PHẦN
BA
TỤNG
NIỆM
DẪN
NHẬP
Có nhiều người tiếp xúc
với thiền chỉ qua sách vở nên khi đến thiền viện rồi
mới biết mình còn lầm lẫn thiếu sót, không phân biệt giữa
các tượng Phật và tượng Bồ tát, tụng kinh và nghi lễ.
Toạ thiền, đúng, họ nhủ thầm, là điều mong đợi--nhưng
còn cái này? Tuy giáo lý được gọi là Thiền Phật giáo với
hai ngàn năm trăm năm tồn tại và phát triển là một truyền
thống tôn giáo phong phú mà trong đó việc tụng niệm đóng
vai trò quan trọng. Thật sai lầm khi nói tụng niệm tách biệt
với tọa thiền. Chắp tay cuối mình xá khi vào hay rời thiền
đường, đãnh lễ chư Phật và chư Bồ tát và cúng dường
thánh chúng, thường xuyên dự các lễ sám hối--những hành
vi này khi được thực hiện với tâm vô niệm sẽ gạn lọc
những cảm xúc và tịnh tâm dần dần làm mềm đi những cạnh
sắc và những nét thô cứng của nhân cách. Bởi vì chúng
được dùng để "gọt" cái bản ngã-Tôi, đẩy nhanh tới giác
ngộ. Thực hành tụng niệm một cách chí thành cũng giúp giải
thoát lòng từ bi sẵn có của chúng ta, vì vậy nó có thể
hoạt động tự do trong cuộc sống hàng ngày.
Những lễ lộc được tiến
hành qua nhiều thế kỷ ở các quốc gia Phật giáo truyền
thống bây giờ đã bén rễ trên mãnh đất Hoa kỳ. Tại Trung
tâm thiền, những lễ nghi này qua quá trình tiến hóa tự nhiên
đã thích nghi với văn hoá phương Tây của chúng ta--Thêm vào
những sự kiện đáng nhớ trong cuộc đời--Ðám tang, đám
cưới, lễ thọ giới-- Các ngày lễ được đưa vào lịch
bao gồm: ngày Phật đản, ngày Phật nhập niết bàn, ngày
Phật thành đạo; ngày vía đức Bồ đề đạt ma; ngày giổ
Tổ, ngày Tết và, mỗi tháng, lễ sám hối và lễ cứu trợ
người bị đói trên toàn thế giới. Có ý nghĩa tương tự
là lễ Tạ Ơn--lễ này biểu lộ lòng biết ơn sâu sắc hợp
với sự tụng niệm thiền và nhuận sắc cho ngày lễ của
Phật giáo Hoa kỳ, một ngày lễ sản sinh bởi người Mỹ.
Có lúc nhiều tín đồ của
các tôn giáo truyền thống Tây phương dường như không hiểu
ý nghĩa hay mối quan hệ giữa nghi thức và lễ nghi, tốt nhất
nên nhớ rằng nghi thức không phải là một cái vỏ bọc trống
rỗng. Vì trong đó, sự biết ơn, lòng kính tín và những cảm
xúc tâm linh khác hiện diện, chúng có thể được đào sâu
hơn và có ý nghĩa hơn khi được diễn tả theo một kiểu
qui cách chính thức như những cử động có thể được mang
nhiều ý nghĩa hơn khi được biến thành vũ điệu, hay âm
thanh biến thành tiếng nhạc.
Tụng kinh giữ một vai trò
quan trọng trong tu tập. Hiếm thấy một thiền viện nào mà
không có những nam nữ tín đồ tập trung ở chánh điện ít
nhất mỗi ngày một lần để tụng kinh và đọc những lời
dạy của các thiền sư đã đắc ngộ. Thanh âm trầm bổng
của việc đọc tụng kinh dựa theo từng nghi thức; ấn định
một cung bậc mà qua đó người tham dự nâng cao sự tỉnh
thức, và khả năng tiếp nhận những gì đang được tiến
hành.
Vào lúc bình minh mỗi ngày
một tiếng trống vang rền phá vở sự tỉnh lặng báo hiệu
cho các thiền sinh xếp thành hàng đi vào thiền đường để
đọc kinh. Sau tiếng trống đầu tiên này, bùm, người đánh
trống quét cái dùi bằng gỗ vào cái vòng bằng đồng của
rìa trống, tạo ra âm thanh vội vã và sâu. Rồi những cú
đập mạnh vào vành gỗ--"clắc cắc, clắc cắc.."--tạo nên
tiết điệu trước khi đi dần đến một nhịp cuối cùng
trên mặt trống.
Sau khi trống dứt, liền theo
là tiếng chuông vọng lâu, lan tỏa khắp thiền đường. Vị
duy-na ngồi ngay ngắn trước chuông, mỗi tay cầm một cái
dùi, hình trụ lớn có bọc vải ở đầu, khai chuông cho những
bài tụng khác nhau và ngắt quãng giữa các câu tụng sau khi
đại chúng tụng dứt câu. Khi "buông" cái dùi nặng lên vành
chuông, vị duy-na sẽ nhận ra ngay cái đánh đó mạnh hay yếu,
hay nhắm không đúng góc hay sai điểm trên chuông, âm thanh
không thoát ra một cách trọn vẹn. Trong thiền người ta nói,"
Ðừng gõ pháp khí mà hãy để nó tự kêu ".
Sau đó đến lượt tiếng mõ,
nó bắt đầu chậm chạp," Cốc…cốc…cốc," dần dần tăng
tốc độ, giống như một chuyến tàu lửa khởi hành, khi ấy
tất cả đại chúng hoà vào một giọng oang oang đều đều
duy nhất. Cũng như với chuông, người gõ mõ với một cái
dùi bịt vải ở đầu không "đánh" vào pháp cụ mà chỉ nhẹ
nhàng điều khiển nó sao cho nó tự phát ra âm thanh. Tiếng
mõ cần sâu đủ để lượn phiá dưới âm thanh tụng niệm,
do đó tạo ra một nhịp phách mà mọi người có thể hoà
theo. Buổi lể cầu nguyện trộn lẫn rất nhiều nhân tố
khác nhau, một giọng mạnh mẽ của người chủ sám nghe đơn
độc khi bắt đầu buổi lễ, kêu gọi sự đáp ứng của
đại chúng có khoảng năm mươi đến ba trăm người tụng.
Tiếng đập thình thịch như nhịp tim của cái mõ tạo ra đối
âm với những hồi chuông ngân vang như chúng đan chéo sự
tương phản và hài hoà với giọng tụng kinh đều đều.
Trong khi tụng toàn thân được
thả lỏng. Năng lượng dành cho tụng niệm đến từ đan điền
và âm thanh dội lại đến các hốc đầu. Khi tụng thân không
lay động, tư thế trang nghiêm, thẳng tay để trên lòng.
Người tụng lấy giọng tự
nhiên thấp nhất của chính mình--nốt của phần thấp nhất
của âm giai có thể được duy trì dễ dàng không căng thẳng--trong
khi đồng thời hoà với giọng cao để tạo nên một giọng
đều đều xuất phát từ đan điền. Giọng không lên xuống
như ca hát. Tụng niệm là cách duy nhất để thâm nhập vào
độ sâu nhất của tâm. Nó vượt ra khỏi tri thức để đánh
thức ngộ và biểu lộ mãnh liệt sự chân thành không có
tính gợi cảm.
Có hai loại đọc tụng: tụng
kinh và tụng chú.
Kinh là những lời dạy của
Ðức Phật, tuy nhiên có khi bao gồm lời dạy của sư tổ.
Cái thuận lợi của việc tụng kinh bằng chính ngôn ngữ của
tín đồ là sự lập lại một cách thường xuyên chân lý
ấy, ấn mạnh vào tiềm thức, từ đó gây tín tâm lớn hơn
và hiểu biết sâu hơn. Không có nổ lực nào của ý thức
được thực hiện để nắm bắt ý nghĩa, vì nó thâm nhập
một cách tự phát mà không chịu sự kiểm soát được bởi
tâm duy lý. Tâm thái được tạo ra bởi tụng niệm--nhiệt
thành dẫn đến mức độ tự siêu việt--là điều quan trọng
tiên khởi.
Mật chú là một câu thần
chú mở rộng, một chuổi âm thanh có nhịp điệu diễn tả,
qua những rung động tâm linh độc đáo của nó, chân lý vô
thượng vượt qua tất cả nhị nguyên. Sức mạnh của mật
chú khơi dậy những lực vô hình khi tụng một cách toàn tâm,
sức mạnh này tuỳ thuộc vào âm thanh, và tâm thái người
tụng. Vì vậy mật chú sẽ có công năng lớn hơn khi được
đọc tụng bởi một người trong sạch ở đức tin, tập trung
trong tâm và đáp ứng từ trái tim. Cấu trúc của mật chú
không quan trọng miễn là khi tụng phải có nhịp điệu du
dương vì là kết quả tự nhiên của kinh nghiệm tôn giáo.
Tuy vậy vì chưa ai thành công trong công việc chuyển ngữ cho
nên không có bài thần chú nào được trình bày trong sách
này --ngoại trừ câu chú ở cuối Tâm Kinh Bát Nhã.
Cần phải phân biệt giữa
tụng kinh với đọc kinh. Ðọc kinh có lẽ không gì hơn là
sự lập lại một đoạn kinh. Tụng kinh thì được phát ra
từ sâu trong bụng và khi thực hiện một cách vô ngã thức
có sức mạnh xuyên thấu các cỏi vô hình và hữu hình. Tâm
là vô hạn; tụng nhiệt thành với tâm thanh tịnh nhất tâm
cũng là một hình thức khác của tọa thiền, một cách học
trực tiếp Phật-Pháp trong vô niệm. Làm theo cách này, tụng
kinh cũng là cách gia tăng định lực giúp đi tới giác ngộ.
Ở Trung tâm thiền Rochester,
hầu hết các bài tụng đều bằng tiếng Anh; phổ biến nhất
là :Tứ Hoằng Thệ Nguyện, Bát nhã tâm kinh, Xưng tán công
đức toạ thiền và Tín tâm minh. Các bài kệ này mở đầu
cho chương Tụng Niệm. Có nhiều bản dịch tiếng Anh khác
phát xuất từ những bài này, điều khác biệt là ở đây
chúng được tu chỉnh lại đặc biệt cho phần tụng niệm
nhằm mang lại sự lưu lóat và thuận tai.
Theo sau các bài kệ là những
lá thư và các mẩu vấn đáp đề cập đến những khó khăn
thường gặp trong tụng niệm. Dẫu những phần này có ích,
độc giả vẫn cần tự mình tham gia tụng niệm mới có thể
đánh gía đầy đủ ý nghĩa của nó.