c
|
[00]
Mục Lục |
[00-1]
Lời nói đầu |
[00-2]
Lời tựa |
PHẦN
I : TIA SÁNG THIỀN ÐỊNH
|
[01-01]
Dẫn nhập |
[01-02]
Ðối Thoại 01-17 |
[01-03]
Ðối Thoại 18 |
[01-04]
Ðối Thoại 19-24 |
[01-05]
Ðối Thoại 25-27 |
[01-06]
Ðối Thoại 28-30 |
PHẦN
II : THỜI KỲ NHIẾP TÂM
|
[02-01]
Dẫn
nhập |
[02-02]
Ngày
Thứ Tư, Lời bình về " Ba bất lực" Công Án 88 của Bích
nham lục |
[02-03]
Ngày
Thứ Năm, Lời bình về" Tôi không biết" Công Án 1 của
Bích nham lục |
[02-04]
Ngày
thứ sáu,-
Lời
bình về " Một người ở trên một cái cây" Công Án 5
Vô môn quan của Vũ môn. Ngày thứ bảy, Lời bình
về " Suy nghĩ không tốt cũng không xấu"?Công Án 23 Vô môn
quan của Vũ môn |
[02-05]
Mô Tả Sự Giác Ngộ |
[02-06]Thật
hân hạnh là một con người |
PHẦN
III : SỰ TỤNG NIỆM
|
[03-01]
Dẫn nhập |
[03-02]
I
/ NHỮNG BÀI KỆ: Tứ hoằng thệ nguyện - Tâm kinh Bát Nhã
- Bạch Ẩn Huệ Hạc toạ thiền ca - Tín tâm minh |
[03-03]
II/
MỘT LÁ THƯ VÀ MỘT LỜI ÐÁP: Thiền đạo?" nó làm tôi
mất khí thế" |
[03-04]
III
NHỮNG ÐỐI THOẠI: Không phải cúng dường cho Ðức Phật
sao? Từ bi , giống như tình yêu, không phải là những gì người
ta nói đến - Quán thế âm, vị Bồ tát của lòng từ bi, thật
sự hiện hữu hay không? Sám hối những hành vi tội lỗi và
che dấu những hành động tốt |
PHẦN
IV: ÐẠO ÐỨC VÀ TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI
|
[04-01]
I NHỮNG BỨC THƯ VÀ LỜI ÐÁP: "Sống trên đời như là
một Phật tử Thiền có ý nghĩa gì?"" Thiền là một cách
trốn thoát?Bạn đang làm gì để giúp đở xã hội"" Tôi có
phải từ bỏ gia đình để đắc ngộ trong Thiền hay không?" |
[04-02]
II CÁC ÐỐI THOẠI: Ngộ đưa ra giải pháp cho những
vấn đề đạo đức nan giải phải không? Thiền ở trên đạo
đức nhưng đạo đức không thấp hơn Thiền - Nhà chứa và
Phật giáo |
[04-03]
III
THUYẾT PHÁP: Giới luật thứ nhất " đừng giết
mà nên nuôi dưỡng những mầm sống" : tranh luận về giết
thú vật, phá thai, chiến tranh, tự sát, giúp người bệnh
chết nhẹ nhàng theo ý muốn. Lời cuối cùng? Một chú thích
cá nhân |
[05]
Lời kết |
c |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
cÐại
Thừa Xuất bản 1998
THIỀN,
ÁNH BÌNH MINH PHƯƠNG TÂY
Nguyên
Tác: Roshi Philip Kapleau
Việt
dịch : Huỳnh Công Hoàng
25 CÁI GÌ , NẾU CÓ
THỂ LÀM SỐNG CÁI CHẾT SINH HỌC?
NGƯỜI HỎI: Mới đây có một
số nghiên cứu được thực hiện, nhiều sách viết về đề
tài cuộc sống sau cái chết. Tuy nhiên nhiều người vẫn nghi
ngờ. Họ cho rằng, không có những chứng cớ khoa học về
việc này. Thiền nói gì về khả năng sống trong những hình
thức kế tục sau cái chết?
LÃO SƯ: Người ta chỉ có thể
tự hỏi làm sao có thể nghi ngờ sanh, lớn lên, già đi, phân
rã , tái xuất hiện--không phải đó là chu trình của các
hiện tượng tự nhiên hay sao? Bất cứ ai nghi ngờ điều đó,
là đã từ chối bằng chứng của chính giác quan, trí tuệ,
và trực giác sâu kín nhất của họ. Anh có bao giờ tự hỏi
" cái gì xảy ra với sức sống, cho năng lực phía sau những
hoạt động tạo ra cái "tôi" của ta, sau khi tách nó ra khỏi
thân ta. Ðịnh luật bảo toàn năng lượng nói rằng năng lượng
không bao giờ mất đi, nó chỉ biến dạng, vì vậy làm cách
nào sức sống này có thể biến mất mãi mãi?
NGƯỜI HỎI:Tôi muốn tin là
nó không mất. Nhưng liệu có ai từng sống lại để kể cho
ta nghe những điều như vậy không?
LÃO SƯ: Không có ai trong phòng
này đã không sống lại--hàng ngàn lần! Mọi cuộc sống là
sự sống sau cái chết.
NGƯỜI HỎI: Thầy thật sự
muốn nói thế sao, lão sư?
LÃO SƯ: Tại sao lại phải
ngạc nhiên hơn khi chính Voltaire cũng đã chỉ ra rằng khi được
sinh ra hai lần còn hơn là chỉ được sinh ra có một lần.
NGƯỜI HỎI THỨ HAI:Thầy có
thể nói tôi biết tôi sẽ như thế nào trong kiếp sau không?
LÃO SƯ: Ðừng hỏi tôi, chỉ
việc nhìn vào gương.
NGƯỜI HỎI THỨ HAI: Ý của
thầy muốn nói gì?
LÃO SƯ: Phật dạy rằng nếu
muốn biết về quá khứ, hãy nhìn vào hiện tại. Nhân của
ngày hôm nay là quả trong tương lai. Nói cách khác, những gì
ta nghĩ và làm hiện giờ đang quyết định bạn sẽ như thế
nào vào kiếp sau--hãy cẩn thận!
NGƯỜI HỎI THỨ BA: Có nhiều
mô tả về người chết bằng kỹ thuật và rồi sau đó được
làm sống lại. Ðó là những người từ cỏi chết trở về
mô tả kinh nghiệm thoát xác của ho,?thật là đẹp đẽ đến
nổi không muốn trở lại tấm thân khổ đau của họ nữa.
NGƯỜI HỎI THỨ TƯ ( nói với
người thứ ba): Anh muốn nói những người tim ngừng đập
và cho thấy không còn dấu hiệu sự sống trong một thời
gian ngắn nhưng chẳng bao lâu sống lại. Ðiều đó hoàn toàn
khác với những người chết mà thân thể của họ bị chôn
hay bị thiêu.
LÃO SƯ: Hãy để tôi kể về
kinh nghiệm thoát xác, những điều đẹp đẽ được mô tả
như vậy chỉ là giai đoạn đầu. Vì người ta thiếu chuẩn
bị cụ thể về tu luyện tâm linh, điều theo sau cái bước
đầu tiên có thể là sự sợ hãi, ngay cả kinh hoàng, tuỳ
theo nghiệp của người đó. Những bước sau đó được mô
tả chi tiết trong hai cuốn sách của Vasubandhu (Thế thân),
một triết gia Phật giáo ở thế kỷ thứ tư. Tác phẩm Tạng
Thư Sống Chết hay Cận Tử Thư của Tây tạng được viết
ra dựa trên căn bản của hai cuốn sách này.
NGƯỜI HỎI THỨ NĂM:Tại sao
tu luyện tâm linh là điều cần thiết? Tại sao người ta không
thể tự chuẩn bị cho những thử thách đó bằng cách đọc
sách hay nghiên cứu?
LÃO SƯ: Trong cảnh giới trung
chuyển giữa chết và tái sinh (Bardo) qúi vị bị chạm trán
với những hình ảnh ma quỷ ghê rợn kinh hồn, có ích gì
khi những điều bạn đọc được chỉ là những phóng ảnh
từ nhận thức của chính mình? Giống như những ảo giác
trong những cuộc hành trình cam go tồi tệ. Các ảo giác đó
có sức mạnh làm cho bạn sợ vì bạn không hiểu bản chất
của chúng và không biết cách xua tan chúng đi.Bây giờ giả
sử trong lúc tọa thiền bạn có những ảo giác về loại
này hay loại khác được lập đi lập lại nhiều lần, và
mỗi lần như thế đều được người thầy hướng dẫn tại
sao chúng nảy sinh và dạy cách đối phó chúng. Bạn sẽ học
được cái kinh nghiệm không sợ chúng và kinh nghiệm đó sẽ
giúp bạn rất nhiều trong cuộc sống sau cái chết và nếu
sự huấn luyện thật hoàn hảo, nổi đau của cái chết có
lẽ sẽ không quấy rối nhận thức này.
NGƯỜI HỎI THỨ SÁU: Có phải
cảnh giới trung chuyển này giống như" bardo" được nói đến
trong cuốn sách về cái chết của người Tây tạng không?
LÃO SƯ: Ðúng vậy.
NGƯỜI HỎI THỨ BẢY:Thầy
có thể nói thêm cho chúng tôi nhiều hơn về cuộc sống trong
cỏi trung chuyển này không?
LÃO SƯ: Theo Vasubandhu, trong
cảnh giới này con người trung gian ( thân trung ấm) có sự
thông minh, tình cảm và ý chí--tất cả các tinh túy--và ngay
cả nhận thức. Và giống như một dòng điện, có thể đi
xuyên qua những vật thể rắn và có thể di chuyển hàng trăm
dặm trong một sát na.
NGƯỜI HỎI THỨ BẢY: Mất
bao lâu cho việc được tái sinh trong tương lai?
LÃO SƯ: Thường tái sinh xảy
ra trong thời gian bốn mươi chín ngày. Nhưng thời gian này
không cố định; nó có thể xảy ra trong một ngày hay một
tuần;có khi mãi đến mấy năm sau. Dường như thời gian tái
sinh được quyết định bởi những nhân tố khác do sự hấp
dẫn về nghiệp của người đó với cha mẹ. Con số bốn
chín tức bảy lần bảy. Trong nhiều hệ thống tôn giáo bao
gồm Phật giáo, con số bảy là biểu hiện cái căn bản của
vũ trụ.
Phật giáo nói về hai loại
sinh tử: tương tục và " thường trực". Sinh tử tương tục-đó
là, sự sáng tạo và sự hũy diệt--xảy ra trong một phần
triệu giây hay những tốc độ tương tự như vậy, khi những
tế bào già chết và cái mới sinh ra. Vì vậy, chúng ta có
thể nói cái tôi mới không ngừng được sinh ra và người
ở tuổi sáu mươi thì không giống như, tuy không khác với,
người ở tuổi ba mươi hay mười. Như vậy sự sống trong
hấp hối và sự hấp hối trong khi đang sống. Thực tế, mỗi
lần hít vào bạn đang được tái sinh và mỗi lần thở ra
bạn đang hấp hối.
Sinh tử thường trực cũng
có thể được xem như một thân "thật" khi nó liên quan tới
thân vật chất ( physical body) và những biến tướng của nó
như một tổng thể của sự sinh ra và mất đi ở cuối một
cuộc đời. Lúc chết, năng lượng sống của con người, hay
nghiệp, được truyền sang thân trung ấm và sự sống của
nó, cũng chịu sự sinh tử liên tục và thường trực , chỉ
có trong trạng thái này sự chết và tái sinh thường xuyên
xảy ra trong thời gian bảy ngày. Ðó chính là lúc con người
trung gian tìm cơ hội để gá vào thai tạng. Con người trung
gian này, theo Vasubandhu, có năng lực bí mật trong việc biết
được sự giao hợp của cha mẹ mà nhờ nó có thể thọ thai.
NGƯỜI HỎI THỨ BẢY: Làm
cách nào năng lượng nghiệp (nghiệp lực) truyền từ người
đang hấp hối đến người trung gian?
LÃO SƯ: Có nhiều cách tương
tự được dùng để mô tả diễn trình chuyển tiếp này.
Thầy tôi dùng dấu ấn của con dấu trên bùn để so sánh.
Cuộc sống hiện tại là con dấu và thân trung ấm là bùn.
Kiểu dáng của con dấu là nghiệp. Bây giờ con dấu được
ấn xuống bùn, dạng hình của nó hay kiểu nghiệp được
hoàn đổi chính xác.
Người khác thì so sánh nó
như chơi bi-da. Bạn thụt một trái banh để đẩy một nhóm
banh khác làm nó rãi rác khắp mọi hướng; nhưng viên bi bạn
dùng để thụt dừng ngay tại điểm chết (dead stop) khi va
chạm mạnh. Hướng di chuyển của banh tùy thuộc vào cách
đánh -- ví dụ, có đánh xoáy hay không--và còn tuỳ thuộc
vào xung lực mà nó tác động trên những quả banh khác. Tương
tự, khi ấn cái dấu vào bùn, dấu ấn nằm lại sau khi con
dấu được lấy đi, thế có bản thể nào mất đi không?
Không phải một cách đơn giản là " đặc tính" của con dấu;
sự hoán đổi của nó với bùn, được giữ lại hay sao?
NGƯỜI HỎI THỨ BẢY: Nhưng
có một số thực thể phải chết. Nếu không, làm sao ta có
thể nói là ta có thể trở thành một cái gì đó trong lần
tái sinh kế đó, mà nó lệ thuộc vào cách sống hiện tại
của ta?
LÃO SƯ: Tái sinh không liên
quan gì đến việc chuyển bản thể mà nó là sự tiếp nối
của một quá trình. Phật dạy," tái sinh phát xuất từ hai
nguyên nhân: tư niệm cuối cùng của đời trước như nguyên
tắc điều khiển của nó và những hành động của kiếp
trước như nền tảng của nó. Sự ngưng tư niệm cuối cùng
được hiểu là chết, sự xuất hiện tư niệm đầu tiên
là tái sinh."
NGƯỜI HỎI THỨ SÁU: Giả
sử một người sống một cuộc sống xấu xa nhưng đã ăn
năn trên giường bệnh và làm sạch tội lỗi bằng nghi thức
cuối cùng hay bằng những cách khác.Ta có thể lừa nghiệp
của ta theo cách này hay cách khác bằng cách kiểm soát chặc
chẻ tư niệm cuối cùng được không?
LÃO SƯ: Không, gánh nặng tội
lỗi không thể tránh được và sự bám víu vào cuộc sống
của một người bình thường khiến anh ta không đủ sức
chống lại nghiệp lực của mình. Ðối với một phàm phu,
việc ấy không dễ dàng như buôn lậu một mặt hàng vào một
nước khác, khi đến kiểm tra hải quan, anh ta không nhận hàng
đó là của mình. Tuy nhiên, để làm dể dàng chuyển từ kiếp
này sang kiếp khác, nghi thức cuối cùng được đảm nhận
bởi một tu sĩ có thể làm giảm cảm giác tội lỗi của
người đang hấp hối , bởi những sai lầm, vi phạm trong quá
khứ lúc này sẽ hiện ra với áp lực đè nặng lên tâm lúc
sắp chết.
NGƯỜI HỎI THỨ TÁM: Ở đám
tang Phật tử các sư thực hiện chức năng giống như một
linh mục Thiên chúa giáo hay một giáo sĩ Do thái phải không?
NGƯỜI HỎI THỨ CHÍN: Tôi
đã có lần tham dự một đám tang của một Phật tử , nó
rất khác những đám tang tôi từng tham dự. Thay vì ca tụng
cá tính của người đã khuất, tu sĩ nói thẳng với linh hồn
của người chết. Tại sao ông ta làm điều đó?
LÃO SƯ: Mục đích chính của
đám tang Phật tử không phải là an ủi gia đình người chết--mặc
dầu nó có một ý nghĩa tương tự như vậy--mà để đánh
thức chân tánh của người chết. Khi-chết, thức lià khỏi
thân,trụ vào cỏi trung giới, hiện hữu dưới hình thức
đặc biệt gọi là thân trung ấm. Thân này thoát khỏi mọi
giới hạn và có năng lực cảm nhận rất lớn mà tâm bình
thường của người sống không có được. Vì vậy theo nghĩa
đen tang lễ và những thủ tục sau đó là cơ mayđể giác
tỉnh thần thức của người chết và giải thoát người đó
khỏi những trói buộc của sinh tử. Nếu vị thầy tinh thần
củakẻ quá cố hiểu rõ những diễn biến tâm linh của người
chết và người thầy đó có định lực mạnh mẽ, đám tang
sẽ diễn ra trong sự trang nghiêm và những người tham dự
dể có cảm giác sợ hãi. Trong giọng nói như sấmvang, như
bốc lửa, vị thầy thuyết pháp để khai thị cho thần thức
của người chết .Âm thanh đó được phát ra từ năng lực
giác ngộ của ông, có sức mạnh xuyên thủng và chấn động
đến tam thiên đại thiên thế giới. Thêm vào đó là tiếng
chuông run, tiếng cồng đánh , tiếng xập-xoã đập chan chát
vào nhau, và tiếng trống trổi lên trong nhịp điệu hùng hồn
và kích động, sau đó là Bát Nhã Tâm Kinh được tụng đi
tụng lại nhiều lần với nổ lực không ngớt để đánh
thức giác tâm của kẻ chết. Mục đích của bài tâm kinh
này là để nhắc đi nhắc lại " Sắc tức thị không, không
tức thị sắc". Tất nhiên cũng còn một số nghi thức khácđược
thực hiện trong đám tang và sau đó vào những ngày giỗ. Vì
thời thời gian quan trọng là trong bốn mươi chín ngày đầu
nên việc cúng lễ được thực hiện mỗi ngày suốt trong
tuần đầu và sau mỗi tuần một lần, gọi là "thất". Sau
bốn chín ngày hay bảy thất, việc cúng lễ có thể kéo dài
đến năm thư ba, thứ bảy, thứ mười ba.v.v… đến năm mươi
năm.
NGƯỜI HỎI THỨ MƯỜI: Thế
còn về thiền sư thì thế nào? Nếu lễ tang của ông được
tổ chức, thì ai đứng ra làm lễ?
LÃO SƯ: Thường là người
có sức mạnh tâm linh cao hay đồng giáo phẩm.
NGƯỜI HỎI THỨ MƯỜI: Nhưng
vì ông ta đã đắc ngộ, mục đích của việc thực hiện
các nghi thức tang lễ là gì?
LÃO SƯ: Ngộ không phải là
trạng thái tĩnh. Nó có khả năng mở rộng không ngừng. Việc
tổ chức tang lễ và cúng kị sau đó là để biểu lộ sự
tôn kính đối với người đã khuất và việc cúng lễ được
dùng như phương tiện để duy trì và kéo dài mối liên hệ
giữa người chết và người sống.
NGƯỜI HỎI THỨ MƯỜI MỘT:
Nếu người ta có thể mang theo những thứ đã học hỏi được
của đời trước sang kiếp sau, tại sao người ta phải học
lại cách quan hệ với thế giới khách quan?
LÃO SƯ: Ðể trả lời cho câu
hỏi của bạn cần một sự giải thích dài dòng. Theo triết
lý Phật giáo, toàn thể vũ trụ không là gì khác ngoài ý
thức và không gì tồn tại ngoài tâm. Thức được chia làm
chín bậc. Sáu thức đầu là phát sinh do sự xúc chạm giữa
sáu căn và sáu trần tạo thành ý thức-kinh nghiệm cá nhân,
và tâm-thân sinh ra và chết đi.
Thức thứ bảy, tám, chín không
bị hư hoại khi thân tứ đại tan rã. Thức thứ bảy còn
gọi là mạt na thức , là nhận thức về sự hiện tồn của
một bản ngã thống nhất. Ở thức này, mọi cảm thọ của
sáu thức đầu được chuyển đến thức thứ tám gọi là
A lại đa thức hay kho chứa, nơi mọi hành vi, suy nghĩ hay cảm
giác được ghi lại từng lúc từng lúc.
Thức thứ chín là ý thức
trong sáng, vô tướng-- chân tánh của ta. Nó quan hệ mật thiết
với thức thứ tám đến nổi hầu như không có sự khác biệt
nào giữa hai thức này . Nó có thể được so sánh với một
đại dương mênh mông, ở đó mỗi cuộc sống cá nhân là
ngọn sóng trên mặt.
Hãy nhìn vào biểu đồ này.
Theo ý nghĩa nào đó, thức
thứ tám (A la đại) hay " kho" kinh nghiệm, là cơ sở của cá
tính và nhân cách vì nó không ngừng gieo mầm những hành động
mới, phát sinh những tư niệm khác nhau và cách ứng xử khác
nhau. Nhưng khi những tư niệm, hành vi ứng xử này thay đổi
chất lượng kho chứavì chúng vứa hiện hành vừa huấn tập
tạo thành những chủng tử mới. Nghiệp--bao gồm hành động
và phản ứng (kể cả suy nghĩ và lời nói)--không ngừng phát
triển và tích lũy, ứng với duyên mà sinh ra những hành động
mới--chúng không chỉ là quả mà còn là mầm của nhân. Tiến
trình này, ngay khi được phân ra từng đoạn cũng diễn ra
một cách tương tục đến vô tận. Vasubandhu mô tả nó như
, một " đoạn cong của một thác nước: chủng tử sinh ra
hành động hiện tại, hành động hiện tại tác động lên
chủng tử; tam giác được hình thành; nhân quả thành là một."
Biểu đồ này sẽ làm rõ hơn:
Liên hệ đến câu hỏi của
bạn, dù cá tính của ta mang vào kiếp sau bao gồm những khuynh
hướng, năng khiếu nghề nghiệp, nhưng một người bình thường
không có khả năng nhớ lại kiếp trước hay ý thức các sự
kiện xảy ra trong quá khứ với những chi tiết nối kết nhau
một cách mạch lạc. Ðơn giản là nó trốn hay ẩn nấp trong
vô thức, nơi mà sau này có thể hoặc không thể moi ra, chuyển
vào ý thức tỉnh thức. Ðó là lý do tại sao trẻ em phải
dành thời gian niên thiếu học lại các quan hệ với thế
giới khách quan. Ở một chừng mực nào đó chúng là những
con người xa lạ trong một thế giới xa lạ.
NGƯỜI HỎI THỨ MƯỜI MỘT:
Tuy có những đứa bé khôn trước tuổi mà chúng ta thường
gọi là "cụ non", điều gì khiến chúng như thế?
LÃO SƯ: So với những đứa
trẻ bình thường, những đứa bé này mang vào đời nhiều
ký ức của một hay nhiều đời trước, do đo chúng không
ngoan hơn và không cần phải học lại nhiều.
NGƯỜI HỎI THỨ MƯỜI HAI:
Những gì thầy đang giải thích thật là thú vị. Nhưng trong
cuốn Ba trụ thiền nói Ðức Phật từ chối trả lời
những câu hỏi về điều gì sẽ xảy ra trong kiếp sau, vì
chúng không liên quan đến giác ngộ hay cuộc đời tu tập.
Tại sao thầy lại làm những điều mà đức Giáo chủ của
thầy không làm?
LÃO SƯ: Nếu bạn đọc lại
đoạn đoạn ấy kỹ càng, bạn sẽ hiểu rằng đó là một
vị thánh, một người hoàn toàn được giải thoát chứ không
phải là một con người phàm tục mà chúng ta đang bàn luận.
Do đó Ðức Phật không muốn rằng vị ấy hiện hữu hay không
hiện hữu sau khi chết. Tại sao như vậy? Ngài nói: " "tái
sinh" hay "không tái sinh" hay " cả tái sinh lẫn không tái sinh
hay không tái sinh lẫn không không tái sinh" chẳng liên quan
gì đến đạo giải thoát… Thánh nhân giải thoát khỏi những
ràng buộc của khuôn mẫu, là vô cùng vô tận, bất khả tư
lường, giống như đại dương mênh mông vậy."
Anh có một điểm, theo tôi
đó là lòng tử tế lẩm cẩm như của một bà già, khi tiếp
đón những câu hỏi về cuộc sống sau khi chết từ đám thính
giả này. Ðiều khẩn thiết tìm ra "Ta là ai?" quan trọng hơn
là biết cái gì xảy ra sau khi chết. Ðối với tôi, về vấn
đề này, thật là khá lầm lẩn khi tôi cho rằng tôi có thể
thành công chuyển tải tinh thần thiền thực sư đến với
qúi vị trong bối cảnh này. Tại sao tôi nói điều đó? Vì
mọi thứ ở đây phức tạp và đối kháng với tôi. Khi học
viên đến trung tâm Rochester họ khúm núm, có thể nói như
thế. Họ tỏ ra khiêm tốn và cởi mở và cũng vì họ tôn
trọng quyền hạn của tôi nên họ chấp nhận cách tôi đối
xử với họ, nếu không họ sẽ bỏ đi. Nếu họ không cảm
thấy một nhu cầu bức bách để biến đổi cuộc đời họ,
họ đã không đến. Nhu cầu đó, sự khiêm tốn và cởi mở
mà nó tạo ra, làm tôi có thể giúp họ.
Nhưng khi tôi hiện diện trước
qúi vị, những sinh viên, giáo sư. Tôi đến với đám đông
thính giả mà phần lớn chỉ tò mò về thiền. Tôi bắt buộc
phải hoạt động trong giới hạn của bầu không khí mang những
tiêu chuẩn kinh viện hơn là thiền. Ví dụ, giả sử tôi từ
chối trả lời những câu hỏi của qúi vị về tái sinh hay
đứng lặng yên để đáp lại những câu hỏi khác hoặc trả
lời theo kiểu " nướng không bánh". Lẽ nào giáo sư S--, người
mời tôi đến đây, lại không có những than phiền và có
thể cho là tôi không xứng đáng để nhận tiền của ông."
Chúng ta quyên góp một số tiền thù lao cho Trung tâm của lão
sư chỉ để ông ngồi trước chúng ta câm như hến hay sao?
". Hay nếu tôi đã kích cái ngã của quí vị, ông ta có thể
trách "Tôi không mời ông đến đây để sỉ nhục hoặc chưởi
mắng học sinh tôi."
NGƯỜI HỎI THỨ MƯỜI HAI:
Còn về Bồ đề đạt ma thì sao? Ngài đi từ Ấn độ đến
Trung hoa bằng thuyền và chậm đến Trung hoa [cười]. Hành
trình của ngài có vẻ nhiều hiểm nguy hơn là thầy đến
với hội thảo này.
MỘT GIỌNG NÓI: Thế tại sao
Bồ đề đạt ma đến Trung hoa, còn thầy lại đến đây?
LÃO SƯ: Tôi không biết.
26 QÚI VỊ ÐANG SỐNG HAY
ÐANG CHẾT?
NGƯỜI HỎI: Có nhiều tranh
luận trong giới thầy thuốc ngày nay về cách quyết định
khi nào được xem là chết. Một số nói rằng đó chính là
lúc tim ngừng đập; người khác lại nói rằng đó là lúc
sóng não ngừng hoạt động. Quan điểm Phật giáo thì như
thế nào?
LÃO SƯ: Phật dạy rằng khi
niệm tưởng cuối cùng chấm dứt, đó là chết và khi niệm
tưởng đầu tiên xuất hiện, đó là tái sinh. Vậy hãy nói
cho tôi biết, ngay bây giờ qúi vị đang sống hay đang chết?
NGƯỜI HỎI: Tôi đang sống-ít
nhất tôi cũng hy vọng như vậy.
MỘT GIỌNG NÓI: Nó chết từ
cổ lên.
[cười]
LÃO SƯ: Cả hai đều sai! Bây
giờ hãy suy gẫm cẩn thận về mẫu chuyện thiền này:
Một thiền sư dẫn người
đệ tử đi theo ông đến thămmột gia đình có người thân
vừa mới mất. Khi đến nơi người đệ tử gõ nắp chiếc
quan tài và hỏi thầy mình " Bạch thầy, người này đang sống
hay đang chết?"
Thiền sư đáp," Ta không nói
ông ta đang sống, ta không nói ông ta đang chết."
Người đệ tử nài nỉ," Tại
sao thầy không nói cho con biết?"
" Ta không nói, ta không nói,"
người thầy đáp.
Trên đường về chùa, người
đệ tử vẫn còn bối rối và thắc mắc mãi về câu hỏi
không được trả lời, y đột nhiên quay qua người thầy và
hỏi," Con cần phải biết! Nếu thầy không nói cho con biết,
con sẽ không chịu trách nhiệm những gì con làm với thầy."
"Hãy làm bất cứ thứ gì mi
muốn," người thầy nạt lại," nhưng mi sẽ không có được
câu trả lời của ta đâu." Vì vậy gã đệ tử nổi giận
đánh ông.
Nhiều năm sau đó, sau khi vị
thiền sư mất đi, người đệ tử viếng thăm sư huynh của
mình và kể cho ông này về sự việc trên. Rồi người đệ
tử hỏi," Ông ta đang sống hay đang chết?"
Người sư huynh trả lời,"
Ta sẽ không nói ông ta đang sống, ta sẽ không nói ông ta đang
chết."
Ðệ tử :" Tại sao huynh không
nói cho tôi biết?"
Sư huynh :" Ta sẽ không nói,
ta sẽ không nói."
Người đệ tử hốt nhiên
ngộ.
Bây giờ nhanh lên, nói cho tôi
biết: Tại sao không vị thầy nào trả lời câu hỏi của
người đệ tử?
[nhiều câu trả lời được
đáp lớn.]
LÃO SƯ: Tất cả qúi vị có
lẽ không theo kịp.
Câu chuyện tiếp theo này có
thể giúp quí vị hiểu thêm về đề tài trên. Ở một đám
ma của một vị tăng, một thiền sư nổi tiếng có mặt trong
buổi tiển đưa nhận xét như sau:" Thật là một đám diễu
hành dài các thây ma đi theo sau chỉ một người sống."
NGƯỜI HỎI THỨ HAI: Tại sao
thầy không giải thích mẫu chuyện trên có ý nghĩa gì?
LÃO SƯ: Nếu tôi giải thích,
quí vị sẽ mất đi cơ hội chứng ý nghĩa của nó. Qúi vị
không thể hiểu là người thầy thật khó mà trả lời những
câu hỏi như vậy hay sao?
NGƯỜI HỎI THỨ BA: Trước
kia ngay lúc đầu người đệ tử ấy cũng không hiểu ý của
vị thiền sư muốn nói gì, làm thế nào chúng tôi có thể
hiểu được?
LÃO SƯ: Chừng nào mối quan
tâm về sống chết của qúi vị trở nên cụ thể và thúc
bách như trường hợp của vị tăng kia, qúi vị sẽ tìm thấy
câu trả lời về ý nghĩa của sống chết, và đó sẽ là
sự tự ngộ của quí vị.
27 THIỀN NÓI," ÐỪNG ÐÈ
NÉN TÌNH CẢM," NHƯNG CÒN DẬN DỮ THÌ SAO?
NGƯỜI HỎI:Tôi đã hỏi câu
này trong lúc nghĩ giải lao và được yêu cầu nên nêu ra trong
buổi hội thảo để mọi người cùng được nghe. Buổi sáng
nay lúc bắt đầu buổi tọa thiền, thầy bảo chúng tôi là,
nếu cảm thấy muốn khóc thì cứ khóc, vì trong thiền người
ta không đè nén tình cảm. Giả sử tôi nổi điên lên vì
ai đó đến nổi tôi muốn quát nạt hay đánh người đó.
Tôi có được phép làm như thế không? Có lẽ tôi cảm thấy
tốt hơn nếu tôi làm như thế, nhưng còn người kia thì sao?
LÃO SƯ: Không, anh đừng buôn
thả. Giận là một tình cảm hũy diệt, vì vậy anh cần phải
kiểm soát nó. Không bị ngăn chặn, nó có thể gây nghiêm
trọng cho việc tập thiền của bạn; đó là lý do tại sao
giới cấm thứ chín khuyên đừng mở lối cho sự giận dữ.
NGƯỜI HỎI: Làm cách nào để
kiểm soát nó?
LÃO SƯ: Ðây là kỹ thuật
đơn giản, khi bạn cảm thấy cơn giận nổi lên, hãy thở
thật sâu chầm chậm từ đáy bụng của bạn. Hãy làm như
vậy trước khi cơn giận bùng nổ và thường nó dịu xuống.
NGƯỜI HỎI:Tôi có tính nóng
nảy kinh khủng đến nổi tôi cảm thấy không thể kềm chế
được. Từ lúc còn bé tôi đã như thế rồi. Nó có lẽ có
sẳn trong máu huyết tôi.
LÃO SƯ: Hãy cho tôi biết, tính
nóng đó của bạn ngay bây giờ nó đang ở đâu?
NGƯỜI HỎI:Tôi không biết.
LÃO SƯ: Nếu nó ở trong máu
của anh thì nó sẽ luôn theo anh, phải không? Thật ra, nó chính
là do anh tạo ra và vì vậy tự anh có thể loại bỏ nó.
NGƯỜI HỎI THỨ HAI: Giận
xuất phát từ đâu?
LÃO SƯ: Từ cái Tôi--" Tôi
bị ngược đãi, tôi bị lăng nhục, tôi bị khinh miệt, tôi
bị thất bại"--Tôi…Tôi…Tôi…Người sân hận không bao
giờ thoát khỏi cảm giác đè nén, vị kỷ," Thế giới chống
lại tôi." Vì vậy anh ta sống một kiếp sống như địa ngục
giữa những kẻ thù địch: những người áp bức anh ta, những
người chống lại anh ta, những người lợi dụng anh ta. Cách
chửa trị lâu dài cho bệnh này chỉ cần một lần nhận ra
rằng Ta -và-người khác là sản phẩm của tâm nhị nguyên.
NGƯỜI HỎI THỨ BA: Tôi để
ý thấy những người phụ tá của thầy--tôi cho là những
đệ tử của thầy--dường như không biểu lộ nhiều tình
cảm. Họ thân thiện và sẳn lòng giúp đở nhưng dường như
họ qúa kín đáo. Tại sao họ không cười nói tự nhiên? Như
vậy có tốt cho việc tu thiền không?
LÃO SƯ: Người vô kỹ luật
thiếu sự vững vàng và không có phương hướng; họ luôn
tản mác năng lượng của họ, phung phí chúng trong những hành
động vô ích. Họ di chuyển như con rối trên dây, lắc lư
lúc lắc vì họ không có điểm trọng lực, không có hồ chứa,
từ đó năng lượng trôi đi một cách trơn tru. Khi họ nhìn
thấy một thiền sinh di chuyển cân đối và yên lặng nội
tâm, họ đâm ra sợ hãi. Tại sao như thế? Vì điều đó khiến
họ nhận ra rằnghọ thiếu những phẩm chất đó.
Trong tâm của một người nằm
ở huyệt đan điền, vùng ở ngay dưới rún. Người nào tập
trung năng lực ở vị trí này sẽ không bao giờ mệt mỏi,
háo hức, trong ứng đối và dự trử được một năng lượng
rất lớn .Toạ thiền giúp anh ta thoát khỏi sự ức chế không
lành mạnh và trở nên cởi mở, dể dải. Khi vui anh ta cười
phá lên khi buồn anh ta khóc công khai, không một chút xấu
hổ.
Anh nói rằng những người
phụ tá của tôi có vẻ trầm tư, điều đó có gì sai không?
Người ta nói Ðức Phật rất ít nói trừ phi có người hỏi
Ngài.
Cách đây nhiều năm tôi chúng
kiến một cảnh bất thường ở tòa án. Một luật sư với
vẻ hùng hổ to giọng thuyết giảng với một chánh án có
giọng nói nhỏ nhẹ. Với tính chịu đựng và thái độ đỉnh
đạc; vị quan tòa chống lại sự quát tháo của luật sư,
rồi ôn tồn nói," Luật sư, Ông không nghe kinh Thánh nói người
ngoan ngoãn thừa hưởng quả đất' này sao?"
" Và đó có phải là cách duy
nhất" mà họ sẽ có được như vậy không thưa ngài?" vị
luật sư phản bác.
Lời nhận xét của vị luật
sư là tiêu biểu cho đạo đức đang thịnh hành trong xã hội
ta. Sự hung hăng không chỉ được chấp nhận mà lại còn
được mong đợi, trước hết vì lợi ích của chính người
đó. Và nếu trong khi đang làm như vậy, tay người khác bị
bẻ gãy ,chân bị què hay bị sứt đầu vỡ trán, không hề
gì, điều quan trọng vẫn là tiến tới.Vì nó là lối duy
nhất để có được. Hiền lành được coi là yếu đuối.
Ngoan ngoãn theo ý nghĩa của
kinh Thánh là người kham khẩn và khiêm tốn, không phải người
không xương hay khúm núm. Họ không tự cao, tự khẳng định
mình hay hám lợi. Ở mức độ sâu nhất, ngoan ngoãn có nghĩa
là tự đầu hàng. Với người phủ nhận hoàn toàn cái ngã
luôn luôn giác tỉnh và nhận thức rằng vũ trụ không khác
với chính mình. Thế có gì để mà nắm bắt?
|