18 GIÁ TRỊ CỦA MỘT
NGỌN NÚI " THÁNH" VỚI TỌA THIỀN LÀ GÌ?
NGƯỜI HỎI:Tôi có ý định
nghỉ phép ba tháng để thiền một mình và tôi đang phân vân
nơi nào là tốt nhất để đi. Tôi được biết là thường
thường các thiền tăng lên núi, nhưng người ta nói rung động
tốt thì ở sa mạc hay ở biển. Ý thầy nghĩ sao?
LÃO SƯ: Lúc mới bắt đầu
tập thiền, bất cứ nơi nào yên lặng, trong hay ngoài nhà,
nơi có những rung động sẽ giúp qúi vị tập trung hướng
nội tốt nhất cho việc tọa thiền; điều này chắc chắn
sẽ gồm núi và sa mạc. Nhưng ở lâu ở những nơi lý tưởng
như vậy là không tốt, vì không có khó khăn để tranh đấu,
nó sẽ xây nên một sức mạnh giả, một sự yên lặng và
sự kiên định hời hợt; nó vở vụn khi đối diện với
những yêu cầu của cuộc sống. Như ở trên sân thể thao,
những vận động viên vượt rào được người ta cho rằng
phát triển toàn diện sức mạnh, lớn hơn người chạy nước
rút; tương tự như vậy người học tập trung và thống nhất
tâm giữa sự ồn ào náo nhiệt có sự ổn định và dể thích
nghi nhiều hơn so với người dành nhiều năm đơn độc trong
núi hay sa mạc hay những nơi tịch tỉnh khác.
Theo kinh nghiệm của tôi có
rất ít sự cô tịch hay "yên lặng bình an" ở các tu viện
hay trung tâm thiền, nơi sự luyện tập rất gắt gao. Chỉ
trong tiểu thuyết lãng mạn phương Ðông, hay trên màn bạc,
những tu viện được đặt trong một thung lũng xanh tươi phát
ra sự yên bình thượng giới, một nhà hiền triết râu tóc
bạc phơ trong bộ y phục mượt mà, với cây gậy trong tay,
nhẹ nhàng nói, " Các con à…" với những đồ đệ có khuôn
mặt dể thương quây quần bên ông trong khi những lời châu
ngọc khôn ngoan tuôn ra từ miệng ông, và phía sau là một
mặt trời rực rở đang lặng xuống cuối chân trời. Thực
tế, tôi tin là, ít lãng mạn hơn thế nhiều.
Tôi nhớ rất rõ chuyến ở
lại sáu tuần tại một tu viện Phật giáo tại Rangoon cuối
những năm năm mươi. Việc tôi đến ngẫu nhiên trùng với
một cuộc bố ráp của quân chính phủ mới thành lập, để
giảm mật độ chó quá lớn ở thủ đô Rangoon. Dưới thời
Thủ tướng phật tử U-Nu, súc vật không được quấy rầy,
nhưng với uy lực của quân đội chúng bị lùa lại bắn chết.
Trung tâm Phật giáo gồm khoảng
năm trăm mẫu và một số am thất cá nhân. Ở những ngôi
nhà này là nơi các tì kheo và tì kheo ni cũng như
các cư sĩ tu thiền ăn ở. Với bản năng sinh tồn, những
con chó trốn thoát vào tu viện tìm nơi cư trú, ở mỗi ngôi
nhà này chúng tự thành lập một tốp từ mười đến mười
lăm con chó, đứng đầu là con chó đầu đàn và có sự phân
cấp rõ ràng. Sau các bửa ăn, các thức ăn thừa được đem
cho đàn chó, sắp hàng trước cửa theo cấp bực, ăn. Thường
có màn dùng thủ đoạn để đoạt chổ trong những con chó
đói, và theo định kỳ, chó đầu đàn phải quyết đấu với
những con chó trẻ tìm cách cướp quyền của nó. Thỉnh thoảng
chó từ nhà này cố gắng chen vào hàng chờ thức ăn của
nhà khác và bị sủa xua đuổi. Ðôi lúc tiếng hú--ăng ẳng--gầm
gừ khốc liệt. Một người Anh vừa đến từ Luân đôn phàn
nàn chua chát," Tôi đến đây mong tìm một nơi yên tỉnh, cái
mà không thể có ở Luân đôn, nhưng nhìn xem tôi gặp cái
gì! Ai có thể thiền giữa tiếng ồn ào khốn kiếp này?
Tu viện người Nhật cũng không
thoát khỏi sự gây mất tập trung từ bên ngoài. Tại một
tu viện tôi đã ở ba năm trước khi đến Rangoon gặp một
vấn đề tương tự gây ấn tượng bởi lũ súc vật. Dân
làng trong đêm lén lút mang những con chó hay mèo con mà họ
không cần đến, tới tu viện thả xuống phía dưới tòa nhà
với hi vọng các tăng sẽ bằng cách nào đó có thể nuôi
chúng. Những con vật này lớn lên bán hoang dã ở một khu
đất trống giữa đất và sàn tòa nhà. Các tăng để dành
thức ăn thừa cho chúng, nhưng chỉ buổi tối những con vật
này mới ra ăn và đi lảng vảng. Rồi ngày đến chúng lẻn
vào hang nơi chúng ngủ, chơi đùa và đánh nhau. Lúc nào cũng
vậy, vào buổi tọa thiền sáng sớm và chiều động thú vật,
như các tăng gọi nó, thình lình phát ra âm thanh hổn độn
của tiếng ăng ẳng, sủa tru, gầm gừ, rên xiết, meo meo,
xuỵt xuỵt, gừ gừ, ở thiền đường có thể nghe rõ.
Với sức mạnh tập trung, sau
hai ba tháng tọa thiền, thật ngạc nhiên, những tấu khúc
nhạc jazz này thường đóng vai trò thúc đẩy thay vì cản
trở, vì nổ lực mạnh mẽ vượt qua sự ồn ào đã mở khoá
năng lượng thường không thể tiếp xúc được. Khi ta thành
công trong việc tập trung vào sự luyện tập, tiếng ồn, qua
những phép mầu nào đó, biến thành một ban đồng ca hài
hoà.
Có những âm thanh không mời
mà đến khác nữa. Ban ngày mỗi tuần ba lần, những toa xe
lửa chất đầy trâu bò đi giết thịt ngừng nữa giờ ở
sân cạnh nhà ga xe lửa. Nhửng con vật này linh cảm chúng
sắp bị giết , làm xé trời với những tiếng rên rĩ thảm
thiết, mà ở thiền đường có thể nghe rõ. Học cách đối
phó với những sự gây xao lãng này chúng tỏ được huấn
luyện tốt.
NGƯỜI HỎI:Thầy có nói ở
lại lâu ở vùng núi là dại, nhưng không phải các thiền
sư ở Nhật và Trung quốc đã sống và tọa thiền trong núi
nhiều năm sao?
LÃO SƯ: Ðiều đó đúng, nhưng
ít ai tiếp tục sống như một ẩn sĩ hay khổ hạnh. Sau khi
sống đời cô tịch một thời gian, hầu hết tham gia cộng
đồng tu viện miền núi. Những cộng đồng có hàng trăm tăng.
Ở?Dharmsala, trên những ngọn đồi phiá bắc Ấn độ ngày
nay, qúi vị sẽ tìm thấy những cộng đồng tu sĩ và cư sĩ
Tây tạng, có lẽ tương tự với những cộng đồng ở Trung
hoa cổ xưa.
Từ thời xưa các thiền tăng
và dân thường thích núi hơn sa mạc hay biển. Nhưng qúi vị
phải biết là có những núi thánh và có những núi thường.
NGƯỜI HỎI: "Núi thánh" mà
thầy nói là gì?
LÃO SƯ: Những núi được biết
đến thiêng liêng như trung tâm năng lượng vũ trụ, bằng
sức mạnh buộc gợi lên sự sợ hải và kính trọng. Hơn
thế nữa, năng lượng những núi này hướng người ta vào
trong, và làm kích thích những rung động tinh vi nhất trong
chính ta. Ðáp lại, năng lượng cao này đòi hỏi sự cởi
mở và tâm-thân trong sạch. Người có định hướng tâm linh
đến với núi thiêng hay núi thánh có thể được gọi là
hồng ân-- đó là sự trong trắng--và được nâng lên bởi
sức mạnh vô hình của núi và chính sự kính sợ của họ.
Qua những nghi thức lễ nghi, cái tôi bị vượt qua và khoảng
cách giữa người sùng mộ và núi biến mất. Rồi núi không
còn là núi, nó trông giống một con người có hai chân ,điều
đáng nói là nó hùng vĩ hơn.
Tôi đã từng trải qua một
thời gian tu tập ở một ngọn núi thiên ở Mê-hi-cô, thoạt
đầu mới đến, tôi thấy nó giống như một đô thị gồm
các chùa xây trên núi. Cảnh đó thật là xúc động đến
nổi tôi thét lên với một niềm vui kinh ngạc. Không giống
các rặng Alps hay Rockies cao và xa xăm trong sự hùng vĩ của
nó, nó lớn hơn cở một hình nhân, thu hút người ta và thân
tình. Người ta cũng có cái cảm giác tương tự như vậy khi
đến ngọn núi thiên Arunachala Sri Ramara Maharshi ở Ấn độ.
Tôi tọa thiền trong một hang
động giữa lòng núi Mễ tây cơ này với hai đại đệ tử.
Rõ là những đại lể mang nghi thức tôn giáo đã từng được
tổ chức ở đây, vì những rung động của nghi thức đó
vẫn còn được cảm nhận phảng phất quanh quất đâu đây.
Về sau, chúng tôi mới biết thời xưa người Maya, Toltec và
Aztec từ xa đến đây dự những buổi lễ.
NGƯỜI HỎI THỨ HAI: Giá trị
xã hội gì ở đây trong việc ra ngoài để thiền trên núi
hay sa mạc?
LÃO SƯ: Trong trường hợp đối
với những người đã phát triển tâm linh, giá trị xã hội
rất lớn. Anh hãy tự hỏi tại sao thiền sư, không là gì
ngoài lòng từ bi, lại tự giam mình trên núi, trừ phi ông
biết là làm như thế ông có thể giúp người khác. Trong truyền
thống của thiền, như qúi vị đã nghe, các sư và những bậc
giác ngộ khác đều sống cô tịch. Vì gánh nặng thế gian
được cởi bỏ, họ có thể dành nhiều thời gian cho tọa
thiền đọc kinh,và hoằng pháp. Thực ra, họ trở thành những
trạm truyền Phật lý đến tâm con người ở khắp mọi nơi,
không khác các đài truyền thanh truyền hình.
NGƯỜI HỎI THỨ HAI: Ðể tiếp
nhận âm thanh và hình ảnh từ đài phát thanh và truyền hình,
người ta cần có bộ phận thu thanh và thu hình cũng như biết
tầng số và kênh phát tín hiệu. Vậy, làm cách nào người
ta có thể hoà điệu trong khi họ không biết là ai đang
toả những rung động tâm linh vào họ?
LÃO SƯ: Họ đã được hoà
điệu dù họ có biết hay không biết , vì họ là một
bộ phận trọn vẹn của một tâm. Theo quan điểm Phật giáo,
ý thức cá nhân là lực năng lượng "hiểu biết ", tổng cộng
các loạt thay đổi không ngừng của cảm giác, ấn tượng,
nhận thức, tư niệm, khuynh hướng, ký ức. Tất cả căn bản
là sự trống rỗng. Như một phương tiện luôn thay đổi của
tâm, ý thức cũng mở rộng với những lực năng lượng tương
tự và cao hơn--chẳng hạn như Phật tâm--trong đó tương tác
không ngừng giữa cá nhân và vũ trụ, ý thức cũng như vô
thức. Nhưng con người bị lầm bởi lý trí nhị nguyên của
họ, mất đi sự nhận thức về sự trao đổi căn bản này.
Từ đó xa lánh phát triển lòng mong muốn vô thức về sự
hài hoà, lòng mong ước được nuôi dưỡng bởi những sự
tận cùng cô độc của những vị sư, người có tâm giác
ngộ, trong sạch, giới luật tinh nghiêm, có thể tự do hấp
thụ năng lượng cao và truyền chúng vào tâm người khác.
Sự trao đổi căn bản này không bao giờ mất. Nhờ vậy, cái
"tín hiệu" đó xuyên thấu và thực sự tác động làm biến
đổi tận nơi sâu thẳm nhất của ý thức. Tất cả điều
đó, xảy ra ở mức độ vô thức, không làm nó kém thật.
NGƯỜI HỎI THỨ BA: Có chứng
cứ khoa học nào chứng tỏ những gì thầy vừa nói thật
sự xảy ra hay không?
LÃO SƯ: Tại sao trong khi ta
có thể truyền xung động điện từ hàng ngàn dặm trong không
gian để thay đổi hướng di chuyển của con tàu vủ trụ--chiến
công đó chắc không gây sợ hãi hơn tâm lực-- có phải là
những gì bạn vừa nghe có thể chấp nhận được khi không
có bằng chứng khoa học , phải không? Bạn không biết là
hành động trong trạng thái xuất thần, khả năng dịch chuyển
hay làm biến dạng đối tượng vật chất bởi chỉ một tiến
trình của tâm, hoặc ảnh hưởng đến tâm người khác từ
một điểm xa xôi, là một hiện tượng được công nhận
hoàn toàn trong môn nghiên cứu siêu tâm lý hay sao?
NGƯỜI HỎI THỨ HAI: Xin thầy
vui lòng kể cho chúng tôi những kỹ thuật mà những vị thầy
này truyền rung động của họ và năng lượng của núi?
LÃO SƯ: Không có kỹ thuật
mà là cách tọa thiền khác nhau. Nếu mục đích là giúp người
đau khổ cực độ--chẳng hạn, là nạn nhân của những trận
động đất, lụt lội hay tai họa khác--vị sư có lẽ tập
trung ý thức ông vào những nơi như vậy.
NGƯỜI HỎI THỨ HAI: Chính
xác ông ta làm như thế nào?
LÃO SƯ: Trong những phút đầu
của buổi tọa thiền ,chẳng hạn ông có thể cho phép tâm
mình trụ trên những hình ảnh tinh thần của những nạn nhân,
sau đó ông phóng cảm giác cảm thông và từ bi đến họ.
Bằng cách này tạo nên mối quan hệ tốt với họ, rồi ông
sẽ xóa bỏ các hình ảnh cảm giác và mọi thứ khác trong
tâm để đi vào trạng thái vô niệm. Chính ở điểm này của
sự giống nhau tuyệt đối, nơi nhận thức về núi, bản thân,
và mọi hình ảnh hay suy nghĩ biến mất, sự truyền đi xảy
ra. Nhưng quí vị không cần phải là vị sư, cũng không cần
tọa thiền trên núi thiêng để giúp chính mình và người
khác. Theo lời thiền sư Ðạo Nguyên," Một người ngồi vô
bản ngã trong tọa thiền trở nên một người không thể nhận
ra với thế giới vô hình hay hữu hình, suốt qúa khứ, hiện
tại, vị lai, tiếp tục thực hiện công việc không ngừng
dẫn dắt con người tới giác ngộ."
NGƯỜI HỎI THỨ TƯ: Tôi có
biết một câu chuyện, vài năm trước chính quyền Mỹ ở
Mát-cơ-va khám phá người Nga đang chiếu sóng vi ba vào toà
đại sứ Mỹ. Người ta tin rằng nó gây ra bệnh mệt mỏi,
và rối loạn thần kinh bất thường xảy ra trong số nhân
viên sứ quán. Tôi cũng biết là CIA tham gia thí nghiệm điều
khiển hành vi con người bằng thiết bị điều khiển từ
xa như dẫn con người đến tuân phục ý chí áp đặt nào
đó.
Câu hỏi của tôi là : Có sự
khác biệt thật nào giữa loại điều khiển tâm đó và những
gì thầy đang nói không? Cho là mục tiêu khác nhau, không phải
bất cứ kiểm soát tâm nào là nguy hiểm, đặc biệt là nằm
trong tay những người xấu hay sao?
LÃO SƯ: Chắc chắn là có thể.
Từ những gì anh nói nó, có lẽ chúng ta đang đi vào thời
đại nguy hiểm mới của một cuộc chiến không tuyên bố.
Nhưng hãy hiểu là có sự khác nhau rất lớn giữa cố gắng
vị tha của thiền sư, có mục đích duy nhất là đến với
ngộ--không kiểm soát-- tâm vô thức của những người trong
bóng tối tuyệt vọng và những hành động của những nhà
kỹ thuật quân sự hay những người có năng lực siêu nhiên
điều khiển ý thức vì mục đích đáng ngờ nhất.
NGƯỜI HỎI THỨ TƯ: Lão sư,
tọa thiền có thể làm tâm con người không bị ảnh hưởng
bởi sự điều khiển từ xa hay không?
LÃO SƯ: Bất cứ ai luyện tập
thiền nghiêm túc đều biết là tọa thiền phát triển tâm
mạnh mẽ dưới sự kiểm soát tự nhiên, có thể trung hoà
bất cứ nổ lực nào điều khiển nó.
NGƯỜI HỎI THỨ TƯ: Tọa thiền
có thể bảo vệ chúng ta chống lại sóng vi ba không?
LÃO SƯ: Tôi không biết. Ngoài
các máy rà sóng hay phá sóng, có lẽ có sự bảo vệ không
lâu, ngoại trừ yếu tố ngăn cản của sự sợ hải trả
thù lẩn nhau. Tuy nhiên ở đây người thực hành thiền hay
hệ thống tương tự để rèn luyện tinh thần, tâm- thân không
lo âu cuồng nộ khi nghe những điều này. Và khi họ phải
chết, họ sẽ có thể làm điều đó điềm tĩnh.
NGƯỜI HỎI THỨ NĂM: Tôi có
thể đưa ra một đề tài khác được không? Từ "rung động"
làm phiền tôi, vì tôi không hiểu nó; và người ta chuyền
nó quanh, tưởng như họ có thể cảm nhận cái mà kẻ ngu
ngốc vô cảm như tôi không thể. Nghĩa mong muốn của nó là
gì?
LÃO SƯ:Chúng ta biết từ môn
vật lý là tất cả vật chất, động và bất động có sở
hữu những lực điện từ mà bản chất của chúng được
quyết định bởi mức rung động của những hạt điện tử
của nó. Khi rung động của một người hay một nơi hài hoà
với chính ta, chúng ta cảm thấy dễ chịu và phản ứng của
ta ở đây tích cực; khi chúng không hòa hợp, ta cảm thấy
khó chịu và nói " Tôi không thích rung động của anh ta" hay
" Tôi không thích rung động ở đây." Nói khác đi, nó là bầu
không khí hay phẩm chất vô hình bao quanh một người hay một
nơi.
NGƯỜI HỎI THỨ NĂM: Thế
còn về sa mạc hay biển được dùng làm nơi tọa thiền thì
sao?
LÃO SƯ: Ðừng bao giờ cố
thử tọa thiền ở sa mạc. Tôi không thể nói từ kinh nghiệm
cá nhân. Nhưng những hội viên của Trung tâm đã làm và có
những báo cáo mâu thuẫn nhau.
Tọa thiền ở vùng biển có
cái lợi của nó, nhưng bờ biển có nhiều người đến bơi,
tắm nắng nên không dẫn đến việc tọa thiền nghiêm túc.
Nên nhớ là khi anh ngồi trên núi và nhìn quang cảnh trải
rộng, anh có thể bị cám dổ triết lý hóa cảnh đẹp và
sự mong manh của đời người; điều đó cũng tương tự như
khi tọa thiền ở biển hay sa mạc. Những cám dổ như vậy
có thể làm ngăn trở tọa thiền.
NGƯỜI HỎI THỨ NHẤT: Từ
kinh nghiệm của thầy, thời gian nào trong ngày toạ thiền
tốt nhất?
LÃO SƯ: Nói chung, trong một
ngày đêm có bốn thời tốt nhất để toạ thiền có lợi
cho thân tâm: bình minh, giờ ngọ, hoàng hôn,và lúc nửa đêm.
Ðối với núi, tôi nhận thấy giờ tốt nhất để tọa thiền
là trước khi mặt trời mọc.
NGƯỜI HỎI THỨ NHẤT: Tại
sao như vậy?
LÃO SƯ: Sau khi núi đã hút
năng lượng vũ trụ từ mặt trời, không khí và trái đất,
rồi tiêu hóa hay "hấp thu" những chất dinh dưỡng vô hình
này qua đêm. Vì vậy, sáng sớm, trước khi mặt trời mọc,
ngọn núi khoẻ mạnh sung sức, nguồn năng lượng của nó
trôi tự nhiên. Cộng với không khí mát lúc đó, làm bạn
có thể dể dàng dẹp đi các tư niệm, hoà nhập với ngọn
núi và hút sự phát ra của nó. Vào buổi trưa nóng, đặc
biệt ở các nước thuộc vùng nhiệt đới, năng lượng của
núi trở nên bất động, tưởng như con quái vật đá đang
đánh một giấc ngủ trưa. Nhưng vào buổi chiều một lần
nữa nó sống lại, khóat lên cái cảm giác mát lạnh. Nó cũng
là thời gian thích hợp để tọa thiền. Nhưng không gì bằng
tọa thiền trên núi lúc trăng tròn.
NGƯỜI HỎI THỨ SÁU: Còn thiền
trong hang động thì sao? Không phải thầy đã thiền trong hang
động ở núi thiêng Mê-hi-cô hay sao?
LÃO SƯ: Hang động thì tốt
, nếu không phải " động của sa-tăng"
NGƯỜI HỎI THỨ SÁU: Nó là
gì?
LÃO SƯ: "Ðộng của sa-tăng"
là một thành ngữ thiền nói về trạng thái hạnh phúc yên
bình trở nên điạ ngục, vì cho là thật sự ngộ nên người
ta muốn ở lại trong cái chổ giới hạn như bào thai của
nó.
NGƯỜI HỎI THỨ SÁU: Tại
sao người ta lại không muốn rời?
LÃO SƯ[ nói với mọi người]
: Ðó là lý do tại sao nó được gọi là " động của
sa-tăng"!