NGỌN
ĐẠI HÙNG
CÔNG
ÁN: Tăng hỏi Bá Trượng: Thế nào là việc kỳ đặc ? Bá
Trượng đáp: Ngồi riêng ngọn Đại Hùng. Tăng lễ bái. Bá
Trượng liền đánh.
GIẢI
THÍCH: Gặp cơ đủ mắt chẳng đoái nguy vong, cho nên nói chẳng
vào hang cọp đâu được cọp con. Bá Trượng bình thường
dường như cọp thêm cánh. Vị Tăng này cũng chẳng sợ chết
sống, dám nhổ râu cọp, nên hỏi thế nào là việc kỳ đặc
? Ông Tăng này đã đủ con mắt sáng, nên Bá Trượng cho ông
gánh vác, nói “Ngồi riêng núi Đại Hùng”. Ông liền lễ
bái. Thiền tăng phải biện biệt ý trước khi hỏi mới được.
Vị Tăng này lễ bái cùng việc lễ bái hằng ngày chẳng đồng,
phải là người đủ mắt sáng mới được. Chớ đem gan mật
bình sanh trút cho người, biết nhau lại như chẳng biết nhau.
Chỉ xem vị Tăng hỏi: Thế nào là việc kỳ đặc
? Bá Trượng nói: Ngồi riêng núi Đại Hùng. Tăng lễ bái,
Bá Trượng liền đánh. Xem kia buông đi đồng thời đều phải,
thâu lại thì quét sạch dấu vết. Hãy nói vị Tăng liền
lễ bái, ý chỉ thế nào ? Nếu bảo là tốt, tại sao Bá Trượng
lại đánh ông ? Nếu bảo là chẳng tốt, ông lễ bái có chỗ
nào chẳng được ? Đến trong đây phải biết hay dở, rành
trắng đen, đứng trên ngàn ngọn núi mới được. Vị Tăng
này liền lễ bái, giống như nhổ râu cọp, chỉ giành chỗ
chuyển thân. May gặp Bá Trượng có con mắt tại đảnh môn,
trong tay có thần phù chiếu thấu bốn thiên hạ, biện rõ
lai phong, cho nên liền đánh. Nếu là kẻ khác thì không làm
gì được y. Vị Tăng này lấy cơ đầu cơ, dùng ý dẹp ý,
cho nên lễ bái.
Như
Nam Tuyền nói: Canh ba đêm qua Văn-thù, Phổ Hiền, khởi Phật
kiến, pháp kiến, cho mỗi vị hai mươi gậy, đày đến hai
ngọn núi Thiết Vi. Triệu Châu ra chúng thưa: Gậy của Hòa
thượng bảo ai ăn ? Nam Tuyền nói: Vương lão sư có lỗi gì
? Triệu Châu liền lễ bái.
Bậc
Tông sư bình thường chẳng thấy chỗ thọ dụng, vừa gặp
lúc đương cơ nêu ra, tự nhiên sống linh động. Ngũ Tổ tiên
sư thường nói: “Giống như hai con ngựa đá nhau, ông chỉ
thường tập thấy nghe thanh sắc, đồng thời ngồi dứt, nắm
được đứng, làm được chủ, mới thấy Bá Trượng kia.”
Hãy nói khi buông ra phải làm sao ? Xem Tuyết Đậu tụng:
TỤNG:
Tổ vức giao trì thiên mã câu
Hóa môn thơ quyện bất đồng đồ
Điện quang thạch hỏa tồn cơ biến
Kham tiếu nhân lai loát hổ tu.
DỊCH:
Đất Tổ danh lừng thiên mã câu
Cuộn bày cửa hóa chẳng đồng đường
Điện quang đá nháng còn cơ biến
Cười ngất người kia nhổ râu hùm.
GIẢI
TỤNG: Tuyết Đậu thấy tột mới tụng ra. Thiên mã câu là
con ngựa chạy một ngày một ngàn dặm, chạy dọc chạy ngang
nhanh như bay. Tuyết Đậu tụng ý nói Bá Trượng ở trong đất
Tổ, bên Đông chạy sang bên Tây, bên Tây chạy sang bên Đông,
một qua một lại, bảy dọc tám ngang, toàn không chút ngại
giống như thiên mã câu. Khéo hay qua lại mới thấy chỗ tự
do, đó là được đại cơ đại dụng của Mã Tổ.
Có
vị Tăng hỏi Mã Tổ: Thế nào là đại ý Phật pháp ? Mã
Tổ liền đánh, nói: Nếu ta chẳng đánh ngươi thì người
trong thiên hạ sẽ cười ta. Tăng lại hỏi: Thế nào là ý
Tổ sư Tây sang ? Mã Tổ bảo: Lại gần đây, vì ông nói.
Tăng lại gần, Mã Tổ tát vào tai, nói: Sáu cái chẳng đồng
mưu.
Thế
là đủ thấy Ngài được tự do tự tại. Trong chỗ dựng
lập hóa môn, hoặc bày ra hoặc cuộn lại. Có khi bày chẳng
ở chỗ cuộn, có khi cuộn chẳng ở chỗ bày, có khi cuộn
bày đều chẳng còn. Vì thế nói đồng đường mà chẳng
đồng dấu. Câu tụng này là nói Bá Trượng có được thủ
thuật ấy.
Tuyết
Đậu tụng “Điện quang đá nháng còn cơ biến”, là nói
vị Tăng này như làn điện chớp, tợ chọi đá nháng lửa,
chỉ ở trong phút giây cơ biến. Nham Đầu nói: Buông vật
là thượng, theo vật là hạ. Nếu luận về pháp chiến mỗi
mỗi phải ở chỗ chuyển. Tuyết Đậu nói: Bánh xe từng chưa
chuyển, chuyển ắt chạy hai đầu. Nếu chuyển chẳng được,
có dùng vào chỗ nào ? Bậc đại trượng phu phải biết chút
cơ biến mới được. Người nay chỉ quản cung ứng kinh phí
cho người, bị người xỏ lỗ mũi, biết bao giờ liễu ngộ.
Vị Tăng này ở trong chỗ điện xẹt lửa nháng khéo được
cơ biến, liền lễ bái. Tuyết Đậu tụng “Cười ngất người
kia nhổ râu hùm”, nói Bá Trượng như con cọp to, cười ngất
vị Tăng này đến nhổ râu cọp.
?
TẮC
27: VÂN MÔN THÂN BÀY GIÓ THU
LỜI
DẪN: Hỏi một đáp mười, nêu một rõ ba, thấy thỏ thả
chim ưng, nhân gió thổi lửa, chẳng tiếc lông mày hãy gác
lại, như khi vào hang cọp thì thế nào, thử cử xem?
CÔNG
ÁN: Tăng hỏi Vân Môn: Khi lá rụng cành khô thì thế nào?
Vân Môn đáp: Thân bày gió thu.
GIẢI
THÍCH: Nếu nhằm trong ấy tiến được mới thấy chỗ vì
người của Vân Môn. Kia nếu chẳng được thế, vẫn như
xưa là kẻ chỉ nai cho là ngựa, mắt mờ tai điếc, người
nào đến cảnh giới này ? Hãy nói Vân Môn đáp thoại cho
người, hay vì người thù xướng ? Nếu nói đáp thoại cho
người là nhận lầm trái cân bàn (một tiêu chuẩn cố định).
Nếu nói vì người thù xướng thì nào có dính dáng. Đã chẳng
thế ấy, cứu cánh thế nào ? Nếu ông thấy được thấu
thì lỗ mũi Thiền tăng chẳng nhọc một cái ấn tay. Kia nếu
chẳng được thế, như xưa đi thẳng vào trong hang quỉ. Phàm
là người dựng lập tông thừa, phải là toàn thân gánh vác,
chẳng tiếc lông mày, nhằm miệng cọp nằm ngang, mặc nó
lôi ngang kéo dọc. Nếu chẳng như thế đâu thể vì người
được. Ông Tăng này đặt câu hỏi thật là hiểm hóc, nếu
lấy việc tầm thường nhìn ông chỉ giống một vị Tăng
nhàn rỗi. Nếu căn cứ vào dưới cửa Thiền tăng, trong chỗ
mạng mạch mà xem, quả thật có chỗ diệu. Thử nói lá rụng
cành khô là cảnh giới của người nào ? Trong mười tám lối
hỏi, lối hỏi này là “Biện chủ”, cũng gọi là “Tá
sự vấn”. Vân Môn chẳng dời đổi một mảy tơ, chỉ nhằm
ông nói “Thân bày gió thu”. Đáp rất hay, cũng chẳng cô
phụ câu hỏi của người. Bởi vì chỗ hỏi kia có mắt sáng,
chỗ đáp cũng đúng đắn. Người xưa nói: Muốn được thân
thiết chớ đem hỏi đến hỏi. Nếu là tri âm, nói ra liền
biết chỗ rơi. Nếu ông nhằm trong ngữ mạch của Vân Môn
mà tìm thì lầm rồi. Chỉ là trong câu của Vân Môn, phần
nhiều thích gợi tình giải của người. Nếu dùng tình giải
hiểu, chưa khỏi vùi lấp con cháu của ta. Vân Môn thích cỡi
ngựa giặc đuổi giặc như thế. Đâu chẳng thấy Tăng hỏi:
Thế nào là chỗ phi tư lương ? Vân Môn đáp: Thức tình khó
lường. Vị Tăng này hỏi: Khi lá rụng cành khô thì thế nào
? Vân Môn đáp: Thân bày gió thu. Trong câu quả thật chặt
đứt yếu tân, chẳng thông phàm Thánh, phải hiểu Sư cử
một rõ ba, cử ba rõ một. Nếu ông trong ba câu đó mà tìm
thì nhổ tên sau ót. Trong một câu của Sư phải đủ ba câu:
- phú cái càn khôn - tùy ba trục lãng - cát tiệt chúng lưu,
tự nhiên thích hợp. Vân Môn trong ba câu, hãy nói dùng câu
nào tiếp người, thử biện xem ?
TỤNG:
Vấn ký hữu tông
Đáp diệc du đồng
Tam cú khả biện
Nhất thốc liêu không.
Đại dã hề lương tiêu táp táp
Trường thiên hề sơ vũ mông mông.
Quân bất kiến
Thiếu Lâm cửu tọa vị qui khách
Tịnh y Hùng Nhĩ nhất tòng tòng.
DỊCH:
Hỏi đã có tông
Đáp cũng vẫn đồng
Ba câu khá biện