cư sĩ
nhiều thời đại qua. Sau khi Tỳ khưu vi phạm, Ðức Phật mới cấm giới luật.
Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là giới luật không được biết đến trong
một hình thức nào khác trước đó. Một Tỳ khưu phạm luật chỉ là một động
cơ chính để đức Bổn Sư bắt đầu cấm chế chính thức giới luật. Vì lý do
trên, chắc chắn không đúng khi quả quyết là những giới luật là do Ðức
Phật Gotama thiết lập theo ý muốn riêng tư và sở thích của ngài. Như
thế, sự sửa đổi giới thứ sáu của bát giới do những nhà tu Ðại thừa không
những ám chỉ việc tổn hại trong việc hành trì giới này, mà còn có nghĩa
đánh mất truyền thống đã được chư Phật chế định!
Người ta quan niệm là lợi ích của giới thứ sáu trong bát giới là chỉ để
thực hành việc điều độ trong sự ăn uống, kỳ dư, không còn lợi ích nào
khác nữa. Dĩ nhiên cách nói như vậy thì chưa đúng. Ngoài lợi ích tiến bộ
tâm linh, gìn giữ giới thứ sáu cũng duy trì sức khỏe tốt. Thực tập giới
thứ sáu, cũng được gọi là "nhịn đói với nước trái cây" [38]. Trong danh
từ y dược học hiện đại cho biết là hữu ích cho sức khỏe ở nhiều nước đã
phát triển: Mỹ, Ðức, Thụy Sĩ, Nga.
Viện nghiên cứu y học nổi tiếng thế giới, Karolinska ở thủ đô của Thụy
Ðiển giới thiệu nó như là một phương pháp chữa bệnh có kết quả. Lúc nhịn
ăn thân thể không thu nhận protein và mỡ, cho nên nó thiêu đốt và tiêu
hóa đi các tế bào của nó trong quy trình cho là "sự tiêu hóa". Nhờ sự
chọn lựa và tiêu hóa đi những tế bào không tốt, già nua hay chết chóc,
thân thể tự tống cặn bã và độc tố mà nó đã dung chứa. Bác sĩ Otto
Buchinger gọi phương pháp nhịn ăn này là "xả cặn bã, đốt cháy rác rến".
Trong giai đoạn kiêng ăn, ống dẫn đồ ăn, gan và thận có lẽ hoạt động có
kết quả hơn, vì chúng tạm ngưng việc xử lý thực phẩm mới, chỉ còn sự đào
thải cặn bã và hoán chuyển độc tố loại trừ ra khỏi thân thể. Ðồng thời,
sự cấu tạo tế bào mới đang gia tăng nhanh không ngại thân thể thiếu
protein trong lúc nhịn ăn, bởi vì chất protein trong thân thể là trạng
thái sinh động, có lẽ liên hồi tái tổng hợp và tái thực hiện cho các
điều kiện khác của thân thể [39].
Một số nhà khoa học hiện nay có thể chứng minh rằng thân thể có thể tiêu
hóa, chế tạo và tiếp thu những chất dinh dưỡng có kết quả hơn vào sáng
sớm. Do đó, buổi sáng là thời điểm tốt nhất cho loài người, loài thú để
ăn (ngoại trừ thú ăn đêm) mà ban đêm là thời điểm tốt nhất cho việc nghĩ
ngơi. Cho nên nếu ai ép buộc bao tử, ruột và những cơ quan tiêu hóa khác
làm việc cả ngày lẫn đêm thì nguy hại cho thân thể.
17. Ăn chay và sức khỏe
^
Những lợi ích tôn giáo về việc ăn chay đã được đề cập đến trong những phần
trước. Bây giờ chủ đề cuối cùng để thảo luận là ăn chay và kết quả của
nó về sức khỏe thân thể. Có một ý kiến cho là ăn chay sẽ có sức khỏe và
mạnh mẽ hơn. Tuy nhiên cũng có ý kiến đối lập cho là ăn cá và thịt sẽ
mạnh mẽ và khỏe hơn. Ý kiến nào đúng hơn? Không có câu trả lời xác định
cho câu hỏi này.
Nói một cách khác, dù ăn chay hay ăn mặn, ăn cách nào có lợi ích cho sức
khỏe thì tùy thuộc vào từng cá nhân. Ðối với người bị một số bệnh như:
dị ứng, căng thẳng thần kinh, bệnh tim... hay người có chất cholesterol
cao thì ăn chay (chính xác hơn là ăn kiêng) có thể thật sự lợi ích cho
sức khỏe của họ. Tuy nhiên đối với trẻ em ăn chay chắc chắn sẽ cản trở
sự phát triển cơ thể của chúng, đặc biệt là sự phát triển bộ não. Dung
lượng protein trong những sản phẩm nông nghiệp luôn luôn không thể thay
thế nhu cầu protein động vật của cơ thể. Ðiều đó cũng nên hiểu rằng cá
và thịt dung chứa những chất dinh dưỡng ít có trong cây rau hoặc trái,
ví dụ vitamin B12. Vitamin B12 không thể sản xuất một cách tổng hợp là
có lợi ích cho việc hệ thống và thay đổi những tế bào mới. Ngoài chứng
bệnh thiếu máu, không có đủ vitamin B12 có thể gây nên sự mệt mỏi thần
kinh, và thiệt hại bộ não. Những triệu chứng là tê liệt, rối loạn thần
kinh và hoang tưởng. Nếu không điều trị sớm, kết quả sẽ là suy giảm tâm
thức thường xuyên và bại xụi [40].
Chắc chắn là tuyệt đối không ăn cá thịt dẫn đến việc ảnh hưởng xấu cho sức
khỏe. Nếu không, vì sao những hội sức khỏe đề cao thực phẩm cá, thịt và
sữa. Một số người ăn chay ở phương Tây cho dùng sữa, trứng và cả cá nước
ngọt, e rằng ăn chay quá khe khắc có thể tổn hại cho sức khỏe. Như thế,
có thể kết luận là ăn chay chỉ phù hợp cho ai vấp phải một số bệnh nào
đó, ai tiêu thụ chất dinh dưỡng quá mức, hay người lao động nhẹ, bởi vì
họ không cần thiết nhận nhiều protein động vật hay những chất dinh dưỡng
khác có dung chứa từ cá và thịt. Trái lại, trẻ thơ, người kém chất dinh
dưỡng hoặc người làm việc nhiều mà sự tiêu thụ chất protein của động vật
và những chất bổ khác trong cá, thịt, sữa được đòi hỏi với số lượng lớn,
không nên cố ăn chay, ngoại trừ xét thấy có lợi cho sức khỏe.
18. Tóm lược
^
Sau khi xem xét những lời dạy đã được trình bày trong quyển sách này, bây
giờ độc giả có thể trả lời đúng câu hỏi: "Quý vị là người ăn động vật
hay thực vật?" Câu trả lời là phải phù hợp với giáo pháp, lời dạy nguyên
thủy của Ðức Phật, là ăn thế nào cũng được. Người tu chân chính không để
mắc mứu trong điều khó xử về ăn chay. Tấm gương thận trọng của Ðức Phật
là việc hướng dẫn tốt để đối diện cũng như khắc phục những vấn đề ăn
chay.
Người tu không nên cho mình là người ăn thịt; dường như mình là người bán
hàng cho những nhà sản xuất thực phẩm làm bằng cá, thịt; cố làm giàu có
qua việc bán thịt và vô tình biện minh cho việc giết thú lấy thịt bán.
Nhưng người tu cũng không nên cho mình là người ăn chay, truyền bá cho
việc ăn chay, thu hút người khác sống theo cách sống của mình một cách u
mê. Người tu là người có "lối sống độc nhất" trong sự cung ứng điều kiện
thực phẩm của mình.
Như vậy để trả lời câu hỏi cho chủ đề của quyển sách này, người tu hành
phải nói thẳng thắng: "Tôi không phải là người ăn động vật mà cũng không
phải là người ăn thực vật! Tôi là người ăn bất cứ thực phẩm nào phù hợp
giáo pháp, lời dạy của bậc giác ngộ".
Lời bạt
^
Ðọc cuốn sách "Vấn đề ẩm thực trong Phật giáo," chúng ta thấy ý nghĩa của
sự tu hành là gì? Phương pháp để đạt được cứu cánh (Niết Bàn) của người
tu Phật ra sao? Hành giả tu Phật sai mục tiêu lý tưởng sẽ không đạt được
kết quả tốt đẹp, công phu hành đạo nó sẽ thành tự đầu độc và di hại đến
tư tưởng bản thân và quần chúng.
Cho nên tôi nhận thấy cuốn sách bàn về vấn đề ẩm thực này rất có ý nghĩa
thời sự đối với những người mong muốn giật được đạo hơn là tự hành chánh
đạo. Ðiển hình như một số tiêu đề mà nội dung cuốn sách đã nêu như:
1.
Vấn đề ăn chay, ăn mặn đã có lắm ý tưởng mâu thuẫn nhau. Tu sĩ Phật giáo
Nam Tông căn cứ theo luật Phật buộc người xuất gia phải sống bằng thức
ăn đi trì bình khất thực. Các tu sĩ không hề dám đề ra những cao kiến
trên Phật để canh tân giáo phái. Các tu sĩ không được có của riêng,
ngoài tam y và quả bát. Các triết gia Hy Lạp thì đề cao thuyết ăn chay.
Ngày nay các tu sĩ Việt Nam phái Bắc Tông cũng đề quyết hạnh ăn chay.
2.
Người thì có ý hướng lệch lạc tiếc nuối theo học thuyết chay lạt và đi
xa hơn là khuyên "Nên ăn chay vì nó là yếu tố có được sự thanh tịnh". Họ
cho rằng ăn chay sẽ đạt được mục tiêu. Ðiều này chính là điểm khác nhau
với phái Nam Tông. Ðức Phật đã thuyết giáo rằng: "Có giới mới có định,
có định mới có tuệ."
3.
Ăn chay có thay đổi được tánh nết không? Một vị Bồ Tát, Phật có thực
hành việc ăn chay không? Ăn chay có đảm bảo sức khỏe cho mọi người
không?
Tác giả cuốn sách có nghiên cứu chính chắn, có kết hợp các ngành khoa học
xã hội, Tôn giáo học, ngành y học... và được dịch giả Tỳ kheo Thích
Thiện Minh phiên dịch khá chính xác, vạch rõ được ý nghĩa của bản chính.
Theo tôi vấn đề này hoàn toàn phù hợp với lời Phật dạy là sống nhờ thiên
hạ và vì thiên hạ. Tôi rất hy vọng cuốn sách nhỏ bé này sớm ra đời, để
phần nào khai thông được những tư tưởng xa lạ phi Phật tánh của một số
người chưa hiểu được bản thân phải làm gì để đạt được cứu cánh của người
tu Phật.
Tiến sĩ Thái Văn Chải
Chú
thích:
^
[1] Theo quyển "Bách Khoa Thế Giới", phần Tổ chức kinh doanh, Chicago
[2] John Blofeld là tác giả viết kinh điển Phật Giáo Ðại Thừa nổi danh,
dường như ông đã xem thường sự kiện lịch sử trong khi đó ông đã tuyên bố
sai lầm: "Những quyển sách cổ ở Ấn Ðộ cho thấy rằng việc ăn chay không
được biết đến trong suốt thời gian Phật giáo truyền bá trên đất nước
này". Chính những nhà học giả Ấn Ðộ giáo thừa nhận rằng ăn chay cũng
được tìm thấy từ Phật giáo.
[3] So sánh điều này với lời dạy của kinh thánh trong Matthew XV, 10-19 có
đoạn như sau: "Không có thứ gì ăn vào hay nhả ra mà làm cho người ta nhơ
bẩn, nhưng con người nhơ bẩn là vì ác ý, sát hại, tà dâm, gian tham,
trộm cắp..."
[4] Ðiều quan trọng để hiểu là thuật ngữ "vanijja" trong ngữ cảnh này chỉ
liên quan đến hành động buôn bán, chứ không liên quan đến việc mua sắm.
[5] Bị vô minh áp chế và vì nhân duyên cũng như những cá tính tự nhiên;
loài thú không thể nâng cao sự tiến bộ, phát huy sự hiểu biết hoặc làm
tăng trưởng tính khôn ngoan được.
[6] "Người Phật tử tin gì?", Kuala Lumpur. Hội truyền bá Phật giáo, năm
1973, trang 78.
[7] Luật Ðại Thừa của Tỳ khưu Yen Kiat, xuất bản năm 1960, trang 60.
[8] Kinh Lăng Nghiêm (Surangamasutra ) do Charles Luk dịch, London ấn hành
năm 1966, trang 153.
[9] Kinh Lăng Già (Lankavatarasutra) do Daisetz Teitaro Suzuki dịch,
London ấn hành năm 1973, trang 211-221
[10] Luật Ðại Thừa (Mahàyànavinaya) do Tỳ khưu Yen Kiat biên soạn, Bangkok
ấn hành năm 1960, trang 60.
[11] Trường Bộ, Trung Bộ, Tương Ưng Tăng Chi, Tiểu bộ kinh.
[12] Trường A Hàm, Trung A Hàm, Kinh Tạp A Hàm, Tăng Nhất A Hàm
(Dirghagama, madhyamagama, Samyuktagama, Ekotta-rikagama)
[13] Giới luật của Tỳ khưu, do Charles Si Prebish, New York ấn hành năm
1975, trang 80.
[14] Giới này so sánh với Giới Bổn của Trưởng Lão Bộ đã được công bố nó
tương đương điều thứ bốn mươi trong Giới Bổn của nền tảng Nhất Thiết Hữu
Bộ.
[15] Trong phân biệt kinh "Suttavibhanga" (Luật tạng Vinaya pitaka) có nói
đến Trưởng Lão A La Hán Tỳ khưu Ni Uppalavanna đã cúng dường bữa ăn nấu
bằng thịt cho Ðức Phật Gotama.
[16] Kinh Quán Tưởng, Bangkok ấn hành năm 1975, trang 263.
[17] Người Trung Hoa tin rằng linh hồn của người chết còn quanh quẩn trong
nhà của họ nhiều ngày trước khi đi tái sinh. Trái lại với niềm tin này,
kinh điển A Tỳ Ðàm (Abhidhamma) giải thích rằng ngay khi tâm tử (cuti -
citta) là tâm tái sinh (patisandhi citta).
[18] Paramatthajotika được biên soạn do Phra Saddhammajotika, Bangkok ấn
hành, Phật lịch 2526 và quyển Abhidhammattha-sangaha do Vannasiddhi tóm
lượt, Bangkok ấn hành, Phật lịch 2530.
[19] Xem lại WFB, tập 21, bài số 1, từ tháng giêng đến tháng 5, năm 1984,
trang 83.
[20] Ðèn cầy cao cấp có chứa chất mỡ.
[21] Trong quyển kinh Lăng Già, ngay cả mật ong thì cũng được xem là thực
phẩm thích hợp cho những người tu theo Ðại Thừa.
[22] Thậm chí có những người ăn chay được biết họ thành lập cơ sở sản xuất
dây nịt da hoặc hãng xưởng làm giày. Có lẽ họ quan niệm rằng chỉ không
ăn cá thịt thì đủ để tha tội cho họ từ tội giết hàng loạt loài thú vô
tội.
[23] Nguồn tài liệu này là của Ngài Pannavaro
[24] Thuật ngữ này cũng được thấy trong quyển Mi Tiên vấn đáp (Milinda
panha) - kinh điển Pàli có nêu chi tiết cuộc tranh luận giữa Vua Milinda
và Ðại đức Nagasena.
[25] Trong kinh Ðại Níp Bàn và kinh Mi Tiên vấn đáp, giáo sư Rhys Davids
đã dịch thuật ngữ này là thịt heo mềm. Nhưng I.B.Horner trong bản dịch
Mi Tiên vấn đáp của bà thì thuật ngữ này được dịch là "nấm đen ăn được".
[26] Trong kinh điển Trung Hoa thuật ngữ này được dịch là loài nấm.
[27] Ông là nhà chú giải kinh điển Pàli nổi tiếng sống khoảng thế kỷ thứ V
sau Tây lịch.
[28] Chú giải kinh tạng Pàli xưa và quan trọng nhất được ghi lại ở Tích
Lan là do công lao của Ngài Malinda, con trai vua Asoka.
[29] Tam Tạng kinh điển Tích Lan, thuật ngữ này được duy trì trong hình
thức Nguyên thủy, không có dịch ra.
[30] Nhà chú giải nói rằng thiện nam Cunda đã đạt được đạo quả Tu Ðà Hườn.
[31] Trong quyển Bách Khoa Thế Giới, người ta viết rằng chỉ có những nhà
sinh vật học thì mới tỉ mỉ và nghiêm nhặt để phân biệt giữa loài nấm có
độc và không độc. Thực tế cho thấy là nấm ăn được đôi khi tương tự với
nấm không ăn được ở hình dáng, mùi vị và màu sắc.
[32] Hầu hết các loài nấm người ta cho biết là: hơn 90% là nước, dưới 30%
là chất protein, dưới 5% là chất carbohydrate, dưới 1% là chất béo và
khoảng 1% là chất khoáng cũng như Vitamin.
[33] Giả sử là Sukara-maddava có chứa chất độc, nhân gây bệnh tật hay cái
chết của Ðức Phật, thì chắc chắn bát cơm đó sẽ không được công bố là sự
cúng dường có nhiều phước báu tương đương với nàng Sujata cúng dường bữa
ăn trước khi Ngài thành đạo.
[34] Ở Thái Lan, có vị lãnh tụ giáo phái tà đạo "Santi Asoke" tên là
Bodhiraksa, ông thích phê bình ai ăn cá thịt thì người đó sẽ giống như
dạ xoa (yakkha), ma quỷ (mara).
[35] Tạp chí Tempo hàng tuần, số 41, năm thứ 15, ra ngày 7.11.1985
[36] Ở kinh Ba La Ðề Mộc Xoa của tạng Sanskrit, những người theo Bộ phái
Ðại Chúng Bộ (Mahasanghika) thì vẫn còn gìn giữ giới luật này.
[37] U. Tedjo Joewono trong nhan đề "thực phẩm" ở tạp chí Svaradhamma, số
9 từ tháng 10 đến tháng 11, năm 1985.
[38] Phương cách ăn ngọ của Phật giáo có thể so sánh với phương pháp "nhịn
ăn với nước trái cây" do những nhà khoa học giới thiệu. Các vị Tỳ khưu
được Ðức Phật cho phép dùng nước trái cây sau giờ ngọ vì nước trái cây
có lượng vitamin cần thiết cho cơ thể hàng ngày. Cách ăn này thì lợi ích
và tốt hơn đối với việc "nhịn ăn hoàn toàn" như đã luyện tập bởi một số
tôn giáo khác mà thậm chí họ còn ngăn cấm uống nước nữa.
[39] Thông tin này đã bắt nguồn từ "việc nhịn ăn với nước trái cây: phương
pháp quan trọng đối với sức khỏe và tuổi thọ" trong quyển sách "How to
get well", một cuốn sách đã bán chạy nhất do Tiến sĩ Paavo Airola viết.
[40] Trong quyển sách hàng năm nói về chất dinh dưỡng do John D.
Kirschmann, Lavon J. Dunne, Hoa kỳ ấn hành năm 1984.
DĨ KINH CHỨNG KINH
Vấn đề ăn chay
"Ce qui nous rend impurs, ce n'est pas manger de viande, mais c'est la
haine l'intempe'rance, l'entêtement, la bigoterie, la fourberie,
l'envie, l'orgueil, la complaisance pour les hommes injustes"- PIERRE
SALET
(L.S.P.P, tr. 52)
Phi lộ
Gần
đây thấy trên trang Thư Viện Hoa Sen [*], mạng Internet, có những bài
phê bình TT Giác Chánh về bài viết "Lời giới thiệu" quyển "Vấn đề ẩm
thực trong Phật giáo", chúng tôi Phật tử nhóm Phù Sa phân vân xin
tra lại kinh sách để tham khảo vấn đề nói trên một cách thực tiễn như
tục ngữ có câu: "Nói có sách mách có chứng" và để tránh cái lỗi:
"Ly kinh nhứt tự tiện đồng ma thuyết".
Mong rằng việc làm nầy sẽ đem lại lợi ích cho Phật tử trong và ngoài nước
hiện tại cũng như tương lai, mà các bậc tiền bối đã bỏ không biết bao
công sức để làm cho Phật pháp tồn tại đến thế hệ chúng ta.
MONG THAY
Nhóm Phật tử Phù Sa
tháng 9-2001
[*] Cung Ðình Hướng, Chơn Chánh, Liên Tâm của thư viện điện tử Hoa Sen ở
Mỹ.
TRA LẠI KINH SÁCH: TRAI VÀ
CHAY
Lương
Khải Siêu có nói: "Ta có mắt để thấy, có tai để nghe, có trí để suy
nghĩ, đối với cổ nhân, có lúc ta kính như thầy, có lúc ta trọng như bạn,
có lúc ta cũng coi thường, ta quyết vì chơn lý chớ không làm nô lệ cho
cổ nhơn".
Cổ
Ðức cũng có nhắc nhở chúng ta: "Kim nhơn khán cổ giáo, vị miển tâm trung
náo, dục miển tâm trung náo, ưng tu khán cổ giáo (Người đời nay xem sách
giáo lý đời xưa, không khỏi tâm bị rúng động, nhưng muốn tâm khỏi rúng
động, thì nên xem lại sách giáo lý đời xưa)".
Vậy chúng ta thử phối kiểm các kinh sách Phật giáo đã được ghi chép, dịch
giải, biên soạn trong và ngoài nước coi ra sao?
Quyển "Lịch sử Phật pháp" của Hòa thượng Hộ Tông trích dịch, ấn
hành 1954, trang 52 - 54 ghi rằng:
Trích trong "Phật học tự điển"
- Trai hựu tác thời: Chữ
trai lại là thời.
- Trai thực, thời thực giã: Ăn trai là ăn đúng giờ vậy.
- Trai giã vị bất quá trung thực: Trai ấy, nói là sự ăn không quá ngọ.
- Chánh ngọ dĩ tiền sở tác chi thực sự giả: Ðúng ngọ về trước là thời
điểm việc ăn vậy.
- Giới luật thượng: Trên giới luật.
- Ư thực phân thời, phi thời: Nơi sự ăn, chia giờ và chẳng phải giờ.
- Chánh ngọ dĩ tiền vi chánh thời: Ðúng ngọ về trước là đúng thời.
- Dĩ hậu vi phi thời: Về sau là chẳng phải thời.
- Thời giã nghi thực: Ðúng thời nên ăn.
- Phi thời giã bất nghi thực: Sái giờ chẳng nên ăn.
- Nhơn di thời trung chi thực vi trai thực: Nhơn đó sự ăn trong giờ là
ăn trai.
- Từ điển viết: Từ điển nói.
- Trai: Giới giả, kĩnh giã: Trai là giới vậy, kính vậy.
- Thị thông ư nhất thiết: nghĩa suốt tất cả nơi.
- Phạn danh Ô-Bô-Sa-Tha: Tiếng Phạn là Uposatha.
- Hựu viết bố tác: Lại gọi là Bố Tác.
- Thuyết thức giả: Nói cho biết.
- Thanh tịnh chi nghĩa: Nghĩa là trong sạch.
- Hậu chuyển viết trai viết thời: Sau đổi, nói trai là thời.
- Chánh chỉ bất quá trung thực chi pháp: Ý chính là nói phép ăn không
quá ngọ.
- Thủ chi viết trì trai: Vâng giữ như vậy gọi là trì trai.
- Thị vi trai chi bãn nghĩa: Thật là nghĩa gốc chữ trai.
- Nhiên hậu hựu nhứt chuyển nhi vi bất vi nhục thực: Về sau đổi lại tất
cả là không ăn thịt.
- Thử nhơn Ðại thừa giáo chi bản ý: Ðó là do bản ý của Ðại thừa giáo.
- Chí trọng cấm nhục thực: Rất nặng về sự cấm ăn thịt.
- Toại viết trì trai giã, cấm nhục thực giã: Bèn gọi là người trì trai
vậy, là cấm ăn thịt vậy.
- Tinh tấn vân giã, duy bất nhục thực chi sự giã: Nói rằng tinh tấn chỉ
là việc không ăn thịt vậy.
1.
PHẬT GIÁO VÀ SỰ
ĂN CHAY
Quyển "Ðức Phật lịch sử" nguyên tác: H.W. SCHUMANN, việt dịch: Trần
Phương Lan, Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành 1997, trang 243 -
245 ghi rằng:
Vị
y sĩ hỏi Ðức Phật về thái độ của Ngài đối với việc sát sinh và cách dùng
thực phẩm toàn rau quả (trường trai):
-
"Bạch Thế tôn! Con nghe nói rằng nhiều súc vật bị giết vì Ngài, và Ngài
dùng món thịt đặc biệt dành để cúng dường Ngài, có đúng vậy chăng?
-
Nầy Jìvaka! Bất cứ ai nói như vậy là không nói sự thật. Ðúng ra, Ta nói
rằng thịt không được nhận làm món khất thực trong 3 trường hợp nếu ta
thấy, nghe và nghi ( con vật ấy bị giết vì vị Tỳ kheo nầy) song nếu
không phải các trường hợp trên thì vị Tỳ kheo có thể thọ dụng món thịt.
Nếu một vị Tỳ kheo đi khất thực trong thôn xóm hay thị trấn với tâm từ
(Mettà) biến mãn khắp mọi chúng sanh và một gia chủ mời vị ấy thọ thực
ngày mai, vị ấy có thể nhận lời. Nhưng trong lúc vị ấy đang thọ thực
ngày hôm sau tại nhà kia, vị ấy không nên nghĩ là vẫn ước mong được mời
một bữa cao lương mỹ vị như vậy thêm lần nữa. Vị ấy nên thọ dụng món
khất thực mà không tham đắm lạc thú ẩm thực. Nầy Jìvaka! Ông có nghĩ
rằng một Tỳ kheo làm như vậy là tự hại mình và hại người khác không?
-
Thưa không, bạch Thế tôn!
-
Nầy Jìvaka! Nếu ông nói đến sự cố ý tận diệt của Ta thì điều đó chỉ đúng
theo ý nghĩa duy nhất nầy: "Ta đã đoạn diệt tham, sân, si ở trong Ta
khiến cho chúng không thể sanh khởi được nữa trong tương lai. Bất cứ kẻ
nào sát sanh vì Ta hay một đệ tử của Ta sẽ phạm một ác nghiệp gồm có 5
phần, đó là dẫn con vật đi. hành hạ nó (lúc lôi kéo), giết chết nó và do
vậy hành hạ nó thêm lần nữa và cuối cùng là cúng dường Ta và đệ tử Ta
không đúng chánh pháp". (MN. 55 lượt thuật). [*]
[*] Trung bộ số 55, kinh Jìvaka (Bản dịch của Hòa thượng Thích Minh Châu
2. LỤC TỔ HUỆ NĂNG VÀ SỰ ĂN
CHAY
Quyển "Pháp bảo đàn kinh" do Ngài Linh Thao (Pháp Hải) ghi lại bằng
Hán văn, Hòa thượng Thích Nhật Long dịch nghĩa và phụ chú ấn hành 1970,
trang 38 - 39 ghi rằng:
Chánh văn "Hậu huệ năng chí Tào khê, hựu bị ác nhơn tầm trục nãi ư Tứ hội
tị nạn lạp nhơn đội trung, phàm kinh thập tải, thời giữ lạp nhơn tùy
nghi thuyết pháp. Lạp nhơn thường linh thủ võng, mỗi kiến sanh nạng tận
phóng chi, mỗi chí phạn thời dĩ thể ký chữ nhục oa, hoặc vấn đối viết:
Ðản khiết nhục biến thể".
Dịch nghĩa:
Huệ Năng sau đến Tào Khê lại bị bọn người ác tầm theo, bèn đến Tứ hội lánh
nạn trong đội thợ săn, trải qua 15 năm, có khi tùy phương tiện nói Pháp
cho bọn thợ săn nghe. Thọ săn thường sai tổ giữ lưới, mỗi khi thấy thú
mắc lưới tìm cách thả, khi đến bữa ăn thời hái rau luộc chung trong nồi
thịt có ai hỏi thì nói: "Tôi ưa ăn thịt thấm trong rau".
Phụ chú:
15
năm ẩn trong bọn thợ săn Tổ tùy phương tiện thuyết pháp dạy cho người
cải một ít ác theo một ít thiện, chớ chưa đủ cơ duyên lập Tông. Lén mở
thả thú là lòng từ nặng hơn chữ tín. Sợ người biết truy tầm nên phương
tiện luộc rau trong nồi thịt ăn, thế mà có người hỏi lại nói khéo, vì ưa
ăn thịt thấm trong rau, chớ không nói ăn chay theo đạo Phật. Ðời sau có
người không hiểu lại nói Tổ không cần ăn chay.
Học theo Tổ đến đoạn nầy chúng ta mới thấy vấn đề ăn chay: Nhiều người lầm
ăn chay theo tư tưởng của thuyết nào đó dạy ăn chay để luyện tâm cho nhẹ
biết bay biết biến hóa chi đó! Cho nên họ ăn chay rất kỷ, kỷ là sao? -
Họ sợ hôi tanh thịt cá. Vì thế bắt đầu ăn chay một ít ngày gì đó, họ kỹ
lưỡng và khó khăn làm sao! Rầy con mắn cháu: Không lo sắm nồi sạch chén
mới, đủa tinh cho họ ăn mau thành? Ăn chay mà lầm như vậy cho nên có
nhiều người ăn chay rất nhiều ngày, ăn chay trường nữa, nhưng họ dám hà
lạm, gian manh, sát hại cho có lợi lấy tiền sắm đồ ăn chay. Ăn chay mà
việc làm cũng vẫn vô nhân, vô nghĩa, chửi rủa, mắng nhiếc, sát hại thì
bảo sao người ta chẳng mĩa mai:
"Si mê nghiệp chướng không chừa,
Bo bo mà giữ tương dưa ích gì "
Theo ý Tổ ăn chay là vì lòng từ bi: Thương người, thương vật, không nở vì
miếng ăn mà lường gạt gian manh, tham lam, lường gạt của người; không nở
nhẫn tâm sát hại sanh mạng hay ẩn ý xúi giục người sát hại cho mình ăn.
Tổ ăn chay không phải sợ hay chê hôi tanh thịt cá, cũng không để luyện
xác thân, mà ăn chay vì lòng từ bi bao la cao cả thương người thương
vật.
Ðấy là Tổ sư giòng thiền Tào Khê Trung Quốc cũng không quá cố chấp tập
quán ăn chay.
3.
TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ VÀ SỰ
ĂN CHAY
Quyển "Lịch sử Phật giáo Việt Nam" do Minh Chi - Lý kim Hoa - Hà
thúc Minh - Hà văn Tân - Nguyễn tài Thư biên soạn. Ủy ban khoa học xã
hội Việt Nam Viện Triết Học ấn hành. Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà nội
- 1991, trang 256 - 258 ghi rằng:
"Hãy sống hòa vào đời, không làm trái quy luật tự nhiên đó là nguyên tắc
sống của Tuệ trung thượng sĩ. Trần Nhân Tông đã từng viết về Tuệ trung:
"Hổn tục hòa quang, dữ vật vị thường xúc ngổ" [*] (Sống chung cùng đời
tục, hòa ánh trong bụi bặm, đối với mọi vật chưa từng xúc phạm hay làm
trái ngược). Lời nhận xét của người học trò về người thầy của mình thật
chính xác.
[*] Trong bài Thượng sĩ hành trạng
Thật dễ hiểu, khi từ nguyên tắc sống theo quy luật tự nhiên, Tuệ trung bác
bỏ việc ăn chay, trì giới. Các bài kệ sau nói lên rất rõ quan điểm nầy:
Khiết thảo dữ khiết nhục
Chúng sinh các sở thuộc
Xuân lai bách thảo sinh
Hà xứ kiến tội phúc
Trì giới kiêm nhẫn nhục
Chiêu tội bất chiêu phúc
Dục tri vô tội phúc
Phi trì giới nhẫn nhục
Như nhân thượng thụ thì
An trung tự cầu nguy
Như nhân bất thượng thụ
Phong nguyệt hà sở vi.
Ý
bài kệ thật rõ ràng: Ăn cỏ hay ăn thịt là các loài khác nhau của sinh
vật. Ðiều đó cũng tự nhiên như mùa xuân đến thì cây cỏ mọc lên. Như vậy,
sao lại coi là tội hay phúc trong việc ăn cỏ hay ăn thịt được. Trì giới
(giữ điều răn) và nhẫn nhục chỉ đem lại tội chứ không đem lại phúc. Phải
biết rằng tội và phúc đâu ở chỗ trì giới và nhẫn nhục. Giữ gìn, chịu
đựng như vậy cũng giống như người trèo lên cây, đang ở dưới đất yên ổn
lại đi tìm cái nguy hiểm, nếu không trèo lên cây thì dù có gió lay nữa
cũng chẳng việc gì!
Trì giới (Sìla) và nhẫn nhục (Khanti) là 2 điểm quan trọng trong hạnh lục
độ của Phật giáo, thế mà Tuệ trung đã gạt bỏ một cách táo bạo.
Sống theo qui luật nên không sợ quy luật và tìm được tự do"
Ðấy là Tổ sư giòng thiền Trúc lâm Việt Nam cũng không quá cố chấp tập quán
ăn chay.
4.
TAM TẠNG PÀLI VÀ SỰ
ĂN CHAY
Quyển "Kinh Tiểu bộ" tập I (số thứ tự 28) Việt dịch: Hòa thượng
Thích Minh Châu. Nhà xuất bản TPHCM ấn hành 1999, trang 542 - 547 ghi
rằng:
(II) KINH HÔI THỐI (Amagandha)
(Sn. 42)
Bà
la môn:
239. "Các bậc thiện chơn chánh
Ăn hạt giống cây thuốc
Ăn đậu đũa, đậu rừng
Ăn lá, ăn rễ cây
Ăn trái các dây leo
Nhận được thật đúng Pháp
Vị ấy không nói láo
Vì các dục thúc đẩy.
240. Ôi Ngài Kassapa
Ai ăn các món ăn
Do người khác bố thí
Khéo làm khéo chưng dọn
Trong sạch và thù thắng
Ăn lúa gạo thơm ngon
Ai ăn uống như vậy
Là ăn thịt hôi thối.
241. Nầy Bà con Phạm thiên
Chính Ngài tuyên bố rằng:
Ta không ăn đồ thối
Ðể nuôi sống thân ta
Nhưng Ngài ăn món ăn
Bằng lúa gạo thơm ngon
Ăn thịt các loài chim
Nấu ăn thật khéo léo
Ta hỏi Kassapa:
Ý nghĩa sự kiện nầy
Ngài định nghĩa thế nào
Là ăn đồ hôi thối!
Ðức Phật Kassapa:
242. Sát sanh và hành hình
Ðã thương và bắt trói
Trộm cắp và nói láo
Man trá và lừa đảo
Giả bộ kẻ học thức
Ði lại với vợ người
Ðây là đồ ăn thối
Ăn thịt không phải thối.
243. Ở đời các hạng người
Không chế ngự lòng dục
Ðam mê các vị ngon
Liên hệ đến bất tịnh
Theo chủ nghĩa hư vô
Bất chánh khó hướng dẫn
Ðây là đồ ăn thối
Ăn thịt không phải thối.
244. Ai thô bạo dã man
Sau lưng nói dèm pha
Phản bạn không từ bi
Lại cống cao ngạo mạn
Tánh không có bố thí
Không cho ai vật gì
Ðây là ăn đồ thối
Ăn thịt không phải thối.
245. Phẫn nộ và kiêu mạn
Cứng đầu và chống đối
Man trá và tật đố
Nói vô ích, huênh hoang
Ngã mạn và quá mạn
Thân mật với kẻ ác
Ðây là ăn đồ thối
Ăn thịt không phải thối.
246. Ác giới, nợ không trả
Làm người điểm chỉ viên
Làm những nghề dối trá
Ở đây, kẻ giả vờ
Ở đây, người bần tiện
Những người làm ác nghiệp
Ðây là ăn đồ thối
Ăn thịt không phải thối.
247. Ở đời, đối hữu tình
Người không biết kiềm chế
Lấy cướp sở hữu ngưới
Chú tâm làm hại người
Ác giới và tàn nhẫn
Ác ngữ, thiếu lễ độ
Ðây là ăn đồ thối
Ăn thịt không phải thối.
248. Hạng tham ô, thù nghịch
Tìm cách để sát hại
Luôn luôn hướng về ác
Sau chết, sanh tối tăm
Chúng sanh ấy rơi vào
Ðịa ngục đầu xuống trước
Ðây là ăn đồ thối
Ăn thịt không phải thối.
249. Không phải do cá thịt
Cùng các loại nhịn ăn
Không phải do lõa thể
Ðầu trọc và bện tóc
Không do tro trét mình
Mặc da thú khô cứng
Không phải do săn sóc
Nuôi dưỡng và tế tự
Không do nhiều khổ hạnh
Ðể được chứng bất tử
Không bùa chú cúng tế
Các tế đàn thời tiết
Làm con người trong sạch
Nếu nghi hoặc chưa đoạn.
250. Do sống hộ trì căn
Với các căn nhiếp phục
Vững trú trên chánh pháp
Thích chân trực, hiền hòa
Vượt khỏi các tham ái
Ðoạn tận mọi khổ đau
Bậc trí không nhiễm dính
Ðiều được thấy, được nghe.
251. Nhiều lần, Thế tôn thuyết
Ý nghĩa lời dạy nầy
Bậc bác học kệ chú
Thâm hiểu ý nghĩ ấy
Bậc ẩn sĩ nói lên
Với những kệ tuyệt diệu
Bậc không ăn đồ thối
Ðộc lập khó hướng dẫn.
252. Nghe xong những lời dạy
Lời Thế tôn khéo nói
Chấm dứt ăn đồ thối
Ðoạn tận mọi khổ đau
Vị ấy đảnh lễ Phật
Với tâm ý nhún nhường
Thỉnh cầu được cho phép
Xuất gia tại nơi đây".
Ðấy là vấn đề ăn chay không phải là một trong tám muôn bốn ngàn pháp môn
của Ðức Phật Gotama mà chỉ là "Giáo ngoại biệt truyền" thôi!
(Thuật ngữ pháp môn dịch từ chữ Dhammakhandha, nếu dịch sát văn là Pháp
uẩn nghĩa là nhóm pháp, đoạn văn, căn cứ vào kỳ kết tập Tam Tạng lần thứ
3: Tạng kinh có hai muôn một ngàn Dhammakhandha; Tạng Luật có hai muôn
một ngàn Dhammakhandha; và Tạng Adhidhamma có bốn muôn hai ngàn
Dhammakhandha, cộng chung Tam Tạng (Tipitaka) có đến 84.000
Dhammakhandha hay pháp môn).
5.
CƯ SĨ TRÙNG QUANG VÀ SỰ
ĂN CHAY
Quyển "Chọn đường tu Phật" của cư sĩ Trùng Quang ấn hành 1955. tập
II, trang 21 - 29 ghi rằng:
"Tân Tiến trọng chay khinh giới, Bảo Thủ trọng giới khinh chay. Phật tử
trong 2 phái nên tạm gác các thành kiến một bên, dùng óc sáng suốt, lặng
xét phải quấy trong 2 phương hướng đối chọi, để cải thiện thể thức tu
hành cho hợp lý".
VỀ PHẦN ĂN CHAY
-
Sự ăn chay phát xuất từ Ấn Ðộ, do 2 nguồn gốc:
1.
Tập quán dùng lê hoát của người Ấn Ðộ thuộc dòng Bà la môn, chiếm độc
quyền làm trung gian giữa thần Ba la ma và 3 giai cấp dưới (võ sĩ,
thương gia, nô lệ) trong việc cầu đảo cùng tế.
2.
Lời thỉnh cầu của Devadatta (Ðề bà đạt đa) đệ lên xin Phật Gotama bắt
buộc các thầy Tỳ khưu trong Phật giáo ăn toàn đồ lê hoát trọn đời [1].
Phật Gotama không phê chuẩn, nhưng để cho tín đồ tùy thích dâng cúng bố
thí [2].
[1] Ðề bà đạt đa xin Phật bắt buộc các thầy Tỳ khưu trọn đời : Phải ở
nơi rừng, khất thực nuôi mạng sống, ăn chay trường, mặc y phục làm bằng
vải dơ lượm nơi tha ma mộ địa, ở dưới cội cây. Vì thấy thói đời quý
trọng những khổ hạnh, Ðề bà đạt đa muốn lợi dụng tâm lý ấy, để tranh
ngôi Giáo chủ với Phật
[2] Vì đây là cách thức nuôi mạng chẳng phải phương pháp trau dồi thân
khẩu.
Sự
ăn chay của dòng Bà la môn là một qui luật lưu truyền từ thượng cổ, nên
họ coi như là một thói thường, không có tính cách quan trọng. Ðề nghị
của Ðề bà đạt đa dựa theo tục lệ trên để chứng tỏ rằng người tu trong
Phật giáo cũng thuộc dòng cao thượng như Bà la môn [3].
[3] Phật thường nói người cao quý, do lòng cao quý, chẳng phải vì dòng
cao quý
Một số đông đệ tử của Phật là người thuộc dòng Bà la môn. Ngoại trừ những
bậc đắc đạo quả và những người xin nhập môn với chí nguyện giải thoát,
có nhiều hạng giả dạng tu hành để tìm cách tái lập uy tín của đạo Bà la
môn, hoặc để nuôi mạng, trong khi đạo giáo của họ bị dân chúng phế bỏ.
Các hạng Tỳ khưu không có mục đích chơn chánh ấy, tạm thời buộc lòng ở
nơi hệ thống Tăng già, nhưng lòng họ vẫn không khâm phục Phật Gotama,
hằng chờ cơ hội gieo mầm móng của đạo họ trong tư tưởng tứ chúng, hầu
ngày kia lật đổ Phật giáo, như đã giải nơi chương Lịch Sử (quyển I).
Chính các thầy Bà la môn trá hình nói trên đã làm hậu thuẩn cho Ðề bà
đạt đa khuấy nhiễu Phật nhiều khi, và cũng chính họ đem thuyết ăn chay
thay thế cho giới luật Tân tiến sau nầy, khi Phật Gotama tịch diệt.
Một thói quen muôn phần dễ dàng hơn giới luật nghiêm khắc, ai lại không
hoan nghinh. Với cái khẩu hiệu "Ăn chay để cử sát sanh và nuôi lòng từ
bi đối với muôn loài vạn vật" ai lại không mê thích. Nhưng có mấy ai
biết rằng, mỗi khi cúng tế thần, các thầy Bà la môn giết bao nhiêu sanh
vật như trừu, dê, trâu, bò và đồng nam, đồng nữ, mà không gớm tay. Thầy
Huyền trang, khi qua Ấn Ðộ thỉnh kinh, cũng suýt bị họ làm thịt cúng
thần Durgà, tại Prayàga (hiện giờ là Allahabad) trên sông Găng.
Người Bà la môn từ già đến trẻ cả vợ lẫn chồng, đều ăn chay, mà lòng họ
mấy chay? Ta nên biết rằng lòng từ bi cũng như tinh thần siêu việt,
không phải ở trong chỗ "ăn". Nói cho rõ hơn, cái ăn chẳng phải phương
pháp rửa tâm.
Tâm tối mê ví như nước đục, dùng lê hoát lóng cho nước trong, nước không
bao giờ trong được. Tâm là vật vô hình, thân khẩu là chỗ của tâm biểu
hiện. Không dùng giới luật để câu thúc thân khẩu, biết tâm đâu mà chế
ngự? Vì đó mà Phật Gotama đặt ra những điều răn cấm để cho chúng ta kềm
chế thân khẩu, hầu sửa trị tâm, không cho tâm tự do hành động, nhất là
duyên theo điều ác.
Như ta đã thấy, trong phương diện nào các thấy tu Tân tiến cũng muốn tỏ ra
rằng họ giỏi hơn Phật. Thử hỏi người tu Phật chơn chánh, muốn tìm đường
giải thoát, nghĩ thế nào? Ðại thừa Phật giáo mà chúng ta hấp thụ từ Ấn
Ðộ, Trung Hoa, Cao ly, Nhật Bổn hiện giờ ở trong tình trạng nào? Chúng
ta có nên đeo đuổi theo tập quán "bỏ giới chấp chay" không?
Theo tục lệ xưa nay, cư sĩ chúng ta có 4 cách ăn chay: 2 ngày, 6 ngày, 10
ngày và trường chay. Bậc xuất gia, lẽ thì trường chay, nhưng có nhiều
thầy cũng giữ 2 ngày, 6 ngày, 10 ngày như cư sĩ.
Không có thói quen như người Bà la môn nên chúng ta xem sự ăn chay như một
việc quan trọng đặc biệt. Gặp nhau, muốn biết ai tu cao, tu thấp người
ta thường gợi chuyện ông hay bà ăn chay mấy ngày trong tháng? Ðây là cái
hãnh diện mà người Phật tử Việt Nam hay bộc lộ trong câu chuyện hàn
huyên, làm cho mất vẽ lịch sự và thương tổn đức tánh khiêm tốn của con
nhà Phật.
Ngoại trừ những người có khấn vái để cầu xin một ân huệ chi, hoặc những
người bị bệnh phải kiêng cữ đồ mặn, hàng Phật tử lấy sự ăn chay làm
thước đo lường trình độ tiến hóa trong việc tu hành. Ngày ăn chay một
ngày là một ngày lành, bởi trong ngày ấy ai ai cũng cố gắng kiêng cữ
điều ác. Kiêng cữ là tạm ngưng, chớ không phải dứt bỏ, để ngày mai tiếp
tục lại đường lối cũ.
Người có tâm đạo, nhất là các cụ ông, cụ bà, hết sức kỹ lưỡng trong món
ăn. Bếp núc, nồi nêu, chén bác đều để riêng biệt, không ai được phép
trộn lộn với đồ dùng mặn. Cách kiêng cữ tinh nghiêm như thế ấy thật là
hoàn toàn. Nhưng đôi khi, vì quá tin lời truyền dạy của thầy tổ, các cụ
phải chứng minh cho người cắt cổ gà, vịt hoặc thọc huyết heo trong ngày
đơm quẩy. Ðể chi? Ðể tụng bảy biến vãng sanh cầu siêu cho những con vật
bị giết. Thầy tổ đã có nói rằng hạ trâu ngã bò để báo hiếu, hoặc cúng
thần linh thì không có tội lỗi chi cả. Chính đây là phong tục của Bà la
môn giáo [*]. Tin rằng giết thú để cúng thần, đã không tội lại còn có
phước, các thầy Tân tiến đã sửa luật nhân quả của Phật dạy, theo tín
ngưỡng của Bà la môn.
[*] Quyển "Phật học từ điển" của ông Ðoàn trung Còn, tập nhì, in kỳ đầu
1967, trang 728 ghi rằng: "Nhà tu Phật chẳng những không nên sát, mà còn
đem lòng từ bi mà tha thứ, mà cứu độ, mà phóng sanh. Tuy vậy, có khi
Phật tử phải sát, mà không có tội, chẳng bị đọa lại còn được thêm công
đức. Tỷ như có những kẻ ác tâm hủy phá chùa chiền, Phật tượng, hành hạ
chư Phật tử trước mặt mình, mình vì ủng hộ Tam bảo nên buộc lòng phải
sát, nhưng sát mà chẳng có ác tâm" - Ôi lòng từ bi của chủ nghĩa
ăn chay thật tuyệt diệu !
Chơn lý chỗ nào? Từ cái mâu thuẩn nầy, chúng ta bị dẫn dắt đến cái mâu
thuẩn khác, mà chúng ta vẫn thản nhiên không quan tâm suy xét.
Ðấy là "Không chê đồ chay, nhưng không chấp nhận thành kiến ăn chay" nếu
quả có sự kiện ấy thật?!
VỀ
PHẦN GIỚI LUẬT
*
Bây giờ xin hỏi người giữ ngũ giới có nên ăn chay không?
- Ăn thì quý lắm, nhưng chớ nên cố chấp đó là đồ chay, mà không ăn cũng
không sao.
*
Vậy thì chỗ nào gọi là cử sát sanh?
- Tự mình không giết, không xúi biểu kẻ khác giết, không nghe, không
thấy người ta giết cho mình ăn.
*
Chớ người ta giết cho mình ăn, mặc dầu không xúi biểu, cũng phải mang
tội đồng lõa, bởi có mình ăn mới có người giết?
- Tâm không gây nhân, quả không chỗ sanh, nghiệp không tạo, tội do đâu
mà báo ứng.
*
Tâm ưa thích thịt cá, thân đi mua về ăn, sao gọi là không gây nhân?
- Tâm vẫn bình đẳng, không chấp chay, cũng không thiên mặn; đây chỉ là
thói quen của vật chất đòi hỏi.
*
Có tâm dung túng chấp thuận, nên sự đòi hỏi của vật chất mới được thỏa
mãn chớ!
- Ðúng vậy, nhưng tâm đâu có chủ trương giết, hoặc xúi giục kẻ khác
giết, tai không nghe, mắt cũng không thấy. Cả thân lẫn tâm không vi phạm
một điều kiện khinh trọng nào trong giới sát sanh kia mà.
*
Không phạm, nhưng đã thấy biết thịt cá, mà còn nhẫn tâm ăn vào, thì lòng
từ bi của Phật tử ở chỗ nào?
- Tín đồ đã bị đầu độc nhiều rồi, giờ nầy còn đem cái từ bi giả dối ấy
ra quảng cáo không ai tin đâu. Từ bi đối với chúng sanh đương bay đương
chạy, không nở giết nó để nuôi mạng. Ðó là từ bi thực sự, còn từ bi đối
với miếng thịt, khứa cá, là từ bi dối trá, từ bi ngoài lỗ miệng của
người bị nhồi sọ. Tu hành, trong giới sát sanh, chưa biết Phật dạy những
gì, mà muốn tỏ ra mình hơn Phật.
*
Phi lý: Phật dạy kiêng cữ thịt cá, người ăn thịt cá là người cải lời
Phật. Cải lời Phật, tức là muốn hơn Phật đó vậy.
- Phật dạy cử giết, chúng ta cử ăn ấy mới phi lý, Phật dạy giữ 5 giới,
chúng ta không giữ một giới nào, ấy mới là hơn Phật.
* Ăn chay không phải giữ giới
hay sao?
- Ðã nói rằng "ăn" không phải giới. Không thấy đem "giới" ra nói chuyện,
cứ đem cái ăn ra bàn hoài không rồi.
*
Vậy chớ sao, nó là vấn đề căn bản mà (Có thực mới giật được đạo, dĩ thực
vi tiên).
- Phải, nó là vấn đề sanh tử của dạ dầy; nào phải vấn đề cần thiết của
giải thoát. Chỉ có cái nghệ thuật "ăn" quanh năm quẩn tháng giải quyết
không xong.
*
Ðề mục "thịt, cá" tham khảo chưa dứt khoát, nên muốn bàn cải cho ra lý
đó thôi.
- Nên tìm những hành giả đã tu chứng được cái quả "từ bi" mà hỏi thì ra
ánh sáng.
- Nghe nói họ lấy thịt và cá làm đề mục để trước mắt rồi quán tưởng cho
thấy con thú bị cột trói khiên đến lò thịt bị hành quyết kêu la thảm
khốc, rồi bị phân thây xẻ thịt đem đi bán; hoặc thấy con cá đương bơi
lội tự do dưới nước, kế bị mắc câu, kéo lên bờ, ngộp thở giảy giụa rồi
chết. Thấy cảnh tượng đau khổ như vậy, lòng từ bi vô lượng phát sanh
lên, từ đó đến sau họ không nở ăn thịt cá nữa. Mình cũng muốn kinh
nghiệm như họ; ngồi trước mâm cơm cũng ra sức quán tưởng, không thấy từ
bi ứng hiện chút nào, trái lại mùi vị thịt cá xông lên thơm mũi, bắt
trớn ních đầy bụng rồi lại thấy thỏa mãn là khác ... Cho nên dù trường
chay mà lòng còn tham lam, sân hận, tà kiến vẫn sa địa ngục, không còn
tham lam, sân hận, tà kiến trong lòng dù không ăn chay cũng sanh lên
Thiên đàng.
*
Trường chay còn sa địa ngục, mà người giữ giới còn ăn thịt cá mà cũng đi
thiên đàng được sao?
- Người trước không thể sánh với người sau, bởi họ sợ giới mà không sợ 4
đường ác đạo. Người sau hơn người trước bởi họ nhờ giới để ngăn ngừa tội
lỗi. Người trước chay trong lý thuyết, người sau chay theo thực tế.
* Thực tế trong chỗ ăn mặn phải
chăng?
- Thực tế trong chỗ không quanh quẩn, không miệt mài trong cái ăn, không
tự đắc với cái ăn, mà trầm tỉnh trong chỗ trau dồi thân khẩu.
Tu không lo cứ lo tranh chấp hoài về cái ăn, đã nói khô nước miếng mà
câu chuyện vẫn không rồi. Bao giờ chúng ta phá được cái chấp, thì vấn đề
ăn mới có thể chấm dứt được.
*
Vì chúng ta còn ăn mặn, ít nhứt cũng 20 ngày trong tháng, nên vẫn còn
thắc mắc, hoài nghi đó thôi. Giải thích cho xuôi vấn đề ăn mặn thì cái
chấp kia mới không còn tồn tại.
- Tu cốt để phá chấp, mà cả thầy lẫn trò chúng ta mặc dầu đại đa số cũng
không dứt bỏ nổi cái mặn, cứ bám chặc vào lý thuyết chay, nghĩ thật buồn
cười. Ðức Phật đã phá chấp cho Ðề bà đạt đa, mà ông nầy vẫn ngoan cố,
chúng ta tài nào thức tỉnh môn đệ của ông.
Ðể
chấm dứt câu chuyện ăn mặn, xin trình bày một vài ngu kiến:
Nên nhớ rằng nghiệp dữ nghiệp lành đều do tâm tạo ra. Các đồ tể và bạn
hàng tôm cá vì quyền lợi cá nhân mà họ phải giết thú hại vật để bán kiếm
lời. Họ giết nhiều, giết ít túy theo nhơn số của hai hạng người tiêu
thụ:
Một hạng chẳng bao giờ lập tâm tính trước phải ăn món nào trong ngày; chờ
ra chợ gặp gì mua nấy. Người vô tình, tức vô can, vô tội. Hạng khác
thường lập ra sẳng một thực đơn trong ngày, bằng chẳng vậy, nếu thích
món chi, họ cố tìm kiếm cho ra món ấy, với giá nào cũng mua cho bằng
dược, và nếu kiếm không ra, họ đòi hỏi bạn hàng, nay không được thì mai
cũng có cho họ dùng. Cố ý như hạng nầy, tức đồng lõa cố sát.
Một đàng gặp chi ăn nấy, dầu thịt cá, lê hoát không cố chấp đây mặn, kia
chay và xem các thức ăn ấy như vật chất bên ngoài để bồi bổ vật chất bên
trong, đủ sống ngoài vòng tội lỗi, sống theo trung đạo của giới luật.
Ðàng khác lại phân biệt gắt gao chay với mặn. Khi ăn chay họ ăn toàn đồ
lê hoát, lúc ăn mặn họ mạnh dạng đòi hỏi hoặc tự giết heo, bò, gà, vịt.
Lắm khi ngoài miệng họ thiên về chay, trong lòng họ lại ngã qua mặn, cho
nên đồ chay cũng có tên mặn: Nào là cá hấp, mắm ruột, sườn xào, tôm kho
...(nếu lòng không ngã qua mặn thì đặt tên mặn làm gì, đấy là ăn chay
nói dối). Tóm lại họ sống trong lợi dưỡng, sống ngoài vòng pháp luật nhà
Phật, nên họ thành người cực đoan. Vì đó mà chay họ cũng chấp, mặn họ
cũng chấp. Hai cái chấp đã ăn sâu vô xương tủy trí não, hết còn xét đoán
được phải quấy, chánh tà. Cho nên Ðức Phật có nói rằng: Số người sanh về
nhàn cảnh sánh như sừng bò (có 2, quá ít); số người sa vào ác đạo như
lông bò (vô số kể).
Tới đây đã cạn lời xin chấm dứt vấn đề "ăn".
Ðấy là "Không chê đồ chay, nhưng không chấp nhận thành kiến ăn chay" kiểu
đó, nếu có thật (hình như thật rất nhiều).
6.
SƯ THIỆN CHIẾU VÀ SỰ AN CHAY
Quyển "Tranh Biện" của Xích Liên xuất bản 1929 - 1932, quyển
thượng, trang 151 - 169 ghi rằng:
Coi Ai là tà thuyết.
"Ai nói Ta có thuyết pháp tức là mắng Ta" (Thích
Ca Mâu Ni.)
"Phật thuyết pháp 45 năm, chuyên trị có một chứng bệnh "chấp trước", vì
"chấp trước" là nguồn gốc thống khổ của người đời. Phật tùy cái bệnh
"chấp ta chấp cảnh" mà cho thứ thuốc pháp "vô ngã vô thường", tùy bệnh
"có" mà cho thuốc "không", tùy bệnh "không" mà cho thuốc "chẳng không
chẳng có". Bệnh có nhiều chứng, thì thuốc phải có nhiều phương, mà cũng
dều trị lành được cái bệnh "chấp trước".
Nhưng, vì hiểu thấu tâm lý của người đời, Phật còn lo xa nữa, lo có kẻ lầm
tưởng thứ thuốc của mình uống là trị được hết các chứng bệnh ở thế gian,
lo có người hiểu sai rằng thứ pháp của mình nghe là hợp hết căn cơ của
quần chúng, lo có kẻ cố thuốc mà thêm đau, lo có người chấp pháp mà bị
trói, cho nên Phật mới nói một cách tự nhiên rằng "Ta không có thuyết
pháp đa! Nếu ai nói Ta có thuyết pháp, tức là mắng Ta"
Ai
nấy có hiểu Phật nói cái gì không? Thì Phật bảo chúng ta đừng có một mảy
chấp trước nào, mới thật là hoàn toàn giải thoát.
Thích Ca Mâu Ni! Thích Ca Mâu Ni! Dẩu ai họ có cười tôi là người chưa được
tự chủ, mặc họ, tôi cũng xin cuối đầu mà nhìn nhận Ngài là một đấng từ
phụ, một vị đạo sư, một nhà triết học, một nhà tâm lý học, đại từ đại
bi, đại thánh đại trí, hoàn toàn tuyệt đích ở thế gian nầy!
Phải chi hết thảy hiểu được cái diệu lý của Ngài, thì đâu có "chấp ta"
"chấp pháp", mà xâu xé tranh giành, làm cho thêm thống khổ? Ðau đớn
thay!
Phải chi họ muốn hiểu Phật pháp thế nào thì hiểu ai cấm? Họ muốn bơi xuồng
mà rước một ít người qua lại ở rạch cốc, rạch bần gì thì rước, ai cản?
Ấy là quyền riêng của họ mà. Cái nầy họ đèo bồng rủ thiên hạ tẩy chay
mấy chiếc tàu chạy từ Ðại tây dương qua Thái bình dương, chẳng luận ở
đâu, cũng bảo cứ đi xuồng của mình, ấy mới có sanh giặc!
Ông Hiển Huệ, ông có lòng bênh vực Phật pháp, thật tôi hết sức kính trọng
và vui mừng. Nhưng tôi xin khuyên ông một điều, là trước hết phải tập ăn
nói cho ngay thật, đặng rửa sạch cái "nhục" từ hồi nào đến bây giờ người
ta cứ nói "Ăn mặn nói ngay, ăn chay nói vạy" đó đi đã. Nếu cái "nói vạy"
là cái "di truyền", ông không thể bỏ đi được, thì thôi, xin ông đừng ép
buộc người ta.
Tôi cứ theo sự thật, chép ở trương 21, trong sách P.G.V.Ð của tôi, rằng
Phật có ăn thịt heo rừng của Cunda (Thuần Ðà) dâng cho. Nói thật, ông
bảo là tà thuyết! Ông bảo sao không chịu căn cứ ở kinh Ðại Niết Bàn của
Tàu.
Thưa ông, tôi không tin kinh nào hết. Có tin, cũng không phải tin trọn cả
bộ. Kinh nào nói thật hơn, lời nào nói đúng lý, tôi tin, chẳng riêng của
Nam tôn hay của Bắc tôn.
Rất đổi hồi ông Anan còn hiện tại, cách Phật chưa bao xa, nguyên bài kệ
kinh Pháp cú (Dhammapada): "Nếu người sống trăm tuổi, không tỏ pháp
"sanh diệt", chẳng bằng sống một ngày mà được hiểu rõ đó". Vậy mà đã có
người đọc sái đi rồi: "Nếu người sống trăm tuổi, không thấy hạc già
nước, chẳng bằng sống một ngày mà được ngó thấy đó".
Huống chi cách Phật lâu đời, trải qua nhiều nước, kinh nào cũng tin bướng
theo càn, lời nào cũng cho là lời Phật, không biết suy xét lọc lựa, thì
có khác nào bưng chén thuốc độc mà tự sát một cách vô lý!
Ông bảo: "Ðại phàm nghiên cứu kinh Phật, thì phải lấy thiệt sự học thức
của mình, đem ra mà khảo cứu cho thật kỹ, phân chia tà chánh giả chơn;
ấy là dĩ kinh chứng kinh (lấy kinh nầy làm chứng cho kinh kia) rồi mới
dám làm sách phô trương ra cho muôn người tụng đọc".
Vâng! Thì tôi đã "Dĩ kinh chứng kinh" sao ông không lấy lý trí (Raison) mà
suy xét? Tôi cũng biết trước rằng sẽ có một số người cho kinh Tàu là
đúng hết, nên tôi không dẫn chứng ở quyển Gautama le Bouddha, mà lại dẫn
chứng ở kinh A Hàm, kinh Tàu, trong Ðại Tạng.
Xin ông chịu khó dở quyển trung, trong bộ sách "Lương nhậm công cận trứ đệ
nhứt tập" là một quyển sách chuyên khảo về Phật học, ông sẽ thấy Lương
Khải Siêu tiên sanh lấy con mắt nhà làm sử, dùng phương pháp khoa học
khảo cứu một cách tường tận, ở trương 290, ông chỉ những lẽ gì mà người
thật muốn nghiên cứu Phật học phải nghiên cứu kinh A Hàm. Vậy thì tôi
đem kinh A Hàm mà đối chứng với quyển sách của Soubhara, là một quyển
sách do kinh điển Pàli mà viết ra, tưởng cũng không phải là "vô giá
trị".
Tôi đã biết rồi, biết ông Phật của người ta hiểu, khác với ông Phật của
tôi hiểu; biết cái người ta cử mà mình không kiêng, thế nào cũng sẽ bị
chúng mắng! Bởi vậy, trước khi trích lấy đoạn ấy, lo viện đủ lẽ, mà ngừa
trước đón sau rồi. Vậy mà cũng không tránh khỏi kẻ điếc không sợ sấm!
Trương 21, tôi đã chú giải rằng: "Quả thiệt Phật có ăn thịt heo rừng quay"
sao? Nhưng trong kinh Trường A Hàm (Dirgagamas) thì nói Phật ăn nấm cây
chiên đàn (Candana) của Cunda mà thọ bệnh rồi vào Niết bàn: "... lại có
nấu nấm cây chiên đàn là một món ăn rất quý dâng cho Phật. Phật bảo Châu
Na (Cunda) chớ dọn "nấm" cho các thấy Bí Xu, Châu Na vâng lời Phật dạy
mà không dám dọn cho các thầy Bí Xu".
Tôi thấy kinh Trường A Hàm nói như vậy, nên đặt ra mấy câu hỏi như vầy:
"Nếu thiệt là "Nấm cây chiên đàn sao Phật không cho Châu Na dọn cho các
thầy Bí Xu? Hay là nấm ấy có độc mà Phật không cho dọn các thầy Bí Xu
ăn? Nếu quả nấm ấy có độc, ăn vào có hại đến mạng người, thì sao gọi là
món ăn rất quý? Sao Châu Na lại đem món ấy mà dâng cho Phật?"
Bao nhiêu đó, tôi còn sợ chưa đủ lẽ, lại thêm rằng: "Huống chi Ðê hoa đát
ta sau khi làm hại Phật không được, bèn tự xưng là Ðại sư và chê "Tám
đường chánh" của Phật không phải là chơn đạo, mà "5 pháp" của Va lập ra
mới là chơn đạo: "... 5. trọn đời không ăn cá, thịt, muối, sửa".
Rồi tôi lại đặt ra một câu hỏi: "Nếu 5 phép ấy không khác với Phật pháp
thì sao Ðê hoa đát ta gọi là chơn đạo mà chê "Tám đường chánh" của Phật
không phải là chơn đạo?" (Nếu Ðức Phật và các Tỳ kheo Tăng đã ăn chay,
và đìu ăn chay thì Devadatta còn xin Phật hãy cấm ăn cá, thịt làm gì
nữa? Và nếu Ðức Phật không có ăn cá, thịt thì sao Phật không chấp nhận
lời xin của Devadatta?)
Ông Hiển Huệ, ông bác đoạn sách tôi chép đó là tà thuyết, thì trước phải
trả lời mấy câu hỏi ấy cho suông đã. Tôi dám chắc rằng không bao giờ ông
trả lời được. Có được, chẳng qua ông nói bướng rằng: "Cái đó tại Phật Ðà
Da Xá (Buddhayasas) dịch giả kinh Trường A Hàm thêm vào đoạn ấy!". Nếu
vậy, thì người ta cũng có thể nói: "Nếu kinh Niết Bàn không có đoạn đó,
chắc là dịch giả bỏ bớt", rồi ông mới làm sao?
Nhưng, không ai được quyền gì mà nói rằng Phật Ðà Da Xá thêm vào đoạn ấy.
Nếu quả là "thêm vào" sao không nói trắng ra, mà lại nói trớ là "nấm cây
chiên đàn"? Có gì đâu lạ! Chẳng qua dịch giả đã khổ tâm về chỗ đó: Nếu
nói trắng ra, sợ e hạng phàm tục. xem Phật cũng tầm thường bằng con mắt
thịt của họ, rồi dầu đạo lý có cao thượng cho mấy. họ cũng không thèm
nghe; còn nếu bỏ bớt đoạn ấy đi, thì làm mất sự thật, cho nên cực chẳng
đã phải "nói trớ" vậy thôi.
Ðấy là "để dễ thu hút tín đồ của họ".
Thưa ông, tôi xin nhắc lại với ông một lần nữa: Nếu ông muốn bác đoạn sách
tôi chép đó là tà thuyết, thì trước hết ông phải trả lời cho xuôi mấy
câu hỏi trong sách của tôi đã.
Ông nói: "Nếu cho chắc rằng Phật có ăn thịt, sao sư chưa ngã mặn cho rồi,
còn chờ chừng nào, là vì Phật kia còn ăn thịt, huống chi là đệ tử Phật
còn sợ phạm giới nổi gì?
Tôi chờ chừng nào đã được thành Phật ... nhưng thưa ông, nếu tôi có lòng
chờ thành Phật đặng ngã mặn, thì không biết đời nào kiếp nào mà thành
Phật được. Bởi còn cố ăn quá!
Ở
nước nào thì tôi không biết, chớ trong cỏi Việt Nam nầy, tín đồ ai nấy
hình như họ còn nhớ lời Phật dặn Cunda: "Ngươi phải đem chôn hết món
thịt dư nầy vì không phải Sa Ma Na, các Bờ Ra Măn, loại trời, loại người
được dùng, chỉ có Phật dùng là khỏi hại mà thôi". Cho nên mấy thầy Sa Ma
Na có ghé nhà họ lỡ bữa, họ sợ mắc nhân mạng, có dám "dọn mặn" đâu ông!
Mà
hiện giờ tôi chưa thành Phật, ông bảo tôi sao không ngã mặn cho rồi, bộ
ông muốn giết tôi sao?
Vậy cho ai nấy sáng con mắt: Ông Hiển Huệ là người biết ăn chay niệm Phật
đa.
Tôi cũng nghĩ mà cười thầm: Sao ông Huệ Năng chính mình luộc rau trong
trách thịt, mà người đạo Phật ai nấy cũng đều sùng bái ổng là vị Tổ thứ
sáu của Thiền tôn nước Tàu, lạ thay!
Ông nói "Còn nói Phật ăn thịt đặng, Tăng đồ ăn không đặng, thì thiệt là vô
lý. Thí dụ như: Ông quan kia cấm nhân dân chẳng đặng làm điều chi sái
luật, nếu phạm luật của ông thì phải bị tù tội, mà chính ông quan đó ổng
phạm luật của ổng truyền, vậy ông quan đó có tội cùng chăng?"
Thôi rồi còn chi! Người xưng mình là người đạo Phật, ra bênh vực đạo Phật,
mà chính mình lại không biết Phật là gì. Phật pháp là gì, tôi có ngờ
đâu! Phải chi tôi có "nước mắt thừa" cũng nhơn công ra mà khóc, khóc mấy
chỗ đã chấn hưng Phật giáo, khóc mấy người đã lo chấn hưng Phật giáo!
Phật là người đã sáng suốt trong lòng, không đổi thay theo hoàn cảnh. Cho
nên, món ăn thì dỡ hay ngon cũng không tưởng, thân thể thì đau hay mạnh
cũng như thường, không gì làm cho thống khổ được.
Phật là một nhà giáo dục, lấy lẽ phải mà khuyên dạy học trò, chớ đâu phải
như một ông quan dùng cường quyền mà cấm mà phạt ... đâu, ông lại đem so
sánh với Phật? Mà trong bộ Thập Tụng Luật, quyển 37, Phật cho các thầy
Bí Xú ăn 3 món "thịt sạch" kia kìa (1- Không thấy giết; 2- Không nghe
giết; 3- Không nghi rằng người ta giết cho mình ăn). Ông không tin? Thì
ở Trà vinh sẵn có Ðại Tạng đó, chịu khó dỡ mà xem đi.
Hay là ông lại chê luật của Tiểu thừa? Thì ông dỡ kinh Ðại thừa ra xem, sẽ
thấy kinh Niết bàn, quyển 4, có nói: "Ca Diếp Bồ tát lại bạch Phật rằng:
"Thế tôn! Vì sau Ngài không cho ăn thịt?" -: "Ăn thịt thì dứt giống từ
bi" (nghĩa là không thương hết chúng sanh) -: "Vậy sao trước kia Ngài
cho các Thầy Tỳ khưu (Bí Xu) ăn 3 món thịt sạch"?
Ông thấy chưa? Từ khi Phật thành đạo cho đến khi gần Niết Bàn 45 năm, các
thầy Bí Xu, Phật không bảo ăn chay lúc nào hết!
Hay ông không tin luật Tiểu thừa, mà cũng không tin kinh Ðại thừa nữa, thì
thôi, ông không phải người đạo Phật, xin đừng can thiệp đến sách vở của
chúng tôi.
Nếu ông tin là có, các thầy Bí xu vẫn ăn thịt từ hồi Phật mới thuyết pháp
cho đến khi Phật nhập Niết Bàn, thì tôi lại xin hỏi ông: Sao ông dám
chắc rằng Phật không ăn thịt?
Ông có hiểu 2 chữ "Bí Xu" (Tỷ khưu) là gì không? Nếu ông trả lời: Bí Xu
nghĩa là: "người xin ăn" thì tôi xin nói: Nếu các thầy Bí Xu có "ăn
thịt" thì Phật phải có "ăn thịt". Vì Phật cũng là "Bí Xu" vậy. Ông lại
quên sao? Thì trong kinh Kim Cang, đêm nào ông cũng tụng, trong ấy có
nói: "Khi bấy giờ, Ðức Thế tôn đến giờ ăn, mang ca sa, bưng bình bát vào
thành Xá vệ xin ăn".
Cũng như các thầy Bí Xu khác, Phật là một thầy Bí Xu tuổi cao đức trọng
trong hội Tăng già (Sangha) cũng bưng bát xin ăn, duy có lòng được hoàn
toàn sáng suốt, rồi ra khai sáng cho đời, nên kêu là Phật, chớ có gì đâu
lạ!
Hay là ông tôn trọng Phật thái quá rồi bào chửa như thế nầy: Các thầy Bí
Xu tuy có ăn thịt, song Phật vẫn ăn chay? Nếu thật vậy, là ông rủ người
ta mắng Phật là ích kỷ! Sao Phật cho các thầy Bí Xu ăn thịt cho bị hại,
còn Phật lại ăn chay cho được thoát khổ một mình? Ông có nghĩ đến chỗ đó
không?
Ông thường tụng kinh Kim Cang thì phải nhớ: "Như Lai là người nói thật,
nói chắc không nói dối, không nói lạ lùng". Vậy ông muốn biết Phật muốn
thành Phật, thì phải chừa cái tật nói dối, phải cắn răng mà nói thiệt
đi.
Ta
tìm kinh luật, tra ở địa lý, cứ theo lịch sử, thì thấy khi Phật còn tại
thế, chưa thiệt hành cái chủ nghĩa "ăn chay".
Nhưng sau khi Phật Niết bàn, trong Giáo hội mới chia ra Thượng Tọa Bộ, Ðại
Chúng Bộ (hay Tiểu Thừa, Ðại thừa) nên mới phát hiện cái vấn đề "ăn mặn
ăn chay". Phái Tiểu Thừa là phái Bảo thủ, cứ dùng "3 món thịt sạch", như
Giáo hội ở Tích Lan, Xiêm La, Cao Miên, Miến Ðiện, Ai Lao ... đến nay
cũng chưa biết cái "Ăn chay" là gì! Chỉ có phái Ðại thừa suy theo cái
lời Phật dặn Cunda (Thuần Ðà) phát huy cái nghĩa "Từ bi bất sác" mới có
cái lệ "ăn chay". Vả lại như Trung Quốc, Việt Nam, Cao Ly, Nhựt Bổn
không có cái lệ "ăn xin" thì làm sao tìm tại chùa cho có "3 món thịt
sạch"?
Không lo giải thoát cứ chấp nhứt mãi trong vòng ăn mặn, ăn chay! Họ tưởng
cái ăn chay là chơn tu, là từ bi đúng đắn rồi. Có dè đâu, ta mặc áo lụa,
ở nhà ngói, đi xe hơi mà trong đời có nhiều người vì bệnh khổ, vì cơ
hàn, vì bị đè nén mà tự sát nguyên sinh; mỗi năm ta đóng góp một số
tiền, tưởng đã làm tròn bổn phận, có biết đâu chính mình vô ý mà sắm
thêm khí giới giết người. Như vậy, ta tuy không ăn thịt thú vật, nhưng
ăn thịt người một cách gián tiếp vậy. Tôi không biết mấy người chấp ăn
chay là từ bi đúng đắn đó, có xét đến chỗ ấy không? Ðấy là "Với tinh
thần phá chấp"
Ông nói: "Ðức Phật thường lấy lòng từ bi, bác ái tế độ quần sanh. Ngài lập
ra 250 giới luật để răn dạy môn đồ đương thời và hậu thế, có lý nào Ngài
phạm nhằm điều luật thứ nhứt hay sao?"
Ông lầm rồi! Phật chính mình không giết, không xúi ai giết, cũng không
thấy ai giết con heo rừng ấy mà vui mừng. Vậy cái giới "sát sanh" không
khép vào ở khoản nầy được. Thôi, bãi nại đi, đừng để người thuộc luật họ
bác đơn mà mang xấu!
Nhưng ông cũng chớ nên hiểu lầm rằng giới luật của Phật pháp như tín điều
(Dogmes) của các tôn giáo khác, giới luật chẳng qua là một cái phương
tiện mượn để đến chỗ cứu cánh là "trí tuệ" mà thôi. Tôi tuy không phải
là nhà luật sư chuyên môn, song cũng hiểu được đại khái.
Mục đích cứu cánh của Phật pháp là: Ðộ hết quần sanh đồng lên cỏi sáng
suốt. Nhưng trước kia ta chưa mở trí huệ, thì lòng ta cứ loạn động không
yên, đổi thay theo hoàn cảnh, thấy cảnh khổ thì chán chê, thấy cảnh vui
thì ham muốn, vậy thì đâu dám đâm thuyền ra cứu vớt những kẻ đương lặn
hụp ở giữa chốn ba đào, ra tay tháo củi cho đám còn bị lao lung trong
địa ngục? Bởi vậy cho nên mới mượn cái phương tiện "giới luật" cho yên
tịnh trong lòng, đặng đến cái mục đích "trí huệ" vậy.
Ông dẫn chứng ở kinh Ðại bát Niết bàn: "Ta xem cả thảy chúng sinh như La
hầu La chẳng khác" rồi ông nói thêm: "Phật đã nói như vậy, sao Sư cho
rằng Phật ăn thịt chúng sanh. Hay là Sư cho con heo là loài thú chẳng
phải chúng sinh sao?"
Câu kinh ấy, đáng lẽ ông đừng đăng lên mặt báo, giữa mắt muôn người, mà
chỉ nói nhỏ một mình tôi nghe mà thôi. Vì tôi đã biết Phật, cho nên tôi
tin bằng lời. Nếu người không tin, có biết chuyện Nhạc dương tử, không
khỏi họ nói Phật có ăn thịt, rồi ông mới làm sao? Vì chính miệng ông
khai ra cho người ta đủ bằng cớ mà buộc tội đó!
Trong sách tôi, lời đáp câu hỏi 82: "Vì Phật có dặn bảo các thầy Bí Xu
rằng chớ nên từ chối một vật gì của người có bụng tốt dâng cho". Ông lấy
câu ấy mà nạn tôi rằng: "Bạch sư Thiện Chiếu, Sư là đệ tử của Phật, phải
y theo giáo lý của Phật mà tu hành, chí như có người phụ nữ hình dung
yểu điệu, cốt cách phương phi, thấy Sư tu hành theo hạnh Phật, cô ấy
động lòng cung kĩnh muốn dâng thân ngọc cho Sư, đặng phục thị như Ma
đăng già thuở nọ. Không biết lúc đó Sư có phân biệt lời Phật nói đó là
nói theo chuyện, chớ chẳng phải lời nhứt định, thì ôi thôi biết bao là
khoái lạc cho Sư".
Tôi có mấy lẽ trả lời dưới đây, vậy ông muốn nhận lẽ nào cũng được.
1/ Nếu người dã chán cái khổ gia đình mà đi tu, không ai dại gì liếm lại
nước miếng của mình đã nhổ.
2/ Nếu người chưa trải đủ mùi đời, xuất gia cũng chưa hiểu đạo rủi gặp
cái "ca" như vậy, tôi tưởng nghiệp ai gây nấy chịu, có mắc mớ gì mình?
3/ Nếu người nào còn thấy người phụ nữ là hình dung yểu điệu, là cốt
cách phương phi, thì họ cho là khoái lạc là phải. Nếu như vậy, dẩu "trời
đánh" họ cũng chẳng buông, có biết gì Phật nói theo chuyện cùng chẳng
theo chuyện!
4/ Nếu người hiểu lý vô thường, đã có huệ nhãn thì cái mà thiên hạ cho
là "ngôi sao", trái lại, người ta xem như ngọn đèn leo lét ở giữa gió:
Mắt lờ, tai điếc, tóc bạc, da nhăn, một bà già mang lốt phấn son mà gạt
người phàm tục! Ðã hết hy vọng rồi, còn gì mà khoái lạc?
5/ Cưu ma la thập pháp sư có gan mà nhận lãnh mười người kỷ nữ của chúa
Diêu Tần ban cho, cái đó cũng là thường. Nhưng không hiểu sao Ngài biết
được đời sau không ai chê kinh điển của Ngài dịch thuật, ấy mới lạ thay!
Chính ông Hiển Huệ, là người hay chấp nhứt, mà mỗi đêm tụng kinh Kim Cang,
trước hết cũng đọc: "Diêu Tần Tam Tạng pháp sư Cưu ma la thập dịch" tỏ
lòng biết ơn và cung kính!
Ông nói: "Sư dịch sách không chịu tra cứu để biên càng dịch lúng, dám nói
Thuần Ðà (Cunda) là tên thợ rèn làm thịt heo rừng quay mà đãi Phật,
thiệt là vô lý quá, ông Thuần Ðà là một vị Bồ tát đâu phải là thợ rèn".
Thật tôi nói không sai! Bây giờ ông đã lòi cái chơn tướng là tín đồ của Bà
la môn giáo rồi! Nếu người đạo Phật sao còn cái óc giai cấp? Sao không
hiểu cái nghĩa "hết thảy chúng sanh đều thành Phật được" của Phật pháp?
Thợ rèn là cái tên chỉ "nghề nghiệp để nuôi mạng sống", còn "Bồ tát" là
cái tên chỉ "người còn thân phàm mà được sáng suốt trong lòng, thế thì
cái thân "thợ rèn" cũng được cái lòng "Bồ tát" như ai vậy chớ!
Giã sử như có người hỏi ông: "Phần đông nhơn loại ở cái xã hội hiện tại
nầy, đều là hạng nghèo khổ, đem mồ hôi mà đổi bát cơm, có nhiều nghề còn
bị cực khổ, bị đày đọa hơn cái nghề thợ rèn nữa". Mà theo như ông nói:
"Thuần Ðà là một vị Bồ tát, đâu phải tên thợ rèn" ấy là ông muốn nói
nghề thợ rèn là nghề hèn hạ, đâu được làm đến bậc Bồ tát. Hạng nghèo khổ
chúng tôi đã không được cái hân hạnh làm Bồ tát, không làm được Bồ tát,
thì không thoát được cảnh khổ. Vậy sao nghe nói đạo Phật là đạo cứu khổ?
Hay là ông nói cứu khổ cho hạng giàu sang quyền thế? Nhưng hạng ấy họ có
khổ gì đâu!"
Người ta hỏi như vậy rồi ông mới trả lời làm sao? Nếu ông cũng nói như
tôi: Bồ tát là người còn thân phàm mà lòng đã được sáng suốt. Cái sáng
suốt đã ở trong lòng, mà không phải ở nơi nghề nghiệp, vậy sao tôi nói
Thuần đà là người thợ rèn mà ông lại cho là vô lý?
Ông còn chua thêm rằng: "Thuần đà là con ông thợ khéo (Xảo công chi tử)
chữ Pháp dịch là Orfèvre".
Trong mấy bài trước, tôi giải đáp như vậy, chắc độc giả phân biệt được
chánh tà rồi, và ông Hiển Huệ cũng không còn viện lẽ gì mà chối cãi được
nữa. Song cuối bài của ông, lại còn dẫn chứng ở kinh Ðại bát Niết bàn,
nói rằng người dọn thịt mời Phật tên là Ðại cát sư, không phải Thuần đà,
vậy tôi phải cắt nghĩa thêm về khoản ấy.
Ông Hiển Huệ dịch một đoạn ở phẩm Tùy hỷ: "Tại Vương xá thành có tên Ðại
cát sư làm thịt loài vật mà cúng dường Ðức Phật và các Tăng đồ, người ấy
hết lòng năn nĩ cầu xin Ðức Phật nhận giùm, song Ðức Thế Tôn không dùng
lễ đó mà lại nói rằng: "Ta từ thuở nay chưa từng ăn thịt của loài vật
bao giờ, là gì Ta xem cả thảy chúng sanh như con Ta chẳng khác".
Thưa ông, đoạn kinh ấy, theo tôi thì chắc hẳn phái Ðại thừa thêm vào. Bởi
vì Phật đã nói với Ðại cát sư rằng: "Ta từ thuở nay chưa từng ăn thịt
những loài vật bao giờ", ấy đủ biết trong kinh nói Phật ăn chay từ hồi
mới xuất gia, hoặc trước khi xuất gia kìa lận. Mà Phật lại thường ở Trúc
Viên (Veluvana) tại Vương Xá thành, nhiều lần thuyết pháp. Vậy theo lời
ông dẫn chứng, thì Ðại cát sư cũng là người ở Vương Xá thành, sao không
biết Phật và Tăng chúng ăn chay, lại làm thịt loài vật mà cúng dường?
Hay là ông nói: Ðại cát sư chưa đến Trúc Viên mà nghe pháp, chưa biết
Phật, chưa gặp Tăng chúng lần nào, nên không biết Phật và Tăng chúng ăn
chay.
Ủa
lạ chưa? Ðã chưa từng quen biết, sao lại làm thịt loài vật và cúng
dường?
Hay là ông nói: "Tuy chưa quen biết, song cũng nghe người ta nói"? Nếu
người ta nói thì Phật và Tăng chúng ăn chay, người ta cũng nói luôn chớ.
Có đâu để cho Ðại cát sư giết đến mười con heo, nếu không, thì cũng năm
con bò (ấy là theo số đệ tử Phật theo hộ giá phò trì đến 1250 người của
ông nói đa), rồi năn nĩ cầu xin cách mấy Phật và Tăng chúng cũng không
dùng?
Thưa ông, ông còn đem kinh ra làm chứng nữa thôi? Ông phải biết,
ấy chẳng qua phái Ðại thừa thêm vào, để
cho vững cái thuyết "ăn chay" của họ mà thôi.
THIỆN CHIẾU
7.
PHẬT GIÁO ÐẠI THỪA TÂY TẠNG VÀ SỰ
ĂN CHAY
Quyển "Lịch Sử Phật Giáo thế giới" tập Một, của Pháp sư Thánh
Nghiêm, nhà xuất bản Hà Nội - 1995, nhóm biên dịch: G.S Nguyễn Ðức Sâm,
Mai Xuân Hải, Nguyễn Tá Nhí. Dịch theo cuốn "Thế giới Phật Giáo Thông
Sử" do nhà xuất bản Ðông Sơ ấn hành tháng 9 năm 1991, trang 434 -
436 ghi rằng:
"Do tư tưởng không coi trọng xác thịt ấy, mà tuy Tây Tạng cũng cùng là
Phật giáo Ðại thừa, nhưng không chủ trương ăn chay như Phật giáo Trung
Quốc. Ðiều thứ ba trong khinh giới của Phạm Võng Bồ tát giới qui định
trên văn bản rõ ràng: "Mọi thứ thịt không được ăn, làm hư hại hạt giống
của tính đại từ bi", không được ăn thịt của mọi thứ chúng sinh, ăn thịt
chịu tội vô lượng. Ðiều 20 lại nói: "Giết mà ăn thịt, tức là giết bố mẹ
ta". Phật giáo Tây Tạng không thế. Họ cho rằng người tu hành ăn thịt
chúng sinh tức là kết duyên với chúng sinh bị ăn thịt, ăn thịt của chúng
sinh mà lại tu trì Phật pháp, thịt của chúng sinh ấy tuy bị ăn, nhưng
thần thức thì nhờ đó mà được siêu thoát. Vì vậy an thịt không phải là có
tội. nhưng tự họ không sát sanh, giết thịt cừu, bò là việc riêng của
tiện nhân và những tín đồ Hồi giáo sống ở Tây tạng, đồng thời họ có một
lý do khác để làm đầy đủ lý do của thuyết họ, họ ăn thịt bò cừu mà không
ăn thịt tôm cá. Họ nói rằng cùng là ăn thịt chúng sinh, một động vật to
như bò hoặc cừu, thì có thể nhiều người cùng ăn, còn nếu ăn tôm, cá, sò,
ốc thì phải nhiều chúng sinh mới đủ cho một người ăn no, cho nên bất
luận tăng tục chỉ ăn thịt động vật to như bò như cừu chứ không ăn tôm
cá, thủy sản. Thật ra thì, đấy là do Tây tạng ở cao nguyên, tuy kinh
doanh cả trồng trọt chăn nuôi, nhưng sản phẩm trồng trọt không đủ ăn,
cũng không đủ để chống rét, gia súc nuôi thì chủ yếu là bò, cừu. Ðúng
như Ðạt lai đời thứ 14 đã nói: Ở Tây tạng, phần lớn là những vùng khí
hậu giá lạnh, tuy có rất nhiều cái ăn, nhưng chủng loại rất có hạn,
không ăn thịt, không hề giữ được sức khỏe, hơn nữa, trước khi Phật giáo
truyền vào, từ lâu đã quen với tập quán nầy rồi. Người Tây Tạng cho rằng
giết bất cứ một gia súc nào cũng là có tội, bất luận là vì lý do gì,
nhưng họ không cho rằng ra chợ mua thịt bất cứ động vật đã chết nào là
có tội. Còn người giết thịt giống thú để bán thì cho là người có tội và
là kẻ vô lại". Lại nói ở Tây tạng của họ "Chim và dã thú đều đi lại
thoải mái, không sợ người, bởi vì nhân dân ta đều là tín đồ Phật giáo,
quyết không thể để ý làm hại bất cứ một sinh vật sống nào" ("Hải triều
âm" số 45 - 11, bài "Sự chuyển thể của Phật sống" do cư sĩ Khả Hoa
dịch).
Có
thể thấy, từ bi giới sát cũng là tín ngưỡng của người Tây tạng. Vì vậy
sau khi A Ðề La vào Tây tạng thì Tây tạng bỏ tội tử hình. Ðó là việc đã
xảy vào thế kỷ 11 Công lịch. Trong những tăng lữ thì Tây tạng cũng có
những người ăn chay, như Ðạt Lai Lạt Ma đời 14 hiện nay là một. Vì thế,
việc cày đất ở Tây tạng kiêng dùng đồ sắt, sợ làm chết côn trùng dưới
đất, đến nổi sản xuất chịu ảnh hưởng lớn. Sau giải phóng, CHND Trung Hoa
tiến hành cải cách, gieo trồng bằng thâm canh, nghe nói nông sản phẩm
tăng lên nhanh chóng".
Quyển "Sống hạnh phúc chết bình an" Chân Huyền dịch 1999, của tác
giả Hisholiness The DALAILAMA, tựa The Joyofliving and Dying in Peaca,
trang 97 có ghi rằng:
"Mỗi ngày, cho tới khi chết, ta ăn uống để nuôi dưỡng cái thân. Tôi đã
ngoài lục tuần rồi. Suốt hơn 60 năm đó, tôi đã ăn bao nhiêu thực phẩm,
ăn bao nhiêu THỊT? BAO NHIÊU SINH VẬT ÐÃ MẤT MẠNG VÌ TÔI? Chúng ta dùng
bao sức lực để nuôi cái thân. Nếu mục đích cuộc đời chỉ có thế thôi thì
có lẽ ta chỉ nên làm loài thú hay sâu bọ, ít nhứt là ta không làm hại
loài khác" [*]
[*] Ðây là lời của Ðạt Lai Lạt Ma đời thứ 14 nói.
Ðấy là "Một số nước Phật giáo Ðại thừa ... họ cũng không bảo thủ tục ăn
chay, nhưng với họ thì "Quân tử ưu đạo bất ưu thực"
Phật giáo Ðại thừa Mông Cổ cũng giống như Tây tạng, ai có đi dự Ðại hội
Phật tử Á Châu Vì Hòa Bình thì biết rõ (Phái đoàn Phật giáo Việt Nam đi
dự Ðại hội ấy có H.T Trí Thủ, H.T Minh Châu, Ni sư Huỳnh Liên ... phải
mang đồ chay theo để mà dùng).
Phật giáo Tây tạng cũng được
truyền đến Cao ly, Nhật bổn ...
8.
HÒA THƯỢNG THIỆN HOA VÀ SỰ
ĂN CHAY.
Quyển "Phật học phổ thông" bài thứ chín, đề "Ăn chay" Hương Ðạo
xuất bản, Ban Hoằng pháp Phật giáo Nam Việt chủ trương, tái bản năm
1966, trang 153 ghi rằng:
"Những lợi ích của sự ăn chay đối với cá nhân rất lớn lao. Người ăn chay
không những thâu hoạch được những lợi ích trong hiện tiền mà cả trong
đời sống tương lai nữa.
Trong hiện tại, người ăn chay
được những lợi ích sau đây:
- Tiết kiệm được tài chánh, vì đồ ăn chay rẽ hơn đồ ăn mặn nhiều.
- Tiết kiệm được ngày giờ và công lao nấu nướng, vì mướp, dưa, bầu, bí,
khoai ... cắt rửa mau và ít tốn nước, và khi kho, luộc, nấu nướng lại
mau chín, ít hao củi.
- Thân thể được khỏe mạnh, tinh thần được nhẹ nhàng, trong sạch: Trí tuệ
được minh mẫn để tu thiền quán ..."
Ðấy là "Không chê đồ chay" (Vì có lợi ích thiết thực).
Trang 151 ghi rằng:
"Những điều cần tránh:
a/ Không nên kiêu mạn. - Người có phúc duyên ăn chay được dễ
dàng, không nên sanh lòng kiêu mạn, tự cho mình là hơn người, và khinh
người ăn mặn. Làm như thế đã sanh ác cảm với người mà lại còn làm tổn âm
đức của mình nữa.
b/ Không háo danh. - Có người mới bước vô đường đạo, họ đã ăn
chay trường ngay, cốt để người khác khen ngợi. Ăn chay như thế là do
lòng háo danh mà ra; hành động nầy không có lợi cho sự tu hành mà lại
còn có hại: Khi không còn ai khen ngợi nữa, thì không thấy hứng thú để
tiếp tục ăn chay nữa.
c/ Không nên ép xác. - Có người tưởng lẩm rằng: Ăn chay là để
hành hạ thân xác, nên cố ăn một cách cực khổ như chỉ ăn ròng rã tương
rau, muối sã ... từ năm nầy sang năm khác. Ăn như thế sẽ hao mòn thân
xác và chết yếu trước khi thành đạo.
d/ Không nên giả mặn. - Có nhiều bà nội trợ muốn trổ tài khéo léo
của mình bằng cách nấu chay mà giả mặn, rồi đặt tên món ăn mặn hay làm
ra những hình thức giống như đồ mặn. Thí dụ như: Củ hủ cao, củ hủ dừa
kho mà gọi là cá tra kho, bắp chuối luộc trộn giấm và rau răm lại đặt là
thịt gà xé phay; bí đao xắt mỏng cập gắp nướng ăn với bánh hỏi mà lại
đặt tên là thịt bò lụi ...
Như thế, là đã vô tình xúi giục người ăn chay nghĩ đến món mặn, miệng ăn
rau dưa, mà lòng nhớ đến thịt cá, làm trò cười cho thế gian.
Ðấy là "... nhưng không chấp nhận thành kiến ăn chay" và "Tuy không phải
cá thịt nhưng là cá thịt (bởi khi ăn các món chay mà hình thức lẫn tên
gọi đều la ømón ăn mặn như thịt quay, cá kho ... món chay mà tâm mặn)".
BÁT NHÃ PHI BÁT NHÃ?
Bát Nhã Tâm Kinh đoạn đầu: "Quán Tự Tại Bồ tát, hành thâm Bát Nhã Ba La
Mật Ða, thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không nhứt thiết độ khổ ách. Xá Lợi
Tử, Sắc tức thị không, không tức thị Sắc, Sắc bất dị không, không bất dị
Sắc; thọ, tưởng, hành, thức, diệt phục như thị".
Vậy thảo mộc, thịt cá làm thực phẩm có phải là Sắc chăng? Nếu là Sắc, thì
"Sắc tức thị không" chẳng phải sao?
-
Chữ "không" ở đây, muốn hiểu là "Bát Nhã" cũng được, là "Khái niệm" cũng
được.
-
Cái tên gọi "là vật thực", "thực phẩm chay", "thực phẩm mặn" không phải
là "giả danh, khái niệm, không (Sunnatà)" hay sao?
Ðấy là "Ảnh hưởng tinh thần Bát Nhã"!
LỜI BẠT
Sau
khi kiểm tra lại các tài liệu kinh sách Phật giáo trong và ngoài nước
thì thấy "Lời giới thiệu của TT Giác Chánh không có chỗ nào kích bác
chay mặn, không hề bài bác Nam Tông, Bắc Tông, luôn cả Nho giáo, cũng
không hề bôi bác các nước Phật giáo bạn, cũng không hề chỉ trích các tổ
Thiền tông...
Những người lên mạng Internet ... phê bình TT Giác Chánh, nhưng họ cũng
phải chấp nhận lời TT Giác Chánh là đúng, như cư sĩ Chơn Chánh viết:
"Các Ngài hành đạo tùy duyên, không căn cứ vào bất kỳ một pháp nhất định
nào để giáo hóa chúng sinh; gặp mặn thuyết mặn, gặp chay thuyết chay" và
Liên Tâm cũng viết: "Truyền thống uyển chuyển ấy cũng vẫn còn được chư
Tổ sư sau nầy noi theo". Ðấy là "Các vị Tổ sư cũng không quá cố chấp
tập quán ăn chay" của TT Giác Chánh.
Chỉ có Cung Ðình Hướng thì phản đối thẳng thừng: "Kính thưa quý vị! Ðang
ăn những món "chay giả mặn" xin quý vị cứ việc "ăn chay mà tâm mặn đi"
thì Hòa thượng Thích Thiện Hoa quở: "Không nên giả mặn. - Có nhiều bà
nội trợ muốn trổ tài khéo léo của mình bằng cách nấu chay mà giả mặn ...
như thế, là đã vô tình xúi giục người ăn chay nghĩ đến món mặn, miệng ăn
rau dưa, mà lòng nhớ đến thịt cá, làm trò cười cho thế gian" (Phật Học
Phổ Thông, bài ăn chay, trang 152).
Mong rằng các Phật tử trên "Diển đàn Phật pháp" hãy giữ "Tâm bình khí hòa"
khi biện luận Phật pháp ...
MONG THAY
Nhóm Phật tử Phù Sa
tháng 9-2001
---o0o---
[
Mục Lục
] [
01] [
02]
[
03] [
04] [
05]
[
06] [
07] [
08] [
09] [
10] [
11]
Về danh mục