III THUYẾT
PHÁP
GIỚI CẤM
THỨ NHẤT: KHÔNG SÁT SANH
Tối nay, tôi sẽ nói về giới
thứ nhất trong mười giới cấm, hay những điều kiện của
một con người đức hạnh : không giết mà phải nuôi dưỡng
tất cả sự sống. Những giới điều khác là 2) không trộm
cắp(không lấy những gì của người khác); 3) không tà dâm
( mà luyện cho tâm trong sáng, tự kềm chế); 4) không nói dối
(mà phải nói sự thật); 5) không uống rượu (không ép ai
uống rượu hay dùng ma tuý làm rối hay suy yếu tâm và tự
mình cũng không làm thế, phải giữ tâm trong sáng); 6) không
nói xấu người khác( phải hiểu biết và thông cảm);7) không
ca ngợi mình và lên án người khác (vượt qua những thiếu
sót của chính mình); 8) không khư khư giữ lấy những trợ
giúp tinh thần và vật chất (phải giao nó không điều kiện
cho người cần nó); 9) không giận dữ (phải cố gắng kềm
chế) ; 10) không thoá mạ Tam bảo Phật, Pháp, Tăng ( mà thương
mến, ủng hộ). Tinh thần của tất cả các giới điều này
về căn bản là một, nếu quí vị nắm được cốt lõi của
một điều, quí vị sẽ nắm được tất cả.
Cố ý lấy đi mạng sống của
bất cứ vật gì, đặc biệt là mạng sống của con người,
sẽ tạo nghiệp khổ đau. Nhân mạng là cái quí nhất, với
nhiều lý do khác, nó là cái duy nhất mà từ đó ngộ phát
sinh. Thú vật, chẳng hạn, không thể chia xẻ khả năng của
con người để đạt được vô sắc và giải thoát chính mình
khỏi chuổi ràng buộc sinh tử. Trong vũ trụ quan Phật giáo,
theo đó, con người không phải là sinh vật phát triển nhất:
con người đứng giữa quỹ đói và Phật.
Người mổ thịt gia súc cũng
như thợ săn hay dân chài--đặc biệt những người có động
cơ sát sinh chỉ vì trò chơi thể thao--chắc chắn gây nghiệp
nặng cho mình. Những người nghiên cứu thí nghiệm trên thú
vật, thường cướp đi mạng sống của chúng, cũng có nguy
cơ gánh nghiệp. Giết hại thú vật trong những thí nghiệm
như vậy được biện minh vì lý do nào đó, chỉ là cách duy
nhất để có được thông tin thiết yếu cho sức khoẻ và
thịnh vượng của con người. Không may là, nhiều thí nghiệm
trên thú vật ngày nay được thực hiện không cân nhắc theo
cách chọn lựa nhân đạo hơn. Những thái độ vô cảm như
vậy có thể phát sinh từ niềm tin rằng súc vật, kém phát
triển hơn con người, đau khổ ít hơn. Nhưng có ai từ chối
là súc vật cũng chịu đau khổ nghiêm trọng và cố tránh
đau khổ như con người? Và chính xác vì trí não của chúng
kém phát triển hơn của con người, nên chúng nhiều trực
giác hơn, súc vật nhạy cảm với những bạo lực và đau
đớn sắp xảy ra, phát ra trong chúng nổi lo sợ làm kéo dài
sự đau khổ của chúng. Porphyry, triết gia Hy lạp ở thế
kỷ thứ tư đã viết rằng ai đã nghe tiếng thét của con
vật bị giết sẽ không bao giờ ăn thịt. Nhiều thế kỷ
trước Khổng tử, cũng có nhận xét như vậy.
Sự kiêu ngạo vô cùng của
con người trong việc điều khiển, ngược đải hay tiêu diệt
các sinh vật bởi tính thất thường của mình, không phải
chúng có quyền chia xẻ hành tinh này với họ hay sao? Tiến
sĩ Schweitzer nói," Chúng ta không có quyền làm đau khổ và
giết hại sinh vật trừ phi điều đó là cần thiết không
thể tránh được." Hơn nữa, vì súc vật câm và không thể
tự nói lên được, chúng có thể được xem như phó thác
thiêng liêng đối với chúng ta.
Còn việc giết ruồi muỗi
thì sao? Một con người có tánh do dự giết ngay cả con ếch
và thường không cảm thấy áy náy về việc diệt các côn
trùng. Với hàng tỉ tỉ côn trùng, cái chết của một đôi
con có lẽ dường như hoàn toàn không để lại hậu qủa gì
nghiêm trọng. Tuy nhiên xem xét lại: với tất cả những kỹ
thuật và óc sáng tạo của con người, họ chưa hề tái tạo
được cuộc sống, thậm chí của một con bọ! Một con bọ,
như Whitman nói, là phép mầu đủ làm ngạc nhiên hàng tỉ
người vô đạo.
Hiểm ác hay thiếu suy nghĩ
, hủy diệt côn trùng hay sinh vật nhỏ có thể bị chỉ trích
bởi những lý do khác. Sự giết vô lý như vậy nuôi dưỡng
sự mất cảm giác đối với những đau khổ của những hình
thức sống cao cấp hơn, các nhà xã hội học đã chứng minh
rằng mối đe dọa thông thường trong buổi đầu đời của
những tộ? phạm là tàn ác với súc vật và cách giết man
rợ của chúng.
Những người ăn-thịt đôi
khi chế diễu những người ăn chay, nói " Anh nói anh không
ăn thịt vì anh không muốn gây ra sự giết chóc súc vật,
nhưng những rau quả anh ăn thì sao? Có khác gì nhau giữa việc
lấy đi sự sống của rau quả và giết bò hay gà để lấy
thịt?"
Có sự khác nhau trên đời
khi những hành động này đè nặng lên cán cân đạo đức
con người--đó là, từ quan điểm tương đối. Theo những
giá trị đạo đức này, lấy đi mạng sống của một người
thì tồi tệ hơn đối với một con vật, và giết côn trùng
không đáng bị chê trách như khi giết cá hay chim. Trên một
phạm trù như vậy, sự sống của rau cải ít giá trị hơn
côn trùng. Nhưng thực vật, không phát triển hơn súc vật
hay côn trùng, cũng có loại nhận thức và bản năng sinh tồn.
Ðiều này được biết đến qua các nhà thực vật học nổi
tiếng như Luther Burbank, George Washington Carver, và Ngài Jagadis
Bose. Ðốn một cái cây hay nhổ một cây hoa một cách vô ý--không
cần thiết--là trái với tinh thần của giới cấm thứ nhất.
Tất cả mọi dạng sống, trong
sự phát triễn và trao đổi nghiệp vô thỉ vô chung của chúng,
là thực vật, côn trùng, thú vật, quỹ ma, con người, chư
thiên. Mỗi cuộc sống chịu ảnh hưởng của luật nhân qủa;
nơi mỗi người chiếm ngụ trong chuổi tiến hóa là sản phẩm
của nghiệp duy nhất của mình. Làm thế nào chúng ta có thể
từ chối một biểu đạt của Phật tánh, nhân tố chung của
chúng ta, mà lại thiên về cái khác trong khi tất cả chúng
ta bắt rễ từ một hiện thực chung?
Tuy quyền sống không phải
là tuyệt đối, cuộc sống cá nhân có lẽ không thoát khỏi
bị hi sinh để gìn giữ sự lành mạnh và thịnh vượng của
xã hội. Như khi một con chó điên đến gần một lủ trẻ,
để bảo vệ sức khỏe và sự sống của bọn trẻ này, tốt
nhất con chó phải bị bắn! Cùng một nguyên tắc như vậy
được giữ lấy, chẳng hạn, khi một người có súng đang
nổi cơn điên, bắn loạn xạ, cảnh sát và người đi đường
cố gắng kềm chế anh bằng cách bắn hạ.
Nghiệp khổ có đổ dồn về
người cướp đi tánh mạng của một sinh vật, ngay cả khi
việc giết bơi?động cơ liên quan đến sự thịnh vượng
chung hay không sẽ tuỳ thuộc hầu hết vào tâm thái người
đó. Nếu hành động được tiến hành vô niệm, ngoài nhận
thức tự giác của người lấy đi mạng sống và cuộc sống
bị lấy đi, không có nghiệp khổ gây ra, vì theo tâm nghĩa,
không có kẻ giết và không có gì bị giết. Hãy để tôi
nói thêm là chỉ có cá nhân phát triển cao mới có thể hành
động cách này. Ở mức độ thấp hơn, chắp hai tay lại với
vẻ hối lổi ăn năn khi gặp sự cần thiết không thể tránh
được việc lấy đi cuộc sống, như tước bỏ đi hành động
cố ý độc ác.
Mặc dù ở mức độ đạo
đức tương đối, chúng ta phân biệt hình thức sống của
cái này và cái khác, từ phương diện tuyệt đối của Phật
tánh không có sự phân biệt này. Từ cách nhìn của Chân tâm
bao gồm thâu muôn pháp này--từ quan điểm của vũ trụ quan
Phật giáo, có thể nói--mọi thứ đều bình đẳng; cuộc
sống của một Einstein chẳng có giá trị hơn hay kém một
củ cà rốt. Vấn đề là, chúng ta tồn tại trên cả hai mức
độ cùng một lúc, và trừ phi chúng ta trải qua kiến tánh
(hiểu được là sự tương đối và tuyệt đối không phải
là hai) chắc chắn trở nên lộn xộn và sự bất định vô
tận như là "đúng" hay "sai" trong hoàn cảnh nhất định. Người
nhìn vào phía tuyệt đối của Chân tánh không bám vào tương
đối, sự thay đổi không ngừng của thế giới?hiện tượng
và giá trị đạo đức, mà nhìn vào nó như phương diện của
sự tuyệt đối không đổi thay.
Trong việc bàn luận về giới
cấm thứ nhất, chủ đề phá thai chắc chắn nảy sinh. Vấn
đề phá thai, như quí vị biết đấy, từ lâu là đề tài
tranh luận gay gắt trong công chúng. Ở một thái cực người
ta cho rằng," Mọi sự sống đều thiêng liêng, ngay cả bào
thai con người!" Những người này giận dữ chống lại những
kẻ có" tâm điạ giết người" đã từ chối "quyền được
sống" của thai nhi, khăng khăng cho rằng " vì chỉ có Chúa
mới có thể ban cho sự sống, chỉ có Người có thể lấy
nó đi." Mặc dù chính những người này vừa mới đây hò
hét đòi hỏi một cuộc sống tốt đẹp cho những ai đã sinh
ra đang thiếu dinh dưỡng và bị bóc lột.
Mặc khác, những người cho
rằng những phụ nữ độc thân có thai có quyền quyết định
giữ lại bào thai hay không. Ðối với người phụ nữ khóc
lóc biện bạch," Ðây là thân tôi, tôi có thể sử dụng nó
theo ý tôi!" tôi sẽ hỏi," Làm cách nào cô cho là đây là
thân cô trong khi cô không thể kiểm soát tuần hoàn của máu
hay nhịp tim, niệm tưởng, sự già hay cái chết của cô? Rõ
ràng thân cô có qui luật riêng của nó, nó vận hành một
cách độc lập với ý muốn của cô. Ðúng, trong một ý nghĩa
giới hạn, nó là thân cô, vì nó là kết quả của nghiệp
của cô, của những suy nghĩ và hành động theo ý chí của
cô trong kiếp này và những kiếp trước. Nhưng đừng quên
rằng nghiệp của cô cũng gồm từ sự di truyền sinh của
cha mẹ cô. Hơn nữa, nó không chỉ tình cờ như cô nghĩ, thụ
thai, theo ý nghĩa sâu sắc nhất, là biểu lộ mối quan hệ
nghiệp quả giữa cô: nhu cầu của cô tạo cho nó tấm thân
và nhu cầu của nó là được tái sinh qua cô."
Ðừng lầm lẫn, phá thai là
vấn đề nghiêm trọng. Ngay cả khi nguy hiểm đe doạ cái chết
thể xác của người mẹ cũng không đáng kể, vì trong các
bệnh viện hiện đại, sự hấp hối tinh thần kèm theo việc
phá thai mới thật sự và đau đớn. Ðối với một phụ nữ
nhạy cảm về tâm linh, bà ta hiểu ra rằng bà là phương tiện
mà qua đó một sự sống cụ thể có thể được tái sinh
trong hình người--nhân thân nan đắc--sự ưng thuận diệt
đi mầm sống trong thời kỳ phôi thai đó có thể là một
kinh nghiệm hoảng loạn tinh thần, cũng giống như một người
hiếm muộn mong con lại được con trong một hoàn cảnh hạnh
phúc, có thể là một nguồn vui to lớn. Nhiều người đã
xin tôi lời khuyên về việc phá thai. Tôi đã thấy nghe thấy
niềm vui của người, mặc dầu đã tính đến việc phá thai,
quyết định có con, tôi cũng thấy nổi khổ in trên khuôn
mặt những người buộc lòng phải phá thai.
Trước đây có một đôi vợ
chồng hỏi tôi về dự định phá thai. Tôi không khuyên họ
nên làm thế này hay thế khác; chỉ đơn giản chỉ ra hậu
quả nghiệp nào đó mà tôi cảm thấy sẽ trôi từ mỗi hành
động. Và thế là sau khi bàn bạc kỷ lưỡng, họ quyết định
có con. Mới đây người đơn giản ấy đã viết cho tôi:"
Vâng, con chúng tôi thật là một anh chàng. Chúng tôi thật
là biết ơn khi nó chọn chúng tôi làm cha mẹ. Nhiều người
nhận xét,' nó là thằng bé hạnh phúc nhất tôi từng thấy.'
Có lẽ đáng kể hơn là sự đa cảm, lanh lợi và khả năng
thích nghi kỳ diệu của nó. Tôi không biết cảm ơn thầy
như thế nào, lão sư, vì lời khuyên của thầy nhiều tháng
trước, khi đó con tôi mới chỉ là một chấm nhỏ trong tôi!
Ðiều chúng tôi đã từng đùa cợt với ý nghĩ phá thai bây
giờ là KHÔNG TIN ÐƯỢC [bà nhấn mạnh]--một cơn ác mộng…"
Nghe câu chuyện này, quí vị
không nên vội kết luận rằng phá thai trong mọi tình huống
là vi phạm giới cấm thứ nhất, vì như thế là hiểu lầm.
Nói chung Phật giáo không thừa nhận sự hủy diệt sinh mạng
dưới bất cứ hình thức nào, tuy nhiên kinh nghiệm Phật giáo
đại thừa nhìn quyền sống không tuyệt đối. Ðiều này,
dĩ nhiên, cũng áp dụng với việc phá thai. Ðể hiểu rõ hơn,
hãy xem xét tình trạng hiện nay của thế giới. Các nhà dân
số học nói rằng theo mức tăng hiện nay, đến năm 2030 dân
số thế giới tăng lên khoảng 12 tỉ, tức gấp ba hiện nay.
Một báo cáo chung của nhiều tổ chức quan tâm đến vấn
đề bùng nổ dân số nói rõ:" Danh sách của những vấn đề
nảy sinh từ sự bùng nổ dân số bao gồm đại dương bị
ô nhiểm và khai thác quá mức các loài thủy hải sản, không
khí ô nhiểm, việc lạm dụng các hoá chất mới đe doạ các
loài động thực vật, và gây bịnh tật cho môi trường như
ung thư chẳng hạn." Các nhà kinh tế và những chuyên gia khác
tiên đoán rằng một khi sự đấu tranh vì nguồn cung cấp
thực phẩm bị thu hẹp trở nên tuyệt vọng, nạn đói, sâu
rầy, rối loạn và chiến tranh--với chết chóc đau khổ không
xiết--là điều chắc chắn. Sự đáng giá này, nên nhớ, không
phải của những người lo sợ ngày tận thế mà từ những
nhà khoa học điềm đạm. Với những tai họa như vậy hiện
ra lờ mờ phía trước, làm sao những người có đông con mà
không làm gia tăng gánh nặng cho nhân loại--thậm chí gánh
nặng ấy sẽ hằn lên chính những đứa trẻ đó, ai sẽ sống
và chịu đau khổ trong thế giới đói khát ô nhiểm này?
Phúc lợi đã đổ vào các
thành phố lớn ở Mỹ nhiều đến kinh ngạc, tạo gánh nặng
to lớn lên xã hội. Những vấn đề kinh tế, sức khoẻ và
đạo đức tạo ra bởi quan hệ tình dục bừa bãi vô trách
nhiệm-- tội ác gia tăng rất lớn bởi những đứa trẻ không
cha và sự lây lan các xã hội--nói khác đi là đang làm suy
yếu sự bền vững của xã hội. Không có người me ??ông
con nào đang đương đầu với việc sanh con ngoài ý muốn lại
có thể làm ngơ trước những thực tế của cuộc sống trong
thế kỷ hai mươi. Sanh sản không hạn chế là một sự bê
tha mà xã hội đang bị lúng túng của chúng ta sẽ không còn
dung thứ sự bằng lòng tự hủy diệt. Hiện nay luật pháp
thừa nhận sự phá thai đã hiển nhiên nhìn nhận tình trạng
đen tối này.
Ở điểm này, chắc hẳn một
số quí vị đang nghĩ là," Thầy đang bàn về lợi hại của
việc phá thai, nhưng tôi đang đối mặt với sự mang thai không
theo ý muốn, tôi phải dựa trên cái gì để quyết định?
Làmthế nào tôi có thể chắc chắn điều tôi quyết định
làm là đúng và sẽ không tạo ra nghiệp khổ? Không có hoàn
toàn đúng hay sai, không có quyết định dứt khoát. Nếu quí
vị thoát khỏi sợ hãi và những quan tâm nhỏ hẹp ích kỷ,
quí vị biết nên chọn cách nào để hành động. Ðặt mình
sâu vào tọa thiền--nhìn vào chính tâm mình, suy nghĩ thận
trọng về mọi phương diện trong hoàn cảnh cuộc sống của
quí vị, tác động phản hồi của quí vị đối với gia đình,
với xã hội nói chung. Một khi tâm đã đạt tới một trình
độ cao hơn, có thể cân nhắc và phán xét, ngừng nghỉ, hướng
"đúng" của hành động sẽ hiện rõ. Và khi những hành động
như vậy kèm theo với sự yên bình bên trong, qúi vị có thể
chắc là mình không đi lệch.
Nếu đã đi qua những bước
kể trên, quí vị bị thuyết phục rằng sự phá thai là không
thể tránh được, hai vị hãy ngồi trước tượng Phật hay
Quán thế âm để chí thành sám hối những gì quí vị cảm
thấy cần phải làm. Làm như thế, quí vị tự mở rộng đón
nhận sự trợ giúp--từ Phật lực. Cố gắng nhìn sự phá
thai một cách vô niệm--đó là, không sợ hãi hay tội lỗi
hay bất cứ những tình cảm lo âu nào. Hãy quán niệmmột
cách thực tế rằng tất cả sự sống giống như loài phượng
hoàng, tự tái tạo một cách lập đi lập lại từ chính tro
tàn của mình. Phải hiểu rằng trong ý nghĩa thâm sâu nhất
chẳng phải dụng cụ của bác sĩ hay bất cứ thứ gì khác
có thể hủy diệt cuộc sống thực sự của thai nhi, vì Phật
tánh hằng hữu của nó là bất diệt. Do đó, gánh nặng của
quí vị sẽ nhẹ đi.
Bây giơ,?chúng ta xem xét vấn
đề chiến tranh trong mối quan hệ với giới cấm thứ nhất.
Ngoài việc tàn phá cuộc sống và tài nguyên, chiến tranh gây
nên sự tàn bạo và đau khổ vô tả. Sống trong hoà bình là
lý tưởng của Phật giáo, cũng như của tất cả các tôn
giáo khác. Ðối với bất cứ quốc gia Phật giáo nào quí
vị đi qua, hình tượng của đức Phật là biểu hiện tối
cao của sự yên bình bên trong lẫn bên ngoài. Từ trước đến
nay chưa có cuộc chiến tranh tôn giáo nào lại nhân danh Phật
giáo.
Ðức Phật dạy rằng tất
cả tình vị kỷ trung tâm sinh ra từ tham, sân, si, và dù có
nhiều nguyên nhân gây ra chiến tranh, nhưng tựu trung rút ra
từ ba nhân tố đó. Sự tham lam quyền hành và của cải, sân
hận nảy sinh từ cảm giác bị ngăn cản hay ngược đãi,
khái niệm si mê về " số mệnh hiển nhiên" cách ngăn với
những kẻ khác--tất cả những thứ này tăng cường sức
mạnh bản ngã cá nhân, nó xuất hiện ở mức độ tập thể
như sự tư lợi dân tộc chủ nghĩa. Sự tư lợi này, thế
rồi, phải được thắng thế bằng mọi giá. Như đã nói,
một sự xung đột quyền lợi quốc tế và những hổn hợp
dễ cháy của điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, chiến
tranh bùng nổ--nhưng thường nó được tiếp nhiên liệu bởi
tham, sân, si. Nguồn gốc của chiến tranh là nhân tâm.
Có lần tôi hỏi một sư Phật
giáo Tích lan, người thường xuyên đến viếng thăm Việt
nam, rằng tăng sĩ Phật giáo Việt nam có đồng ý trên quan
điểm là sự chịu đựng đau khổ của dân tộc trong cuộc
chiến tranh Việt nam là hình thức của sự báo oán của nghiệp
hay không. Ô?g đáp lại rằng tất cả những vị tăng mà
ông có dịp gặp gỡ và đưa ra câu hỏi này đã không do dự
trả lời một cách khẳng định, đặc biệt kể về những
hành vi xâm lược tàn bạo của người Việt nam mấy trăm
năm trước trong cuộc Nam-tiến. Họ bảo với ông, đây là
món nợ nghiệp tập thể mà nhân dân Việt nam phải trả trong
hình thức của những đau khổ tàn khốc.
Nghe điều này, một số vị
có thể phân vân," Làm cách nào những đứa bé vô tội chết
trong những cuộc không kích bị xem như có trách nhiệm về
cái chết của chúng? " Nhưng đừng quên, những đứa trẻ
đó đến với kiếp này vì cái nợ nghiệp của chính chúng,
thậm chí chúng có mối liên hệ với nghiệp quả với cha
mẹ chúng. Vì mối ràng buộc này, chúng bắt buộc phải chịu
đựng tội lỗi của cha mẹ chúng, giống như cha mẹ phải
chịu đựng tội lỗi của con cái họ. Mặc dù, hầu hết
người ta vẫn thường khó chịu chút ít khi phải chấp nhận
luật nhân quả đối với trách nhiệm cá nhân, nhưng nghiệp
tập thể thì khó được thừa nhận đối với họ. Nhân tánh
như thế này--chúng ta vui lòng nhận nghiệp của dân tộc khi
thành quả của nó được ca tụng, chúng ta nhanh chóng tách
ra khỏi hành động của những nhà lãnh đạo đưa đất nước
vào hoàn cảnh đen tối. Như khi phi hành gia người Mỹ đặt
chân lần đầu tiên lên mặt trăng, chúng ta mừng rở la lên,"
Hoan hô--chúng ta đã đánh bại người Nga trong trận chiến
không gian!" nhưng khi Tổng thống chúng ta ra lệnh rải thảm
bom các thành phố Việt nam, với sự giết hại không kể xiết,
chúng ta từ bỏ trách nhiệm về hành động của ông ta.
Sau cuộc nói chuyện về nghiệp
trong đó tôi nhắc đến lời của vị sư Tích lan, một số
người hỏi," Thế, không phải theo sau là kẻ xâm lăng có
thể bào chửa cho sự xâm lăng của họ bằng việc tuyên bố
y đang trả thù hộ cho những nạn nhân vì trước đây đất
nước này đã gây ra những đau khổ cho họ--ông ta có thật
sự giúp họ bù lại nghiệp quá khứ hay không? Nếu đúng
như vậy, người ta sẽ có thể cố ý giết hay gây thương
tích cho người khác đến qùe quặt mà không chịu sự báo
oán trong kiếp này hay kiếp sau, không phải nó ra mặt chống
đối luật nhân quả sao? Thực ra công việc của nghiệp bảo
đảm những người cố tình gây đau đớn cho người khác,
mộ? ngày nào đó sẽ tự mình đau khổ. Vì vậy, cuối cùng
những kẻ xâm lăng trở thành nạn nhân của chính sự xâm
lăng của mình.
Vì luật của nghiệp, với
hàm ý chúng ta có trách nhiệm với chính nổi đau của ta,
vì không được hiểu hay chấp nhận, giận dữ và mong muốn
trả thù thống trị trong tâm của những nạn nhân. Vì vậy,
bạo lực, độc ác, sự tàn phá của chiến tranh và những
lực điên cuồng không kềm chế của nó tiếp tục vang lại
trong tim, trong óc nạn nhân rất lâu, sau khi chiến tranh chấm
dứt, thấm sâu sự hằn thù từ thế hệ này sang thế hệ
khác. Ít ai hiểu được rằng những lực tiêu cực mạnh mẽ
như thế cũng gây ô nhiễm không khí và làm rối sự cân bằng
của hành tinh, đôi khi góp phần vào những hiện tượng như
động đất chẳng hạn.
Trong thời đại kém khoa học
hơn, động đất được mô tả như" hành động của Chúa,"
nhưng bây giờ các nhà khoa học giải thích là khi trái đất
trải qua sức ép quá lớn, sự căng thẳng được giảm đi
bằng cách di chuyển "phiến địa tầng" của vỏ trái đất,
và nó tạo ra động đất. Cùng lúc đó, những nhà địa chất
thừa nhận là cách thức và nguyên nhân của động đất vẫn
còn khá bí mật.
Từ quan điểm Phật giáo, động
đất và những hiện tượng tương tự không phải là hành
động của Chúa hay sự thất thường của thiên nhiên; chúng
là kết quả ngẫu nhiên liên quan đến suy nghĩ và hành động
chính yếu của con người. Con người và môi trường không
tách biệt, chúng được qui định hổ tương--hai khiá cạnh
của một hiện thực. Mỗi ý nghĩ của chúng ta đập với
nhịp đập trái tim vũ trụ, và vũ trụ ngược lại, vũ trụ
bị tác động hay phản ánh suy nghĩ và hành động của con
người. Chúng ta không thể tàn phá hay làm ô nhiểm trái đất,
làm rối loạn cân bằng của các lực tự nhiên--bản tính
riêng cuả chúng ta--mà không ảnh hưởng trái đất. Phát biểu
của C.G.Jung được trích dẫn đăng trên tờ Thời báo New
York năm 1971, rằng (sau trận động đất năm 1960 phá hũy nhiều
thành phố Chi lê) ," Dù các nhà khoa học ngày nay có thể từ
chối ý nghĩ rằng trái đất như hoà điệu với cơn cuồng
nộ tàn phá của nhân loại." Nhưng điều này chỉ là một
nữa của phương trình. Với sự ô nhiểm của không khí và
đất đai mỗi người hít vào cái không khí ô nhiễm và ăn
những thức ăn nhiễm độc như tự đầu độc mình, rút ra
từ cơ thể sự chống đối tương tự dưới hình thức bệnh
ô nhiễm, có lẽ xa nhất là chứng ung thư. Như vậy, chu kỳ
hủy diệt đã hoàn tất.
Dù chiến tranh là phương tiện
rốt ráo của kẻ giết người, nhiều người cảm thấy rằng
giết chóc để tự vệ trong chiến tranh là việc chính đáng.
Tuy nhiên lấy đi sinh mạng kẻ khác dưới bất cứ hình thức
nào là đi ngược với bản năng sâu kín nhất của con người.
Khuynh hướng tự nhiên của nam nữ tìm cách thoát khỏi sợ
hãi và hận thù là lao vào nhau trong vòng tay yêu thương, không
giết hại nhau. Vì ác cảm bẩm sinh đối với việc giết
hại đồng loại, người lính bao giớ cũng được nhồi sọ
bằng những hình ảnh đáng ghét của" kẻ thù," anh không giết
kẻ thù, kẻ thù sẽ giết anh."
Người nhân Phật tử phải
làm gì khi đất nước lâm vào hoàn cảnh chiến tranh? Gia nhập
quân đội ư? Hay để phục vụ " sự thịnh vượng chung" bằng
cách từ chối tham gia những hoạt động giết chóc tàn phá?
Ở đất nước chúng ta(Hoa kỳ), nhiều người chống đối
việc tham chiến tại Việt nam, từ chối gia nhập quân đội
cho dù bị tù đày hay mất quyền công dân. Nhiều người Mỹ
hoan nghênh lập trường của những người phản chiến nhưng
nhiều người khác thì lên án họ.
Có bao nhiêu trong số quí vị
ở đây nhớ lời nói của Stephen Decatui trong môn học lịch
sử nước Mỹ ở bậc trung học ? " Tổ quốc ta! Cầu cho nó
đúng hướng trong mối quan hệ đối ngoại. Nhưng tổ quốc
ta, đúng hay sai." So sánh nó với lời của một người Mỹ
khác, Carl Schurz:" Tổ quốc ta, đúng hay sai. Khi đúng hãy giữ
cho đúng, khi sai, hãy sửa lại cho đúng." Lời nào diễn tả
đạo lý cao cả hơn? Chúng ta sẽ dựa vào cái gì để quyết
định cho đúng với đạo lý--ý thức cá nhân hay của những
người làm luật? Nhiệm vụ đầu tiên của một người là
vì tổ quốc người ấy hay vì toàn thể nhân loại nói chung?
Ðặc biệt trong thời gian chiến
tranh những câu hỏi nóng bỏng này đòi hỏi những câu trả
lời rõ. Trong việc tìm kiếm giải pháp cho những vấn đề
này, người ta phải cân nhắc cả biệt nghiệp của người
đó và cọng nghiệp của cả dân tộc, mỗi người trong đó
có một phần trách nhiệm. Cuối cùng lương tâm và trực giác
sẽ là kim chỉ nam cho người đó. Như với vấn đề phá thai,
người ta phải đào sâu qua tọa thiền, vượt qua khỏi tri
thức, cho đến khi nào nổi lên ở đó quyết định xoá tan
nổi sợ hãi và bất an.
Trong chiến tranh Việt nam, có
nhiều tăng ni và Phật tử cũng như những người khác từ
chối việc lấy đi mạng sống của đồng bào bị dán nhãn
" kẻ thù," mặc dù hình phạt cho sự từ chối là nhục hình
hay cái chết. Trong việc từ chối một cách khinh bỉ chuyện
giết người này của họ đã chứng tỏ những lời dạy căn
bản của Phật: Hận thù nuôi hận thù, kẻ giết người khác
là đào cả hai cái huyệt. Trong khi làm như vậy, họ khẳng
định nhân tâm có thể giải thoát khỏi sợ hãi và hận thù
và minh định tình yêu và sự từ bi của nó.
Tại VIệt Nam có nhiều tăng
ni và tín đồ đã tự thiêu để đánh động lương tâm con
người trên toàn thế giới về nổi khổ đau cùng cực của
người dân Việt nam. Việc tự thiêu này cần được phân
biệt rõ với hành vi tự tử, dĩ nhiên, trái với giới cấm
thứ nhất không sát sanh. Ở tự tử bình thường, không có
những xáo trộn tâm thần, cá nhân không thật sự muốn chết,
anh ta muốn sống, nhưng vì lý do nào đó, anh ta cảm thấy
thất vọng bởi gia đình, bạn bè, công việc, xã hội hay
cuộc sống quá tẻ nhạt, và anh ta thấy tất cả đều vô
nghĩa. Quá yếu đuối không thể đấu tranh để đạt được
những gì anh ta thật sự mong muốn, anh ta mất tất cả can
đảm và hi vọng. Cuộc sống cằn cỗi tạo ra nổi đau mà
anh ta trở nên không chịu đựng nổi, và trong con tuyệt vọng
bao trùm, anh ta tự sát. Tự tử luôn có nhân tố mạnh của
bản ngã trong đó:" Tôi không thể sống theo cách của tôi,
vì vậy tôi muốn chết." Hành động tự hủy diệt là hành
động thách thức tột cùng của tự tử, một dấu hiệu nhạo
báng xã hội--mà đồng thời anh ta lên án mạnh mẽ rằng
xã hội đã thất bại chớ không phải anh ta. Nhưng chết chưa
phải là hết, và anh ta dù tái sinh ở đâu hay trong bất cứ
hình dạng gì, anh ta cũng sẽ phải đối mặt với hậu quả
nghiệp- tự giết mình.
Ngược lại đối với trường
hợp của các tăng ni và Phật tử Việt nam, động cơ hoàn
toàn khác biệt được trình bày rõ trong lá thư của Thượng
toạ Thích Nhất Hạnh gởi cho Mục sư Martin Luther King: " Ðiều
mà những tăng ni để lại trong những lá thư tuyệt mạng
là chỉ nhắm vào sự cảnh tỉnh, lay động lương tâm của
những kẻ đàn áp, kêu gọi sự chú ý của quốc tế về
những khổ đau mà người Việt nam đang gánh chịu. Tự thiêu
là để chứng tỏ những gì người ta đang nói là cực kỳ
quan trọng. Không có gì đau đớn hơn là tự đốt mình. Nói
điều gì trong khi đang trải qua loại đau đớn này là nói
với sự can đảm, chân thành, quyết tâm và cởi mở nhất…
Một nhà sư Việt nam trước khi tự thiêu đã tuyên bố một
cách cương quyết dõng mãnh rằng ông ta có thể chịu đựng
sự đau đớn nhất để bảo vệ đồng bào của mình. Nhưng
tại sao ông ta phải đốt mình đến chết? Sự khác nhau giữa
tự thiêu và tự thiêu đến chết chỉ là khác nhau ở ?mức
độ, không khác về bản chất. Một người tự thiêu qúa
nặng phải chết. Ðiều quan trọng không phải là lấy đi
sinh mạng mà là đốt…Ðể truyền đạt cảm xúc của mình
bằng tự thiêu vì vậy nó không là hành động hủy diệt,
mà là làm một hành động xây dựng--đó là chịu đau khổ
chết chóc vì đồng bào mình. Ðó không phải là tự sát…"
Hi sinh mạng sống của mình
theo cách này đòi hỏi một sự can đảm kỳ lạ và một định
lực mạnh bất thường, nó đòi hỏi sự tu luyện tâm linh
lâu dài. Ai có thể quên được những bức ảnh của những
phương tiện thông tin về vị hoà thượng lớn tuổi, Thích
Tịnh Khiết, đã tự mình châm lửa trong khi đang ngồi ở
thế kiết già? Cảnh thân thể nữa phần trên bốc cháy tạo
ra những làn sóng cực kỳ sốc ở Tây phương, đặc biệt
ở Hoa kỳ. Phản ứng này một phần là vì nhận thức rằng
phía sau hành động này là sự can đảm, vô ngã và mức độ
tự chủ gần như không được biết đến ở phương Tây bây
giờ.
Khác khác tự tử, cái chết
tự chủ của thiền sư cho phép mình chết khi họ trở nên
quá già hay ốm yếu do tuổi tác không thể tiếp tục dạy
hay làm việc. Ví dụ phải kể đến trong thời hiện đại
là cố trụ trì tu viện nơi tôi đến tu lần đầu tiên. Khi
ông chín mươi sáu tuổi và gần như mù, ông ngừng ăn. Khi
chư tăng gạn hỏi, ông đáp rằng ông đã sống qua thời gian
hữu dụng của ông và đang trở thành một người gây phiền
toái. Họ bảo với ông," Nếu thầy chết bây giờ, tháng Giêng
khí trời còn quá lạnh, mọi người sẽ gặp khó khăn khi
dự đám tang thầy và như thế còn phiền hơn, vậy hãy ăn
đi!" Vì vậy, ông ăn trở lại, nhưng khi thời tiết ấm áp
trở lại, ông ngừng ăn và không lâu sau đó chết trong tỉnh
lặng.
Lời bình về giới thứ nhất
sẽ không hoàn toàn nếu không đề cập đến sự gây chết
không đau đớn. Nó được mô tả như " chết dễ dàng không
đau đớn," hay," phương pháp gây chết không đau như để chấm
dứt sự đau." Ðạo lý của sự gây chết không đau đớn,
giống như của phá thai, đã lay động tâm tư tình cảm của
nhiều người có suy tư từ nhiều thế kỷ. Cách đây không
lâu, vấn đề này thu hút sự chú ý của công chúng qua vụ
một phụ nữ trẻ bị hôn mê nằm trong phòng săn sóc đặc
biệt trong một thời gian, được giữ cho sống bằng máy hô
hấp nhân tạo và hiệu quả kỹ thuật làm mát của y khoa.
Vì sự hư hại rộng ở phần não của cô, giới y khoa nhận
địng rằng ngay cả cô có tỉnh dậy khỏi hôn mê, cô ta phải
sống trong bệnh viện suốt đời. Cha mẹ cô gởi đơn thỉnh
cầu lên toà án xin phán quyết cho phép làm tê liệt và rút
ống nuôi nhân tạo để cô chết "tự nhiên", vì theo luật,
trong sự bình đẳng tuyệt đối cấm người khoẻ mạnh và
bệnh trầm trọng tự lấy đi mạng sống của mình hay nhờ
người khác kết liễu đời mình, các bác sĩ của bệnh viện
tiếp tục sử dụng thuốc và những thiết bị y khoa cần
thiết kéo dài cuộc sống cô ta. Máy hô hấp nhân tạo cuối
cùng được rút ra sau khi có phán quyết của toà án cho phép
làm như vậy, vì hội đồng y khoa nhất trí rằng không có
hi vọng hợp lý về sự hồi phục .
Trường hợp bị chỉ trích
này gây ra sự chú ý đáng kể và những đáp ứng tình cảm
mạnh mẽ. Những người thông cảm với cha mẹ cô lập luận
rằng người phụ nữ trẻ này có thể không bao giờ hồi
phục thậm chí có mọ? nếp sống bình thường, cô chỉ có
thể chỉ là gánh nặng cho chính mình, cho gia đình và xã hội.
Họ cho rằng từ bi và mối quan tâm về nhân phẩm, cũng như
những chi phí rất cao để giữ cô ở khu săn sóc đặc biệt,
cần được cân nhắc, để cho phép cô được chết mà không
có những cố gắng " không tự nhiên" để duy trì sự sống
là điều hợp lý. Mặc khác, những người chống đối lại
cho rằng mạng sống duy nhất của con người là vô giá, trong
mọi hình thái phải được duy trì bằng mọi gía, nếu phá
đi sợi chỉ mỏng manh mà cô đang lơ lửng là báng bổ thần
linh. Chính giữa là?chuyên môn y học, sự ràng buộc pháp
lý và đạo đức gắn vào việc kéo dài cuộc sống và bởi
lý do kỹ thuật cao, có thể làm như thế đến một mức độ
chưa từng có trước đây.
Quan điểm Phật giáo về vấn
đề gây chết không đau đớn như thế nào? Thật ra, không
có quan điểm" chính thức" nào của Phật giáo về vấn đề
này, mà chỉ có những nhận định cá nhân của những bậc
thầy có trình độ phát triển tâm linh cao hay của những học
giả rút tỉa từ những nghiên cứu của họ. Mỗi cá nhân
tự do chấp nhận hay bác bỏ nhận những nhận định này.
Những hướng dẫn ấy đã được tìm trong những lời Phật
dạy:" Chớ có tin vì nghe truyền thuyết, chớ có tin vì nghe
truyền thống, chớ có tin vì nghe người nói, chớ có tin vì
được Kinh tạng truyền tụng, chớ có tin vì nhân lý luận,
chớ có tin vì nhân suy luận sau khi suy tư về dữ kiện, điều
kiện, thiên kiến, định kiến vì thấy thích hợp với ngươi,
chớ có tin vì bậc sa môn là đạo sư của mình mà hãy tin
vào những gì ngươi xét thấy có lợi cho ngươi và có lợi
cho những người khác…( Kinh Tăng Chi, Quyễn một, trang 216)
Cảm giác của riêng tôi cũng
có sự quan tâm như vậy, áp dụng cho sự gây chết không đau
đớn, cũng như những cách thức khác nhằm lấy đi mạng sống.
Nếu người đau khổ có chủ ý chấm dứt cuộc sống của
mình, anh ta đang tự sát và một ngày nào đó phải đối mặt
với việc thừa kế nghiệp báo của mình. Tương tự như vậy,
ai đó làm cho người bị khổ đau chết, thậm chí do sự yêu
cầu, là có tội, dù cho tâm cho rằng những hành động như
vậy được thực hiện có ảnh hưởng đến nghiệp quả.
Những câu hỏi dai dẳng hãy
còn đọng lại. Không ích kỷ hay sao khi ai đó trong số người
thân của bạn bệnh tật triền miên và mỗi lúc một thêm
đau đớn, nài nỉ bạn chấm dứt cuộc sống vô nghĩa, mà
bạn lại cân nhắc nghiệp của chính mình? Và từ chối đáp
lại yêu cầu của người bệnh là tử tế sao? Vì nói theo
thuyết nhân quả, thì đây cũng là nghiệp của người bệnh
ấy. Nếu như, người bệnh hiểu được ý nghĩa của đau
đớn và mối quan hệ nghiệp của nó--đó là chấp nhận cái
đau như phương cách để trả món nợ nghiệp--thì người
đó có yêu cầu được chết không đau đớn hay không?
Khi một ai đó hỏi," Thầy
sẽ làm gì khi ai đó xin thầy kết thúc cuộc đời của họ?",
tôi thường lặng yên rồi nói," Tôi không biết," vì chỉ
có khi nào người ta đối mặt với trường hợp cụ thể
người ta mới biết, những câu hỏi như vậy chỉ có tính
cách kinh viện. Toạ thiền thường xuyên nuôi dưỡng và phát
triển những nhận định bình tỉnh khiến cho người ta có
thể hành động hay không hành động mà không hề hối tiếc
hay nghi ngờ.
Hoặc giả sử anh lái xe tung
vào một xe khác khiến cho tất cả hành khách bị chết, anh
có trách nhiệm về nghiệp với cái chết của họ hay không?
Hay một máy bay bị tai nạn trong đó có nhiều người chết
và bị thương, người phi công có chịu trách nhiệm về nghiệp,
nếu anh ta không cẩn thận hay không? Câu chuyện sau và lời
bình của thầy tôi có thể là giải đáp cho câu hỏi này.
Khi tôi ở Nhật, có một vụ
đụng nhau giữa hai xe lửa, nhiều người bị chết và bị
thương. Sau hôm xãy ra tai nạn ấy, có một buổi toạ thiền
suốt ngày. Nhiều người có mặt là hành khách của hai chuyến
xe lửa đó, sau bửa ăn trưa, đã thảo luận sôi nổi về
trách nhiệm nghiệp. Ðáp lại một câu hỏi, thầy tôi nói
là mỗi người chết trong sự đụng xe này, từ quan điểm
của nghiệp, ít nhất năm mươi phần trăm có trách nhiệmvề
cái chết của mình ( thật khác với trách nhiệm pháp lý của
lái tàu), vì anh đã chọn ở trên một trong hai chuyến tàu
trong một giờ đặc biệt. Diễn biến của nghiệp, như bạn
biết, rất phức tạp.
Một khiá cạnh khác của giới
cấm thứ nhất phải được đề cập đến là giết chóc
không chỉ bao hàm lấy đi sự sống của động vật. Giới
thứ nhất cũng cấm hủy diệt sự cân bằng của cá nhân
hay cộng đồng bằng những lời chửi rủa, nói xấu hay những
hành vi khinh miệt khác. Cũng gồm trong giới cấm này là cấm
giết thời gian--đó là, chống lại sự lười biếng uể oải.
Tóm lại: động vật cũng có
quyền sống trên trái đất này như chúng ta vậy. Vì vậy
chúng ta không có quyền tiêu diệt chúng theo sự thất thường
của ta. Hơn nữa, vì trong bực thang đi lên và đi xuống của
chúng ta của vô số kiếp ( theo luật Nhân Quả) Phật tánh
chúng ta có nhiều dạng--tất cả đều là sắc tướng của
chính ta--diệt đi hình thức sống nào cũng là diệt đi một
phần của chính mình. Mạng người là quí giá nhất vì nhờ
có thân người chúng ta mới có thể tu tập và giải thoát,
qua đó chân lý duy nhất về tánh bất khả phân của tất
cả các pháp trở thành chứng nghiệm của cá nhân. Nơi nào
mà việc lấy đi mạng sống là điều không thể tránh được,
tuy nhiên, và kèm theo sau là ăn năn hối lỗi, sự báo oán
của nghiệp thường được giảm nhẹ.