LỜI
DẪN: Đương cơ đối mặt đề cao cơ hãm hổ, chánh án bàng
đề, bày ra mưu lược bắt giặc. Sáng hiệp tối hiệp, hai
buông hai thâu, giỏi đùa rắn chết, lại là tác giả kia.
CÔNG
ÁN: Nham Đầu hỏi Tăng: Ở đâu đến ? Tăng thưa: Tây Kinh
đến. Nham Đầu hỏi: Sau khi giặc Hoàng Sào qua rồi, lại
thâu kiếm được chăng ? Tăng thưa: Thâu được. Nham Đầu
đưa cổ ra, nói: Hè ! Tăng nói: Đầu Thầy rụng. Nham Đầu
cười ha hả ! Sau vị Tăng này đến Tuyết Phong. Tuyết Phong
hỏi: Ở đâu đến ? Tăng thưa: Ở Nham Đầu đến. Tuyết
Phong hỏi: Có ngôn cú gì ? Tăng thuật lại việc trước. Tuyết
Phong đánh ba mươi gậy đuổi ra.
GIẢI
THÍCH: Phàm là người quảy túi mang bát vạch cỏ xem gió,
phải đủ con mắt hành cước mới được. Vị Tăng này mắt
tợ sao băng, cũng bị Nham Đầu khám phá xong, xỏ xâu lại.
Đương thời nếu là kẻ kia, hoặc chết hoặc sống cử đến
liền dùng. Vị Tăng lôi thôi này lại nói: “Thâu được.”
Đi hành cước thế ấy, lão Diêm-la sẽ đòi tiền cơm ông.
Ông này đi nát bao nhiêu đôi giày cỏ thẳng đến Tuyết Phong.
Khi ấy nếu có đôi phần mắt sáng, liền biết liếc qua há
chẳng thích sao ? Một nhân duyên này có chổ khúc mắc. Việc
ấy tuy nhiên không được mất, mà được mất rất to, tuy
nhiên không giản trạch, trong này lại cần đủ con mắt giản
trạch. Xem Long Nha khi còn đi hành cước đặt câu hỏi, hỏi
Đức Sơn: Học nhân nương kiếm Mạc Da nghĩ lấy đầu Thầy
thì thế nào ? Đức Sơn đưa cổ ra nói: Hè ! Long Nha nói:
Đầu Thầy rụng. Đức Sơn liền trở về phương trượng.
Sau Long Nha thuật lại với Động Sơn, Động Sơn hỏi: Khi
ấy Đức Sơn nói gì ? Long Nha thưa: Sư không nói. Động Sơn
bảo: Sư không nói gác lại, cho mượn đầu Đức Sơn rụng
xem ? Long Nha ngay câu nói đại ngộ, thắp hương trông xa về
Đức Sơn lễ bái sám hối. Có vị Tăng truyền đến Đức
Sơn, Đức Sơn nói: Lão Động Sơn chẳng biết tốt xấu, kẻ
này chết bao lâu rồi, cứu được dùng vào chỗ nào ? Công
án này với Long Nha là một loại. Đức Sơn trở về phương
trượng ắt trong tối rất mầu. Nham Đầu cười to, trong cái
cười có độc. Nếu có người biện được thì đi dọc ngang
trong thiên hạ. Vị Tăng này khi ấy nếu biện được thì
vượt qua ngàn xưa, khỏi bị kiểm trách, mà dưới cửa Nham
Đầu một trường lầm lỗi. Xem lão nhân Tuyết Phong là bạn
đồng tham nên biết chỗ rơi, cũng chẳng vì kia nói phá, chỉ
đánh ba mươi gậy đuổi ra khỏi viện, khả dĩ không trước
bặt sau. Cái này là nắm lỗ mũi hàng tác gia Thiền khách,
thủ đoạn vì người mà chẳng vì họ thế này hoặc thế
nọ, khiến họ tự ngộ. Bậc bổn phận Tông sư vì người,
có khi đậy kín không cho ló đầu, có khi tung ra cho chết dở,
lại cần có chỗ xuất thân. Cả thảy Nham Đầu, Tuyết Phong
ngược lại bị gã Tăng lôi thôi khám phá. Câu Nham Đầu hỏi:
giặc Hoàng Sào qua rồi, có thâu được kiếm chăng, các ông
hãy nói trong đây nên hạ lời gì khỏi bị kia cười, lại
khỏi bị Tuyết Phong đánh đuổi ra ? Trong cái lầm lẫn này,
nếu chẳng từng thân chứng thân ngộ, dù cho có lanh mồm
lợi khẩu, cứu kính thấu thoát sanh tử cũng chẳng được.
Sơn tăng bình thường dạy người xem chỗ chuyển của cơ
quan này. Nếu suy nghĩ, xa đó càng xa. Đâu chẳng thấy Đầu
Tử hỏi Tăng Diêm Bình: Sau khi giặc Hoàng Sào qua rồi, lại
thâu được kiếm chăng ? Tăng lấy tay chỉ dưới đất. Đầu
Tử nói: Ba mươi năm đùa cỡi ngựa, ngày nay lại bị lừa
đá. Xem vị Tăng này quả là bậc tác gia, chẳng nói thâu
được, cũng chẳng nói thâu chẳng được, so với vị Tăng
ở Tây Kinh như cách trời biển. Chơn Như niêm: Cổ nhân kia
một người làm đầu, một người làm đuôi. Tuyết Đậu
tụng ra:
TỤNG:
Hoàng Sào quá hậu tằng thâu kiếm
Đại tiếu hoàn ưng tác giả tri
Tam thập sơn đằng thả khinh thứ
Đắc tiện nghi thị lạc tiện nghi.
DỊCH:
Hoàng Sào giặc dứt từng thâu kiếm
Cười lớn lại là tác giả tri
Ba mươi gậy hãy còn tha nhẹ
Được tiện nghi là mất tiện nghi.
GIẢI
TỤNG: Hai câu “Hoàng Sào giặc dứt từng thâu kiếm, cười
lớn lại là tác giả tri”, Tuyết Đậu tụng vị Tăng này
cùng chỗ Nham Đầu cười to. Cái nhỏ xíu này mà người trong
thiên hạ mò tìm chẳng được. Hãy nói Sư cười cái gì ?
Phải là bậc tác gia mới biết, trong cái cười này có quyền
có thật, có chiếu có dụng, có chết có sống. Câu “ba mươi
gậy hãy còn tha nhẹ”, tụng vị Tăng này sau đến Tuyết
Phong đối diện, vẫn như xưa lỗ mãng, Tuyết Phong cứ lệnh
mà hành, đánh ba mươi gậy đuổi ra. Hãy nói vì sao như thế
? Ông cần tận tình hiểu thoại này chăng ? “Được tiện
nghi là mất tiện nghi.”
?
TẮC
67: PHÓ ĐẠI SĨ GIẢNG KINH XONG
CÔNG
ÁN: Lương Võ Đế thỉnh Phó Đại sĩ giảng kinh Kim Cang, Đại
sĩ lên tòa ngồi vỗ bàn một cái, bước xuống tòa. Võ Đế
ngạc nhiên, Chí Công hỏi: Bệ hạ hội chăng ? Võ Đế nói:
Chẳng hội. Chí Công nói: Đại sĩ giảng kinh xong.
GIẢI
THÍCH: Cao Tổ Lương Võ Đế họ Tiêu, húy là Diễn, tự Thúc
Đạt, lập công nghiệp cho đến nối ngôi nhà Tề. Sau khi
tức vị, ông riêng chú ngũ kinh giảng nghị, kính thờ Lão
Tử rất mực, tánh tình chí hiếu. Một hôm, ông suy nghĩ
về pháp xuất thế để đền ơn cha mẹ, liền bỏ đạo Lão
theo đạo Phật. Ông thọ giới Bồ-tát với Pháp sư Lũ Ước,
mặc áo cà-sa giảng kinh Phóng Quang Bát-nhã để đền ơn cha
mẹ. Khi ấy, Chí Công Đại sĩ hiển dị hoặc chúng, bị giam
trong khám. Chí Công phân thân du hóa trong thành ấp, một hôm,
vua nhận biết cảm ngộ và rất kính trọng. Chí Công có những
hạnh thầm hộ ẩn hiển không thể lường. Tại Vụ Châu
có Đại sĩ ở núi Vân Hoàng, tự tay trồng hai cây gọi là
Song thọ, tự xưng Đương Lai Thiện Huệ Đại sĩ. Một hôm,
ông biên thư sai đệ tử dâng lên cho vua. Bấy giờ, triều
thần cho ông không có tư cách quân thần nên chẳng nhận.
Phó Đại sĩ sắp vào trong thành Kim Lăng bán cá. Võ Đế thỉnh
Chí Công giảng kinh Kim Cang. Chí Công tâu: Bần đạo không
thể giảng, trong chợ có Phó Đại sĩ hay giảng kinh này. Vua
hạ chiếu mời Đại sĩ vào trong cung. Phó Đại sĩ đã đến,
lên giảng tòa vỗ bàn một cái, xuống tòa. Khi ấy liền xô
nhào khỏi thấy một trường rối bời, lại bị Chí Công
nói: Bệ hạ hội chăng ? Vua nói: Chẳng hội. Chí Công tâu:
Đại sĩ giảng kinh xong. Thế là một người làm đầu một
người làm đuôi. Chí Công nói thế ấy, mộng thấy Phó Đại
sĩ không ? Nhất đẳng là đùa tinh hồn, cái này thật là
kỳ đặc, tuy là rắn chết khéo đùa cũng sống. Đã là giảng
kinh, sao không phân làm hai ? Như Tọa chủ tầm thường nói:
“Thể Kim Cang kiên cố, mọi vật không thể hoại, dụng nó
sắc bén hay dẹp muôn vật.” Giảng thuyết như thế, mới
gọi là giảng kinh. Tuy nhiên như vậy, quí vị đâu chẳng
biết Phó Đại sĩ chỉ nêu then chốt hướng thượng, lược
bày mũi nhọn, khiến người biết chỗ rơi, chặt thẳng vì
ông vách đứng vạn nhẫn. Vừa lúc bị Chí Công chẳng biết
tốt xấu lại nói Đại sĩ giảng kinh xong. Chính là hảo tâm
mà không được báo tốt. Như một chung rượu ngon, bị Chí
Công lấy nước chế vào. Như một nồi canh, bị Chí Công
lượm một viên phân chuột bỏ vào làm nhơ rồi. Hãy nói
đã chẳng phải giảng kinh, cứu kính gọi là gì ?
TỤNG:
Bất hướng Song Lâm ký thử thân
Khước ư Lương độ nhạ ai trần
Đương thời bất đắc Chí Công lão
Dã thị tê tê khứ quốc nhân.
DỊCH:
Chẳng ở Song Lâm gởi thân tàn
Lại vào Lương độ dấy bụi vàng
Bấy giờ chẳng gặp Chí Công lão
Cũng phải bôn ba đến nước người.
GIẢI
TỤNG: Hai câu “chẳng ở Song Lâm gởi thân tàn, lại vào
Lương độ dấy bụi vàng”, Phó Đại sĩ cùng Đạt-ma gặp
nhau một lối. Đạt-ma mới đến Kim Lăng gặp Võ Đế, Võ
Đế hỏi: Thế nào là Thánh Đế nghĩa thứ nhất ? Đạt-ma
đáp: Rỗng thênh không Thánh. Đế hỏi: Đối trẫm là ai ?
Đạt-ma đáp: Không biết. Đế chẳng khế hội. Ngài liền
qua sông đến Ngụy. Võ Đế đem việc đó hỏi Chí Công, Chí
Công tâu: Bệ hạ biết người này chăng ? Đế nói: Chẳng
biết. Chí Công tâu: Đây là Bồ-tát Quán Âm truyền tâm ấn
Phật. Đế nghe hối hận sai sứ đi tìm. Chí Công tâu: Chớ
bảo bệ hạ sai sứ đi mời, người trong cả nước mời cũng
chẳng trở lại. Vì thế, Tuyết Đậu nói: “Bấy giờ chẳng
gặp Chí Công lão, cũng phải bôn ba đến nước người.”
Bấy giờ nếu chẳng phải Chí Công vì Phó đại sĩ nói ra,
cũng sẽ bị đuổi ra nước ngoài. Chí Công đã lắm lời,
Võ Đế bị Sư lừa một trận. Đại ý Tuyết Đậu nói, chẳng
phải Đại sĩ đến đất Lương giảng kinh vỗ bàn. Sở dĩ
nói “sao chẳng ở Song Lâm gởi thân tàn”, là ăn cháo ăn
cơm tùy phận qua ngày, lại đến đất Lương chỉ chú thế
ấy, vỗ bàn rồi xuống tòa, chính là chỗ Sư làm dấy bụi.
Đã là thù thắng thì mắt nhìn mây xanh, trên chẳng thấy
có Phật, dưới chẳng thấy có chúng sanh. Nếu luận bên việc
xuất thế thì chẳng khỏi đầu tro mặt đất, đem không làm
có, đem có làm không, đem phải làm quấy, đem quấy làm phải,
đem thô làm tế, ăn thịt uống rượu, nắm ngang dụng ngược,
khiến tất cả người rõ được việc này. Nếu chẳng phóng
hành thế ấy, thẳng đến Di-lặc hạ sanh cũng không có một
người nửa người. Phó đại sĩ đã là dính bùn kẹt nước,
may lại có tri âm. Nếu chẳng gặp lão Chí Công, hầu như
bị đuổi khỏi nước rồi. Hãy nói hiện nay ở chỗ nào
?
?
TẮC
68: NGƯỠNG SƠN ÔNG TÊN GÌ ?
LỜI
DẪN: Lật cửa trời lộn trục đất, bắt cọp hủy (tê giác),
biện rắn rồng, phải là kẻ linh động mới được. Câu
câu hòa nhau, cơ cơ hợp nhau, từ trước đến nay, người
nào được thế ấy, xin cử xem ?
CÔNG
ÁN: Ngưỡng Sơn hỏi Tam Thánh: Ông tên gì ? Tam Thánh thưa:
Huệ Tịch. Ngưỡng Sơn nói: Huệ Tịch là tên ta. Tam Thánh
thưa: Huệ Nhiên. Ngưỡng Sơn cười hả hả!
GIẢI
THÍCH: Tam Thánh là hàng tôn túc trong tông Lâm Tế, thuở nhỏ
đã đủ khả năng xuất quần, có đại cơ đại dụng, ở
trong chúng ngang ngang tàng tàng, tiếng vang khắp nơi. Sau từ
giã Lâm Tế, Sư dạo khắp sông biển, đến các tùng lâm đều
được đãi vào hàng khách quí. Sư từ miền Bắc đến phương
Nam, trước đến Tuyết Phong hỏi: Cá vàng thoát khỏi lưới
lấy gì làm thức ăn ? Tuyết Phong đáp: Đợi ông ra khỏi
lưới, sẽ nói với ông. Tam Thánh nói: Là thiện tri thức
của một ngàn năm trăm người, mà thoại đầu cũng chẳng
biết. Tuyết Phong nói: Lão tăng trụ trì nhiều việc. Tuyết
Phong cùng Tam Thánh đi thăm trang sở của chùa, trên đường
gặp một con khỉ. Tuyết Phong nói: Con khỉ này mỗi mỗi mang
một mặt gương xưa. Tam Thánh nói: Nhiều kiếp không tên,
do đâu bày là gương xưa ? Tuyết Phong nói: Có tỳ vậy. Tam
Thánh nói: Là thiện tri thức của một ngàn năm trăm người,
mà thoại đầu cũng chẳng biết. Tuyết Phong nói: Tội lỗi,
Lão tăng trụ trì nhiều việc. Sau Sư đến Ngưỡng Sơn, Ngưỡng
Sơn rất mến tài hùng biện của Sư nên đãi ở minh song.
Một hôm, có ông quan đến tham vấn Ngưỡng Sơn, Ngưỡng Sơn
hỏi: Quan ở vị nào ? Quan thưa: Dẹp quan. Ngưỡng Sơn dựng
cây phất tử, hỏi: Lại dẹp được cái này chăng ? Ông quan
không đáp được. Cả chúng đáp thay cũng không khế hợp
ý Ngưỡng Sơn. Khi ấy Tam Thánh nằm bệnh tại nhà Diên Thọ,
Ngưỡng Sơn sai thị giả đem lời này hỏi. Tam Thánh đáp:
Hòa thượng có việc. Ngưỡng Sơn lại sai thị giả hỏi:
Chưa biết có việc gì ? Tam Thánh nói: Tái phạm chẳng tha.
Ngưỡng Sơn thầm nhận đó. Bá Trượng đương thời lấy
thiền bản bồ đoàn trao cho Hoàng Bá, lấy cây gậy phất
tử trao cho Qui Sơn. Sau Qui Sơn trao cho Ngưỡng Sơn. Ngưỡng
Sơn đã thừa nhận Tam Thánh. Một hôm, Tam Thánh từ giã ra
đi, Ngưỡng Sơn lấy cây gậy phất tử trao cho Tam Thánh. Tam
Thánh thưa: Con đã có thầy. Ngưỡng Sơn hỏi nguyên do, mới
biết là đích tử của Lâm Tế. Chỉ như Ngưỡng Sơn hỏi
Tam Thánh “ông tên gì”, Sư không thể chẳng biết tên kia,
cớ sao lại hỏi thế ấy ? Sở dĩ hàng tác gia cần nghiệm
người biết cho chín chắn, dường như thong thả hỏi ông
tên gì ? Không suy tính, Tam Thánh đáp là Huệ Tịch, mà chẳng
nói là Huệ Nhiên, là tại sao ? Xem kia đủ con mắt tự nhiên
chẳng đồng. Tam Thánh thế ấy mà chẳng phải điên, một
bề dụng ý cướp cờ đoạt trống ngoài lời của Ngưỡng
Sơn. Lời này chẳng rơi trong thường tình, khó bề dò tìm.
Những kẻ có thủ đoạn này là làm sống được người.
Vì thế nói, kia tham câu sống chẳng tham câu chết. Nếu theo
thường tình thì dứt người chẳng được. Xem cổ nhân kia
nghĩ đạo thế ấy, dùng hết tinh thần mới được đại
ngộ, đã ngộ rồi khi dùng cũng đồng chưa ngộ, giống hệt
thời nhân, tùy phần một lời nửa câu, chẳng được rơi
chỗ thường tình. Tam Thánh biết chỗ rơi của Ngưỡng Sơn,
liền nói với Sư, con tên Huệ Tịch. Ngưỡng Sơn cốt thâu
Tam Thánh, ngược lại Tam Thánh thâu Ngưỡng Sơn. Ngưỡng Sơn
chỉ được trả đủa, nói Huệ Tịch là ta, là chỗ phóng
hành. Tam Thánh thưa: con tên Huệ Nhiên, cũng là phóng hành.
Vì thế, ở dưới Tuyết Đậu tụng “hai thâu, hai phóng nếu
làm tông”. Chỉ trong một câu đồng thời tụng xong. Ngưỡng
Sơn cười hả! hả! Cũng có quyền có thật, có chiếu có
dụng, vì kia tám mặt linh lung. Thế nên, chỗ dùng được
đại tự tại. Cái cười này cùng cái cười của Nham Đầu
không đồng. Nham Đầu cười có thuốc độc. Cái cười này
ngàn xưa, muôn xưa gió mát lạnh run. Tuyết Đậu tụng ra:
TỤNG:
Song thâu song phóng nhược vi tông
Kỵ hổ do lai yếu tuyệt công
Tiếu bãi bất tri hà xứ khứ ?
Chỉ ưng thiên cổ động bi phong.