TẮC
1: THÁNH ĐẾ ĐỆ NHẤT NGHĨA
LỜI
DẪN: Cách núi thấy khói tức biết có lửa, cách tường thấy
sừng liền biết có trâu. Nêu một rõ ba, mắt nhìn liền biết
cân lượng, là việc tầm thường cơm nước trong nhà thiền.
Đến như cắt đứt các dòng, Đông vọt lên Tây lặn xuống,
dọc ngang thuận nghịch buông nắm tự tại, chính khi ấy hãy
nói là chỗ hành lý của người nào ? Thử xem sắn bìm của
Tuyết Đậu.
CÔNG
ÁN: Lương Võ Đế hỏi Đại sư Đạt-ma: “Thế nào là Thánh
đế đệ nhất nghĩa ?” Đạt-ma đáp: Rỗng thênh không Thánh.
Vua hỏi: Đối trẫm là ai ? Đạt-ma đáp: Chẳng biết. Vua
không khế hội. Đạt-ma bèn sang sông đến Ngụy. Sau vua đem
việc này hỏi Hòa thượng Chí Công. Chí Công tâu: Bệ hạ
lại biết người này chăng ? Vua nói: Chẳng biết. Chí Công
tâu: Đây là Quán Âm Đại sĩ truyền tâm ấn Phật. Vua hối
hận sai sứ đi thỉnh trở lại. Chí Công tâu: Chẳng những
bệ hạ sai sứ đi thỉnh chẳng được, dù người trong cả
nước đi thỉnh y cũng chẳng trở lại.
GIẢI
THÍCH: Tổ Đạt-ma xa xem thấy cõi này có căn khí Đại thừa
vượt biển mà đến, riêng truyền tâm ấn, vạch bày những
lớp mê, chẳng lập văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy
tánh thành Phật. Nếu thế ấy thấy được thì có phần tự
do, chẳng bị tất cả ngôn ngữ chuyển, thoát thể hiện thành,
liền hay ở sau cùng Võ Đế đối đáp và chỗ an tâm của
Nhị Tổ tự nhiên thấy được, không có một mảy tình trần
phân biệt, một đao chặt đứt, thong dong tự tại, đâu cần
phân phải phân quấy, biện được biện mất. Tuy nhiên thế
ấy, khéo được có mấy người.
Võ
Đế thường đắp ca-sa giảng kinh Phóng Quang Bát-nhã cảm
được hoa trời rơi loạn, đất biến thành vàng, hiển đạo
thờ Phật, ra chiếu cho toàn dân cất chùa độ Tăng, y kinh
điển tu hành, người đời gọi ông là Phật tâm Thiên tử.
Tổ Đạt-ma vừa gặp Võ Đế, vua hỏi: Trẫm cất chùa độ
Tăng có công đức gì ? Đạt-ma đáp: Không công đức. Đây
là tạt một gáo nước lạnh vào mặt. Nếu thấu được câu
không công đức này, bảo ông thấy Tổ Đạt-ma. Hãy nói cất
chùa độ Tăng tại sao toàn không công đức ? Ý này ở chỗ
nào ? Võ Đế cùng Pháp sư Lũ Ước, Phó Đại sĩ, Thái tử
Chiêu Minh luận bàn về chân đế, tục đế, cứ theo trong
kinh nói: Chân đế để rõ phi hữu, tục đế để rõ phi vô,
chân tục không hai tức là Thánh đế đệ nhất nghĩa. Đây
là chỗ cực diệu cùng huyền của giáo lý. Vua đem chỗ cực
tắc này hỏi Tổ Đạt-ma: Thế nào là Thánh đế đệ nhất
nghĩa ? Tổ Đạt-ma đáp: Rỗng thênh không Thánh. Thiền tăng
khắp nơi nhảy không khỏi chỗ này. Tổ Đạt-ma cho y một
đao đứt sạch. Ngày nay có một số người hiểu lầm trở
lại đùa tinh hồn, trợn mắt đứng tròng bảo: Rỗng thênh
không Thánh. Đáng cười không dính dáng. Ngũ Tổ tiên sư (Pháp
Diễn) nói: “Chỉ câu ‘Rỗng thênh không Thánh’ nếu người
thấu được về nhà ngồi an ổn, còn bậc nhất đẳng thì
làm sắn bìm, chẳng ngại cho y đập bể thùng sơn.” Tổ
Đạt-ma thật là kỳ đặc, là tại tham thấu một câu thì
ngàn câu muôn câu đồng thời thấu, tự nhiên ngồi được
đoạn, nắm được định. Người xưa nói: “Tan xương nát
thịt chưa đủ đền, một câu rõ suốt vượt trăm ức.”
Tổ Đạt-ma bổ thẳng vào đầu y một phát,cũng đã ít nhiều
lận đận. Vua chẳng tỉnh, lại đem chấp nhân ngã hỏi lại:
“Đối trẫm là ai ?” Tổ Đạt-ma từ bi quá lắm, lại nhằm
y nói: “Chẳng biết.” Liền đó Võ Đế sửng sốt không
biết chỗ rơi, ấy là lời nói gì ? Đến trong đó, có việc
không việc đem lại đều không kham. Hòa thượng Nghĩa Đoan
có làm bài tụng:
TỤNG:
Nhất tiễn tầm thường lạc nhất điêu
Cánh gia nhất tiễn dĩ tương nhiêu
Trực qui Thiếu Thất phong tiền tọa
Lương chúa hưu ngôn cánh khứ chiêu.
DỊCH:
Một mũi tầm thường rớt một con
Lại thêm một mũi tỏ lòng son
Thẳng về Thiếu Thất ngồi trên đảnh
Lương chúa thôi đừng có ngóng mong.
Lại
bảo: Ai ngóng mong. Vua chẳng hội, Ngài âm thầm ra khỏi
nước. Cái lão này chỉ đành bối rối. Ngài qua sông đến
nước Ngụy. Nhằm lúc vua Hiếu Minh Đế đang trị vì, ông
là người chủng tộc phương Bắc họ Thát Bạc, sau này mới
gọi là Trung Quốc. Tổ Đạt-ma đến nước này cũng không
yết kiến vua, đi thẳng đến Thiếu Lâm ngồi xây mặt vô
vách chín năm, tiếp được Nhị Tổ, phương này gọi Ngài
là Bích Quán Bà-la-môn. Vua Võ Đế sau hỏi Chí Công, Chí Công
tâu: Bệ hạ biết người này chăng ? Vua bảo: Chẳng biết.
Câu này cùng câu chẳng biết của Tổ Đạt-ma là đồng là
khác ? Giống thì cũng giống, phải thì chẳng phải. Nhiều
người hiểu lầm nói: Trước kia Tổ Đạt-ma đáp ông là
Thiền, sau này Võ Đế đáp Chí Công “chẳng biết” là chẳng
biết nhau. Thật nào có dính dáng. Chính khi Chí Công hỏi thế
ấy, hãy nói đáp thế nào ? Sao chẳng đập một gậy chết
tốt cho rồi, để khỏi thấy bôi hồ trét lọ. Võ Đế lại
đáp ông: Chẳng biết. Chí Công gặp lúc phải làm, liền nói:
Đây là Quán Âm Đại sĩ truyền Phật tâm ấn. Võ Đế hối
hận sai sứ đi thỉnh lại. Thật chẳng ngại ngùng. Chính
khi Chí Công nói đây là Quán Âm Đại sĩ truyền Phật tâm
ấn, cũng nên đuổi y ra khỏi nước, vẫn còn so sánh chút
ít.
Tương
truyền Hòa thượng Chí Công tịch năm niên hiệu Thiên Giám
thứ mười ba (514), Tổ Đạt-ma sang Trung Quốc niên hiệu Phổ
Thông năm đầu (520) cách nhau bảy năm, tại sao lại nói đồng
thời gặp nhau, đây ắt là sai. Cứ theo truyện chép, nay chẳng
luận việc này, chỉ cần biết đại cương thôi. Vả lại
nói Đạt-ma là Quán Âm, Chí Công là Quán Âm thì ai là Quán
Âm thật, đã là Quán Âm sao lại có đến hai ? Chẳng những
có hai mà thành đoàn kết đội. Thời Hậu Ngụy, Luật sư
Quang Thống, Tam Tạng Pháp sư Bồ-đề-lưu-chi cùng Tổ Đạt-ma
luận nghị. Tổ bác tướng chỉ tâm, các vị vì lượng nhỏ
hẹp, tự không kham nhận, dấy khởi tâm hại, nhiều lần
để thuốc độc. Đến lần thứ sáu, do hóa duyên đã hết,
đã được người truyền pháp, nên không cần cứu, Tổ ngồi
ngay thẳng mà tịch, nhập tháp trên núi Hùng Nhĩ tại chùa
Định Lâm. Thời Hậu Ngụy, Tống Vân đi sứ đến núi Thông
Lãnh gặp Tổ tay xách chiếc giày về Tây. Võ Đế nhớ lại
tự làm văn bia: “Than ôi ! Thấy đó chẳng thấy, gần đó
chẳng gần, gặp đó chẳng gặp, kim ấy cổ ấy, oán ấy
hận ấy.” Lại tán: “Tâm có vậy, nhiều kiếp mang thân
phàm phu, tâm không vậy, trong khoảng sát-na liền lên Diệu
giác.” Hãy nói Đạt-ma hiện nay ở đâu ? Lầm qua cũng chẳng
biết.
TỤNG:
Thánh đế khoách nhiên
Hà đương biện đích.
Đối trẫm giả thùy ?
Hoàn vân bất thức.
Nhân tự ám độ giang
Khởi miễn sanh kinh cức.
Hạp quốc nhân truy bất tái lai
Thiên cổ vạn cổ không tương ức.
Hưu tương ức
Thanh phong táp địa hữu hà cực.
DỊCH:
Thánh đế rỗng thênh
Làm sao biết trúng.
Đối trẫm là ai ?
Lại bảo chẳng biết.
Nhân đây ngầm sang sông
Há khỏi sanh gai góc.
Người cả nước mời chẳng trở về
Muôn đời ngàn đời nhớ nhau rỗng.
Thôi nhớ nhau
Gió mát khắp nơi nào có tột.
Sư
xem bên trái bên phải bảo: Trong đây lại có Tổ sư chăng
? Tự đáp: Có, gọi đến rửa chân cho Lão tăng.
GIẢI
TỤNG: Cứ theo lời tụng công án này của Tuyết Đậu giống
như người giỏi múa kiếm Thái A, huơi trong hư không thênh
thang mà không chạm đến lưỡi bén. Nếu người không có
thủ đoạn này, vừa nắm đến liền chạm lưỡi đứt tay.
Nếu là người có mắt sáng, thấy Sư một đưa ra một rút
lại, một khen một chê, chỉ dùng bốn câu đủ quyết định
một tắc công án. Phàm tụng cổ chỉ là “nhiễu lộ nói
Thiền”, niêm cổ đại cương là “cứ khoản kết án”
mà thôi. Tuyết Đậu vì kia lôi ra bổ thẳng vào đầu, liền
nói: “Thánh đế rỗng thênh, làm sao biện trúng.” Tuyết
Đậu ngay câu đầu hạ một câu này rất là kỳ đặc. Hãy
nói cứu kính làm sao biện trúng ? Dù cho mắt sắt tròng đồng
dò tìm cũng chẳng được. Đến trong đây dùng tình thức
suy đoán được chăng ? Do đó Vân Môn nói: Như chọi đá nháng
lửa, như làn điện chớp. Cái này không rơi vào tâm cơ, ý
thức, tình tưởng đợi ông mở miệng, kham làm gì ? Khi khởi
so sánh thì chim điêu đã bay đến Tân La. Tuyết Đậu nói,
Thiền tăng khắp nơi các ông làm sao biện trúng ? “Đối
trẫm là ai” liền hạ “lại bảo chẳng biết”. Đây là
Tuyết Đậu rất mực từ bi vì người trùng lặp. Vả nói
“rỗng thênh” cùng “chẳng biết” là một loại hay hai
thứ ? Nếu là người đã liễu ngộ thì chẳng nói mà hiểu,
người chưa liễu ngộ quyết định cho là hai. Chư phương
tầm thường đều nói Tuyết Đậu một phen chỉ lại. Đâu
chẳng biết chỉ bốn câu tụng đã tột công án. Sau vì lòng
từ bi tụng ra sự tích “nhân đây ngầm sang sông, há khỏi
sanh gai góc”. Tổ Đạt-ma đến xứ này vì gỡ niêm mở trói,
nhổ đinh tháo chốt, dẹp trừ gai góc, tại sao lại nói “sanh
gai góc” ? Chẳng những là người đương thời, mà người
đời nay gót chân vẫn còn lún sâu mấy trượng. “Người
cả nước mời chẳng trở về, muôn đời ngàn đời nhớ
nhau rỗng”, rất mực chẳng trượng phu. Hãy nói Đạt-ma
ở chỗ nào ? Nếu thấy Đạt-ma là thấy chỗ rốt sau vì
người của Tuyết Đậu. Tuyết Đậu sợ e người chạy theo
tình kiến, vì thế rút hẳn cây chốt cửa, bày kiến giải
của chính mình, nói: “Thôi nhớ nhau, gió mát khắp nơi nào
có tột.” Đã thôi nhớ nhau, việc dưới gót chân ông lại
là gì ? Tuyết Đậu nói chính nay gió mát khắp nơi, trên trời
dưới trời chỗ nào thiếu. Tuyết Đậu nắm việc ngàn xưa
muôn xưa ném đến trước mặt. Chẳng những Tuyết Đậu đương
thời chỗ nào thiếu ? Mà trên phần của các ông cũng chỗ
nào thiếu ? Sư lại sợ người chấp ở trong ấy, lại lập
phương tiện, lớn tiếng bảo “trong đây lại có Tổ sư
chăng” ? Tự đáp “có”. Tuyết Đậu ở trong ấy chẳng
ngại vì người lòng son từng mảnh. Lại tự nói: “Gọi
đến rửa chân cho Lão tăng”, giảm tột uy quang người. Đương
thời đã làm đầy đủ bổn phận. Thử nói ý Tuyết Đậu
ở chỗ nào ? Đến trong ấy gọi lừa là phải, gọi ngựa
là phải, gọi Tổ sư là phải ? Danh mạo thế nào ? Người
thường bảo rằng: Tuyết Đậu sai sử Tổ sư. Đáng
tức cười không dính dáng. Nói xem, cứu kính thế nào ? Chỉ
cho lão Hồ biết, chẳng cho lão Hồ hiểu.
TẮC
2: TRIỆU CHÂU CHÍ ĐẠO VÔ NAN
LỜI
DẪN: Càn khôn chật, mặt trời trăng sao đồng thời tối,
dù cho gậy như mưa rơi, hét tựa sấm sét, cũng chưa đảm
đang được việc hướng thượng trong Tông thừa. Giả sử
chư Phật ba đời chỉ nên tự biết, lịch đại Tổ sư đồng
đề chẳng lên, một Đại tạng kinh thuyên chú chẳng đến,
Thiền tăng mắt sáng tự cứu chẳng xong, đến trong ấy làm
sao thưa hỏi ? Nói một chữ Phật đã phết bùn dính nước,
nói một chữ Thiền đã hổ thẹn đầy mặt. Bậc Thượng
sĩ cửu tham chẳng đợi ngôn thuyết, hàng hậu học sơ cơ
cần phải nghiên cứu.
CÔNG
ÁN: Triệu Châu dạy chúng: Chí đạo không khó, chỉ hiềm
chọn lựa, vừa có ngữ ngôn là chọn lựa là minh bạch. Lão
tăng không ở trong minh bạch, các người lại tiếc giữ hay
chăng ? Có vị Tăng hỏi: Đã chẳng ở trong minh bạch thì
tiếc giữ cái gì ? Triệu Châu nói: Ta cũng chẳng biết. Tăng
hỏi: Hòa thượng đã chẳng biết, vì sao nói chẳng ở trong
minh bạch ? Triệu Châu bảo: Hỏi việc thì được, lễ bái
rồi lui.
GIẢI
THÍCH: Hòa thượng Triệu Châu tầm thường cử thoại đầu
này, chỉ tại “chỉ hiềm chọn lựa”. Chỗ này trong Tín
Tâm Minh của Tam Tổ nói: “Chí đạo không khó, chỉ hiềm
chọn lựa, chớ nên yêu ghét, rõ ràng minh bạch.” Vừa có
phải quấy là chọn lựa là minh bạch, hiểu thế ấy là lầm
qua rồi. Giảo đính giao niêm kham làm việc gì ? Triệu Châu
nói là chọn lựa là minh bạch. Người nay tham thiền hỏi
đạo, chẳng ở trong chọn lựa là ngồi trong minh bạch. Lão
tăng chẳng ở trong minh bạch, các ông lại tiếc giữ hay không
? Đã chẳng ở trong minh bạch hãy nói Triệu Châu ở chỗ
nào ? Vì sao lại bảo người tiếc giữ ? Ngũ Tổ tiên sư
thường nói: “Duỗi tay khỏi ông, ông làm sao hiểu ?” Hãy
nói thế nào là chỗ duỗi tay ? Hiểu lấy ý đầu lưỡi câu,
chớ nhận trái cân bàn (một tiêu chuẩn cố định). Câu hỏi
của vị Tăng này quả là kỳ đặc, nắm Triệu Châu ở trong
không liền tát, “đã chẳng ở trong minh bạch, tiếc giữ
cái gì” ? Triệu Châu lại chẳng dùng gậy dùng hét, chỉ
nói “ta cũng chẳng biết”. Nếu chẳng phải lão này, bị
vị Tăng tát trúng liền quên trước mất sau, nhờ lão có
chỗ chuyển thân tự tại, sở dĩ đáp được như thế. Thiền
tăng ngày nay có hỏi đến cũng nói “ta chẳng biết, chẳng
hiểu”, đây là đồng đường mà khác lối. Vị Tăng này
có chỗ kỳ đặc mới biết hỏi: “Hòa thượng đã chẳng
biết, tại sao nói chẳng ở trong minh bạch ?” Lại khéo tát
một cái nữa. Nếu là kẻ khác thì quên hết đầu đuôi,
Triệu Châu là bậc tác gia, chỉ nói với y: “Hỏi việc thì
được, lễ bái rồi lui.” Vị Tăng này như trước không
làm gì được lão ấy, chỉ đành nuốt hơi ngậm miệng. Đây
là bậc Đại Thủ Tông sư chẳng cho ông luận huyền, luận
diệu, luận cơ, luận cảnh, một bề dùng việc bổn phận
tiếp người. Vì thế nói đem mắng cho ông tiếp mồm, đem
khạc nhổ cho ông tạt nước. Đâu không biết lão này bình
sanh chẳng dùng gậy, hét tiếp người, chỉ dùng ngôn ngữ
bình thường mà mọi người không làm gì được. Bởi vì
lão bình sanh không có nhiều tính toán, cho nên nắm ngang dùng
ngược, thuận hạnh nghịch hạnh được đại tự tại. Người
nay chẳng hiểu được, chỉ nói Triệu Châu không đáp lời
hỏi, chẳng vì người nói, thế là trước mặt lầm qua.
TỤNG:
Chí đạo vô nan
Ngôn đoan ngữ đoan
Nhất hữu đa chủng
Nhị vô lưỡng ban
Thiên tế nhật thượng nguyệt hạ
Hạm tiền sơn thâm thủy hàn
Độc lâu thức tận hỉ hà lập
Khô mộc long ngâm tỏa vị càn.
Nan nan
Giản trạch minh bạch quân tự khan.
DỊCH:
Chí đạo không khó
Lời đúng câu đúng
Một có nhiều thứ
Hai không hai ban
Bên trời, nhật lên nguyệt xuống
Trước lam, nước lạnh núi sâu
Đầu lâu thức hết hỉ nào lập
Cây khô trổi nhạc xích (vòng xúc xích) chưa cùng
Khó khó
Chọn lựa minh bạch anh tự xem.
GIẢI
TỤNG: Tuyết Đậu biết chỗ rơi của Lão, nên tụng “chí
đạo không khó”, theo sau liền nói “lời đúng câu đúng”.
Dở một góc ba góc đều theo. Tuyết Đậu nói: “Một có
nhiều thứ, hai không hai ban”, giống như ba góc trở lại
một góc. Ông hãy nói chỗ nào là chỗ “lời đúng câu đúng”
? Tại sao một lại có nhiều thứ, hai lại không hai ban ? Nếu
không có mắt sáng, nhằm chỗ nào dò tìm. Nếu thấu được
hai câu này, cổ nhân nói đã thành một mảnh, như xưa thấy
núi là núi, thấy nước là nước, dài là dài, ngắn là ngắn,
trời là trời, đất là đất. Có khi gọi trời là đất,
có khi gọi đất là trời, có khi gọi núi chẳng phải núi,
nước chẳng phải nước. Cứu kính làm sao được chỗ bình
ổn ? Gió đến cây động, sóng nổi thuyền cao, xuân sanh hạ
trưởng, thu thâu đông tàng. Một thứ tâm an lặng lẽ vắng
bặt thì bốn câu tụng này hay tuyệt. Tuyết Đậu có thừa
tài, cho nên phân chia, đúc kết, toán ra, chỉ là trên đầu
để đầu, nói “chí đạo không khó, lời đúng câu đúng,
một có nhiều thứ, hai không hai ban”. Tuy không nhiều việc,
mà bên trời, khi mặt trời mọc thì mặt trăng lặn, trước
lam khi núi sâu thì nước lạnh. Đến trong ấy lời cũng đúng,
câu cũng đúng, mỗi mỗi đều là đạo, vật vật toàn chân,
há chẳng phải chỗ tâm cảnh đều quên, làm thành một mảnh
? Tuyết Đậu phần trước đội ngọn cô phong, phía sau ló
đuôi chẳng ít. Nếu người tham được thấu, thấy được
triệt, tự nhiên giống như thượng vị đề-hồ. Nếu người
tình giải chưa quên liền thấy bảy hoa tám mảnh, quyết định
không thể lãnh hội lời nói như thế.