LỜI
DẪN: Vừa có phải quấy, lăng xăng mất tâm; chẳng rơi giai
cấp, lại không dò tìm. Hãy nói thả đi là phải, nắm đứng
là phải ? Đến trong đây còn có mảy tơ đường hiểu, vẫn
kẹt nói bàn, còn mắc cơ cảnh, trọn là nương cỏ gá cây.
Dù cho liền đến chỗ độc thoát, chưa khỏi muôn dặm trông
quê nhà, lại nắm được chăng ? Nếu chưa nắm được, chỉ
lý hội công án hiện thành, thử cử xem ?
CÔNG
ÁN: Khi Tuyết Phong ở am có hai vị Tăng đến lễ bái. Tuyết
Phong thấy đến, lấy tay đẩy cửa am, phóng thân ra ngoài,
nói: Là cái gì ? Tăng cũng nói: Là cái gì ? Tuyết Phong cúi
đầu về am. Vị Tăng sau đến Nham Đầu, Nham Đầu hỏi: Ở
đâu đến ? Tăng thưa: Lãnh Nam đến. Nham Đầu hỏi: Từng
đến Tuyết Phong chưa ? Tăng thưa: Từng đến. Nham Đầu hỏi:
Có những ngôn cú gì ? Tăng thuật lại việc trước. Nham Đầu
hỏi: Ông ấy nói gì ? Tăng thưa: Không nói, chỉ cúi đầu
về am. Nham Đầu nói: Ôi ! Ta hối hận buổi đầu chẳng nói
với y câu rốt sau, nếu nói với y thì người trong thiên hạ
làm gì được lão Tuyết. Tăng đến cuối hạ nhắc lại việc
trước thưa hỏi. Nham Đầu hỏi: Sao không hỏi sớm ? Tăng
thưa: Chưa dám khinh thường. Nham Đầu nói: Tuyết Phong tuy
cùng ta đồng điều sanh, chẳng cùng ta đồng điều tử, cần
biết câu rốt sau chỉ là thế.
GIẢI
THÍCH: Phàm là người phù trì tông giáo phải biện rõ đương
cơ, biết tiến thoái phải quấy, rành giết sống giữ tha.
Nếu như con mắt mờ mờ mịt mịt đến nơi gặp hỏi thì
hỏi, gặp đáp thì đáp, không biết lỗ mũi ở trong tay người
khác. Tuyết Phong, Nham Đầu đồng tham kiến Đức Sơn. Vị
Tăng này tham vấn Tuyết Phong kiến giải chỉ đến thế ấy,
cho đến yết kiến Nham Đầu cũng chẳng từng thành được
một việc, luống phiền hai vị lão Tôn túc, một hỏi một
đáp, một giữ một tha, thẳng đến ngày nay người trong thiên
hạ thành khúc mắc rối loạn, phân giải không ra. Hãy nói
khúc mắc rối loạn ở tại chỗ nào ? Tuyết Phong tuy trải
khắp nơi, rốt sau ở quán trọ Ngao Sơn nhờ Nham Đầu kích
phát mới được dứt bặt đại triệt. Nham Đầu sau bị sa
thải, ở bên hồ làm người đưa đò, hai bên bờ treo mỗi
bên một cái bản, có người cần qua gõ một tiếng bản.
Nham Đầu nói: Ông qua bờ kia, liền trong lùm lau múa chèo chui
ra. Tuyết Phong về Lãnh Nam ở am, vị Tăng này cũng là người
cửu tham, Tuyết Phong thấy đến lấy tay đẩy cửa am phóng
thân ra ngoài nói là cái gì ? Như hiện nay có hỏi thế ấy,
liền chụp lấy nghiền ngẫm. Vị Tăng này cũng lạ, chỉ
đáp lại là cái gì ? Tuyết Phong cúi đầu về am. Thường
thường bảo đây là vô ngữ hội vậy. Vị Tăng này dò tìm
chẳng được. Có người nói Tuyết Phong bị một câu hỏi
của vị Tăng này khiến phải lặng câm về am. Đâu chẳng
biết ý Tuyết Phong có chỗ độc hại. Tuyết Phong tuy được
tiện nghi đâu ngờ giấu thân lại bày bóng. Sau vị Tăng mang
công án này từ Tuyết Phong đến Nham Đầu nhờ phán xét.
Đến nơi, Nham Đầu hỏi: Ở đâu đến ? Tăng thưa: Lãnh Nam
đến. Hỏi: Từng đến Tuyết Phong chăng ? Nếu cần thấy
Tuyết Phong chỉ một câu hỏi này khéo để mắt xem thấy.
Đáp: Từng đến. Hỏi: Có ngôn cú gì ? Lời này cũng chẳng
phải qua suông. Vị Tăng chẳng hiểu, chỉ thiết chạy theo
ngữ mạch kia chuyển. Hỏi: Ông ấy nói gì ? Đáp: Sư cúi
đầu không nói về am. Vị Tăng này đâu chẳng biết Nham Đầu
mang giày cỏ đi trong bụng ông mấy lượt rồi. Nham Đầu
nói: Ôi ! Ta hối hận buổi đầu chẳng nói với y câu rốt
sau, nếu nói với y câu rốt sau thì người trong thiên hạ
làm gì được lão Tuyết. Nham Đầu cũng là giúp mạnh chẳng
giúp yếu. Vị Tăng như trước vẫn tối mịt mịt chẳng phân
đen trắng, ôm một bụng nghi, cho thật là Tuyết Phong chẳng
hội, đến cuối hạ lại nhắc việc ấy để thưa thỉnh.
Nham Đầu bảo: Sao chẳng hỏi sớm ? Lão già này mưu mô làm
sao ! Tăng thưa: Chẳng dám khinh thường. Nham Đầu nói: Tuyết
Phong tuy cùng ta đồng điều sanh, chẳng cùng ta đồng điều
tử, cần biết câu rốt sau chỉ là thế. Nham Đầu quá mực
chẳng tiếc lông mày, các ông cứu cánh làm sao hội ? Tuyết
Phong ở trong hội Đức Sơn làm phạn đầu một hôm trai trễ,
Đức Sơn ôm bát đến pháp đường, Tuyết Phong nói: Chuông
chưa kêu, trống chưa đánh, ông già ôm bát đi đâu ? Đức
Sơn không nói, cúi đầu về phương trượng. Tuyết Phong thuật
lại với Nham Đầu. Nham Đầu nói: Cả nhà Đức Sơn chẳng
hội câu rốt sau. Đức Sơn nghe, bảo thị giả gọi đến
phương trượng hỏi: Ông chẳng nhận Lão tăng sao ? Nham Đầu
thưa thầm ý này. Đến hôm sau, Đức Sơn thượng đường
chẳng giống bình thường. Nham Đầu ở trước Tăng đường
vỗ tay cười to, nói: Đáng mừng ông già hiểu câu rốt sau,
sau này người trong thiên hạ không làm gì được ông, tuy
nhiên như thế, chỉ được ba năm. Công án này như Tuyết
Phong thấy Đức Sơn đều không nói. Sẽ bảo là được tiện
nghi, đâu biết làm giặc rồi vậy. Bởi Sư từng làm giặc,
sau này cũng khéo làm giặc. Vì thế, cổ nhân nói: Một câu
rốt sau mới đến cửa chắc (lao quan). Có người nói Nham
Đầu hơn Tuyết Phong. Hẳn là hiểu lầm rồi vậy. Nham Đầu
thường dùng cơ này dạy chúng: “Kẻ mắt sáng không hang
ổ, bỏ vật là thượng, theo vật là hạ, câu rốt sau giả
sử thân thấy Tổ sư đến cũng lý hội chẳng được.”
Trai trễ, Đức Sơn ôm bát đến pháp đường. Nham Đầu nói
cả nhà Đức Sơn chưa hội được câu rốt sau. Tuyết Đậu
niêm: Từng nghe nói độc nhãn long nguyên lai chỉ đủ một
con mắt. Đâu chẳng biết Đức Sơn là con cọp không răng,
nếu chẳng phải Nham Đầu biết được, sao biết hôm qua cùng
ngày nay chẳng đồng. Các ông cần hội câu rốt sau chăng
? Chỉ cho lão Hồ biết, chẳng cho lão Hồ hiểu. Từ xưa đến
nay, công án muôn sai ngàn khác như rừng gai góc, nếu ông thấu
được thì người trong thiên hạ không làm gì được ông,
chư Phật ba đời đứng ở dưới gió. Nếu ông thấu chẳng
được thì tham: Nham Đầu nói “Tuyết Phong tuy cùng ta đồng
điều sanh chẳng cùng ta đồng điều tử”, chỉ một câu
này tự nhiên có chỗ xuất thân. Tuyết Đậu tụng ra:
TỤNG:Mạt
hậu cú
Vị quân thuyết
Minh ám song song để thời tiết
Đồng điều sanh dã cộng tương tri
Bất đồng điều tử hoàn thù tuyệt.
Hoàn thù tuyệt
Huỳnh đầu bích nhãn tu chân biệt
Nam Bắc Đông Tây qui khứ lai
Dạ thâm đồng khán thiên nham tuyết.
DỊCH:
Câu rốt sau
Vì anh nói
Sáng tối song song đấy thời tiết
Đồng điều sanh mọi người cùng biết
Chẳng đồng điều tử lại đặc biệt.
Lại đặc biệt
Đầu vàng mắt biếc nên phân rõ
Đông Tây Nam Bắc về lại qua
Đêm khuya đồng thấy tuyết ngàn núi.
GIẢI
TỤNG: “Câu rốt sau, vì anh nói”, Tuyết Đậu tụng câu
rốt sau này, ý kia vì nhau toàn rơi trong cỏ, tụng dù có tụng
tột cũng chỉ được đôi chút màu lông. Nếu cần thấy thấu
cũng chưa được. Thế mà dám há miệng nói to “sáng tối
song song đấy thời tiết”, vì ông mở một đường tàn,
cũng vì ông một câu đập chết rồi vậy. Rốt sau lại vì
ông chú giải. Như một hôm Chiêu Khánh hỏi La Sơn: Nham Đầu
nói thế ấy thế ấy, chẳng thế ấy, chẳng thế ấy, ý
chỉ thế nào ? La Sơn gọi: Đại sư ! Khánh ứng thinh: Dạ
! La Sơn bảo: Hai sáng cũng hai tối. Khánh lễ tạ rồi đi.
Sau ba ngày, Khánh lại hỏi: Ngày trước nhờ lòng từ bi của
Hòa thượng chỉ dạy, nhưng khán chẳng vỡ. La Sơn nói: Tận
tình vì ông rồi. Khánh thưa: Hòa thượng cầm lửa đi. La
Sơn bảo: Nếu thế ấy, cứ chỗ Đại sư nghi hỏi ra. Khánh
thưa: Thế nào là hai sáng hai tối ? La Sơn bảo: Đồng sanh
cũng đồng tử. Khánh lễ tạ rồi đi. Sau có vị Tăng hỏi
Chiêu Khánh: Khi đồng sanh cũng đồng tử thì thế nào ? Khánh
đáp: Ngậm lấy miệng chó. Tăng thưa: Đại sư nhận lấy
miệng ăn cơm. Vị Tăng ấy lại đến hỏi La Sơn: Khi đồng
sanh chẳng đồng tử thì thế nào ? La Sơn đáp: Như trâu không
sừng. Tăng hỏi: Khi đồng sanh cũng đồng tử thì thế nào
? La Sơn đáp: Như cọp mọc sừng. Câu rốt sau chính là đạo
lý này.
Trong
hội La Sơn có vị Tăng lấy ý này đến hỏi Chiêu Khánh.
Khánh đáp: Kia đây đều biết, cớ sao ? Nếu ta đến Đông
Thắng Thần Châu nói một câu, Tây Cù Da Ni Châu cũng biết,
trên trời nói một câu, nhân gian cũng biết, tâm tâm biết
nhau, mắt mắt chiếu nhau. Đồng điều sanh vẫn là dễ thấy,
chẳng đồng điều tử lại đặc biệt. Thích-ca, Đạt-ma
cũng dò tìm chẳng được. “Đông Tây Nam Bắc về lại qua”,
cảnh giới có đôi chút đẹp. “Đêm khuya đồng thấy tuyết
ngàn núi”, hãy nói là song minh hay song ám, là đồng điều
sanh hay đồng điều tử ? Thiền tăng đủ mắt sáng thử phân
rành xem ?
?
TẮC
52: TRIỆU CHÂU ĐỘ LỪA ĐỘ NGỰA
CÔNG
ÁN: Tăng hỏi Triệu Châu: Nghe tiếng cầu đá Triệu Châu đã
lâu, đến nơi chỉ thấy cầu khỉ. Triệu Châu bảo: Ông chỉ
thấy cầu khỉ, nên chẳng thấy cầu đá. Tăng hỏi: Thế
nào là cầu đá ? Triệu Châu đáp: Độ lừa độ ngựa.
GIẢI THÍCH: Thành Triệu Châu có cây cầu đá do Lý Ưng tạo,
đến nay nổi tiếng trong thiên hạ. Cầu khỉ tức là cây
cầu bắc một cây. Vị Tăng này cố ý làm giảm uy quang Triệu
Châu, nên hỏi: Nghe tiếng cầu đá Triệu Châu đã lâu, đến
nơi chỉ thấy cầu khỉ. Triệu Châu đáp: Ông chỉ thấy cầu
khỉ nên chẳng thấy cầu đá. Cứ chỗ hỏi của vị Tăng
giống như lối nói chuyện bình thường. Triệu Châu dùng câu
để câu y, quả nhiên y bị mắc câu. Theo sau y hỏi: Thế nào
là cầu đá ? Triệu Châu đáp: Độ lừa độ ngựa. Quả thật,
trong lời tự có chỗ xuất thân. Triệu Châu không giống Lâm
Tế, Đức Sơn dùng gậy dùng hét, chỉ dùng ngôn cú sống
chết. Công án này khéo khéo xem, chỉ giống như bình thường
đấu cơ phong. Tuy nhiên như thế, cũng thật khó nương gá.
Một hôm, Triệu Châu cùng Thủ tọa xem cầu đá. Châu hỏi:
Là người nào tạo ? Thủ tọa đáp: Lý Ưng tạo. Châu hỏi:
Khi tạo nhằm chỗ nào hạ thủ ? Thủ tọa đáp không được.
Châu bảo: Bình thường nói cầu đá, hỏi đến chỗ hạ thủ
cũng không biết. Một hôm, Triệu Châu quét đất, có vị Tăng
hỏi: Hòa thượng là thiện tri thức vì sao lại có bụi ?
Châu đáp: Bên ngoài đến. Tăng hỏi: Già-lam thanh tịnh vì
sao lại có bụi ? Châu đáp: Lại có một điểm. Có vị Tăng
hỏi: Thế nào là đạo ? Châu đáp: Ngoài tường ấy. Tăng
thưa: Chẳng phải hỏi đạo này, hỏi đại đạo. Châu đáp:
Đại đạo thấu Trường An. Triệu Châu riêng dùng cơ này,
Sư đến chỗ bình thật an ổn, vì người cũng không chạm
bén đứt tay, tự nhiên cao vót, dùng được cơ này quá khéo.
Tuyết Đậu tụng ra:
TỤNG:
Cô nguy bất lập đạo phương cao
Nhập hải hoàn tu điếu cự ngao
Kham tiếu đồng thời Quán Khê lão
Giải vân phách tiễn diệc đồ lao.
DỊCH:
Vút siêu chẳng lập đạo mới cao
Vào biển cần câu được cá ngao
Cười ngất đồng thời cùng lão Quán
Bảo rằng chụp tiễn uổng công lao.