PHẦN
BỐN
ÐẠO
LÝ VÀ TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI
DẪN
NHẬP
" Niệm lành là thiên đàng,
niệm ác là địa ngục"--một thiền sư đã khuyên như vậy.
Nhưng làm thế nào có người tu hành cẩn mật đến nổi có
thể bỏ qua sự phân biệt giữa tốt và xấu, nếu chất lượng
hành vi của ta và mối quan hệ của ta với người khác, không
là sự quan tâm cơ bản trong Thiền. Có lý do gì để tọa
thiền và rèn luyện lâu dài?
Trong những thập niên năm mươi
và sáu mươi, suốt giai đoạn "trí thức" của thiền phương
Tây; nhiều người đến với Thiền, bị thu hút bởi những
phát biểu như câu trên. Khi đọc sách Thiền, họ thấy Thiền
đưa ra cách để thoát khỏi đám rừng nguyên tắc đạo đức
phổ quát thường có ở hầu hết các tôn giáo, họ tưởng
tượng là nhân danh Thiền, họ có thể làm gì họ muốn, không
cần đặt vấn đề trách nhiệm đối với đồng bào của
họ. Khái niệm lệch lạc về Thiền không thể đương đầu
với thực tế huấn luyện thiền đích thực, trong đó nhấn
mạnh không làm điều ta muốn, thậm chí điều ta thích, mà
chỉ làm một cách vô niệm những gì cần được làm. Trong
Thiền, cốt lõi của đạo đức và trách nhiệm xã hội là
sự đáp lại: Ðáp ứng toàn tâm với những nhu cầu hợp
pháp của người khác. Việc phát triển sự đáp ứng này
là mục tiêu trung tâm của huấn luyện thiền.
Lá thư mở đầu của phần
này là của một giảng viên đại học khoa tôn giáo. Những
câu hỏi của ông có mục đích tìm mối liên hệ của giới
cấm đối với đạo đức Phật giáo, tự do con người và
từ bi, nói lên những trở ngại thông thường đối với việc
tìm hiểu đạo đức Phật giáo, cũng như phản ứng thông
thường với Thiền của các cá nhân, đă? biệt hơn nữa,
người giảng viên đại học này đến Thiền trên bình diện
triết học. Thực tế, nhiều câu hỏi được đưa ra trong
bức thư này phản ánh tình trạng khó khăn bởi việc Thiền
được dạy tại các trường học. Những người thầy học
rộng với ý định tốt, cho dù được trang bị những kiến
thức thực tiễn, vẫn tự nhận ra mình bị lệ thuộc vào
lý thuyết và những quan niệm trừu tượng. Và nếu ông ta
được nuôi dưỡng trong truyền thống Thiên chúa Do thái, sự
khó khăn trong nhận thức đạo đức phi nhị nguyên của Phật
giáo trở nên phức tạp.
Bức thư thứ hai và thứ ba
trong phần này là từ những hội viên của Trung tâm, những
người không còn vật lộn với lý thuyết Phật giáo mà thực
hành Thiền. Những câu hỏi này xuất phát từ nhu cầu mong
muốn hiểu rõ mối liên hệ thật sự giữa gia đình và xã
hội và cách nó liên quan đến việc tu luyện tinh thần của
họ. Những vấn đề nêu ra trong những thư này tiêu biểu
cho những điều mà các nam nữ tín đồ thường gặp phải
ở giai đoạn đầu của việc huấn luyện Thiền, tuy vậy,
họ có khuynh hướng lạm dụng hai khái niệm sai lầm cơ bản
là: tu Thiền từ bỏ tham gia xã hội và ngộ chỉ giúp mổi
bản thân mình mà không giúp ai.
Vấn đề đạo đức dưới
cái nhìn của ngộ và mối liên hệ của nó với giới luật
sẽlà chủ đề được đề cập trong phần này ở các mẫu
đối thoại.
Sau những đối thoại là một
bài thuyết pháp do tôi giảng được ghi âm, về điều thứ
nhất của Thập Thiện Giới: không sát sinh. Từ "pháp" được
dùng ở đây để phân biệt với bài nói về các vấn đề
xã hội, y tế, công cộng và các đề tài thông thường khác.
Mặc dù từ "pháp"( dharma) trong Phật giáo có rất nhiều nghĩa
--hầu hết là chỉ cho lời của Phật dạy--Luật vũ trụ.
Không giống như một bài bình luận, đây là một bài nói
chuyện hơn là chứng minhThiền để cúng dường trực tiếp
dâng Phật, bài nói pháp này không có tính cách chính thức
nhưng lão sư đối mặt với người nghe. Cũng không giống
một bài bình, thuyết pháp có thể gồm những câu hỏi, mặc
dầu trong trường hợp đặc biệt này, vì bài thuyết pháp
quá dài nên không có thời gian chất vấn theo sau.
I NHỮNG LÁ THƯ
VÀ LỜI ÐÁP
1" SỐNG TRÊN
ÐỜI NHƯ MỘT PHẬT TỬ THIỀN CÓ Ý NGHĨA GÌ?"
Lão sư thân mến,
Trong khoá học Thiền, là một
giáo sư đại học tôi đưa ra vấn đề thường xuyên nảy
sinh trong các buổi thảo luận ở lớp, chẳng hạn như là
sống trên đời như một Phật từ Thiền có ý nghĩa gì bằng
những từ cụ thể. Trong những cuốn sách tiếng Anh nói về
Thiền, đọc giả thường gặp những tham chiếu thông thường
đối với ý nghĩa to lớn của từ bi, nhưng thường đề tài
đạo đức dẫn dắt Phật tử trong cuộc sống hàng ngày ở
ngoài thiền đường càng ít được viết đến. Vì vậy, tôi
rất muốn nghe thầy nói ở một buổi hội thảo về sự quan
trọng của mười giới cấm của Phật giáo đại thừa; thật
có ích cho tôi, vừa là thầy giáo vừa là một người quan
tâm đến Thiền, nếu thầy gởi cho tôi những bài viết hay
bài bình luận mở rộng mà có lẽ thầy đã chuẩn bị theo
cách mà thầy, một lão thiền sư, hiểu về bản chất và
mục đích của Thập Thiện Giới.
Có lẽ tôi phải nói cụ thể
hơn về vấn đề đạo đức và tôn giáo mà tôi đặc biệt
quan tâm. Nếu tôi hiểu thầy đúng, thiền dạy rằng tất
cả nam lẫn nữ phải cố gắng tuân theo mười giới. Có lý
do gì để làm điều này? Có đúng hay không khi nói từ quan
điểm Thiền có một trật tự xã hội điều khiển cuộc
sống con người và những giới cấm là một công thức của
trật tự đạo đức này? Giữa mười giới cấm và nhân tánh
có mối tương quan như thế nào? Chúng ta tạo ra luật lệ
áp đặt lên nhân tánh bởi phục tùng thánh ý của Thượng
đế hay có một mối quan hệ hổ tương nào đó giữa giới
cấm và nhân tánh? Chẳng hạn, có sự kết nối nào ở đây
giữa những trọng-cấm và yêu cầu của giới luật cũng như
khát vọng muốn tự biết, tự quyết tâm và tự ngộ sâu
hơn?
Tính bó buộc nào mà một Phật
tử tu Thiền cảm thấy trong mối quan hệ với giới luật?
Có phải những giới luật là đạo đức tuyệt-đối đối
với Phật tử cũng giống như Mười Ðiều Răn của Chúa đối
với những tín đồ của đạo Cơ Ðốc hay Do Thái, những
người vốn có nềm tin là nhân loại bắt buộc tuân theo Mười
Ðiều Răn một cách vô điều kiện, và họ phải nghiêm khắc
tuân thủ từng chi tiết của luật ấy bất cứ lúc nào, bất
kể sự biến đổi bất tận của hoàn cảnh xung quanh vào
những thời điểm khác nhau? Thiền hiểu những hậu quả của
việc không tuân theo giới luật như thế nào? Thiền đối
phó thế nào với vấn đề cảm giác tội lỗi có thể nảy
sinh từ việc không thực hiện đầy đủ giới luật?
Sự tuân theo giới luật một
cách hình thức, quan trọng đối với Thiền hay chính yếu
là tuân phục từ bên trong với sự thanh khiết của trái tim?
Ðiều này có thể thiếu sự giác ngộ sâu hay không? Nếu
không thể, công việc khó khăn trong nổ lực thực hiện trọn
vẹn mười giới luật bên trong và bên ngoài có giúp con người
đạt ngộ hay không?
Nếu trong giới luật hàm nhân
tuệ, thì chí ít mọi người nam nữ đều có tiềm năng nắm
bắt cái tuệ này thông qua chính kinh nghiệm, lý trí và nội
kiến của mình hay không? Hay họ phải bằng lòng chấp nhận
giới luật như sự hiểu biết theo đức tin mù quáng, đặt
lòng tin vào quyền lực của những người khai sáng truyền
thống Phật giáo?
Lá thư này nêu lên nhiều câu
hỏi có liên quan mật thiết với nhau và tôi hi vọng chúng
cung cấp cho thầy những ý tưởng để làm trong sáng vấn
đề đang tìm kiếm. Thêm vào đó là những vấn đề thông
thường và dĩ nhiên tôi quan tâm đến sự giải thích ý nghĩa
cụ thể của từng giới luật.
Cám ơn nhiều.
Thân ái
Bob
LỜI ÐÁP
Bob thân,
Mặc dù những câu hỏi nêu
ra trong thư anh được trả lời khá tốt bằng chính kinh nghiệm
tọa thiền của anh, nhưng rõ ràng lý trí của anh không thỏa
mãn với những gì có giá trị thích hợp mà anh định làm.
Vì lý do này, và bởi vì anh dạy Thiền ở trường học cho
nên những điều anh làm hay nói với học sinh chắc chắn ảnh
hưởng chúng ở một mức độ nào đó. Tôi sẽ bắt đầu
với sự luyện tập thường xuyên của tôi và đáp chi tiết
những câu hỏi của anh, mặc dù hơi lý thuyết, nhưng thực
tế cho thấy những câu hỏi ấy che dấu những mối quan tâm
về mặt tâm linh sâu kín.
Anh hỏi về tính chất và mục
đích của mười giới luật trong Phật giáo Ðại thừa. Giới
luật là một trong những cái kiền ba chân mà giáo lý Phật
giáo và thực hành đứng trên đó; hai chân còn lại là toạ
thiền và giác ngộ-tuệ giác. Ba cái này có quan hệ mật thiết
gắn bó với nhau. Nổ lực giữ giới có thể chỉ thành công
một phần nếu nó xa rời tọa thiền; và toạ thiền xa rời
giới luật thì yếu đi và không chắc chắn. Chính qua tọa
thiền, được chống đở bởi giới luật, sự nhận thức
về chân tánh của chúng ta được nâng lên tầm ý thức (ngộ),
và trong chân tánh này giới, toạ thiền (định), và tuệ nương
tựa vào.
Thoạt nhìn vào con số mười
của giới cấm Phật giáo thì nghĩ nó giống Mười Ðiều
Răn của Thiên chúa giáo, việc so sánh chúng là làm méo đi
cả giới cấm và Mười Ðiều Răn, vì mỗi cái chỉ được
hiểu trong chính bối cảnh tôn giáo của nó. Hãy hiểu rằng
giới cấm không phải là bản tuyên ngôn từ "bên trên" trao
xuống. Chúng không tương phản với, cũng không hạn chế bản
chất căn bản của anh. Thay vào đó, chúng là sự diễn đạt
tâm Phật tự hiện thực hóa, một mô tả, cách một người
phát triển cao về mặt tâm linh không có cảm giác về Tôi-Người
khác trong hành động.
Hãy so sánh: Sống theo giới
luật là vượt một lộ trình thống nhất và hài hoà trên
một con đường trơn tru, ít chướng ngại, có phong cảnh đẹp.
Phạm giới là đi con đường nhỏ có vẻ rất thích thú nhưng
ngay sau đó trở nên gồ ghề, đơn điệu, và chấm dứt ở
ngõ cụt của luyến tiếc và lo sợ.
Thiền sư Ðạo nguyên nói,"
Ðể đạt được một mục tiêu nào đó, qúi vị trước hết
phải trở thành một hạng người nào đó; nhưng một khi quí
vị trở thành một con người như vậy, việc đạt được
mục tiêu đó hay không chẳng còn là điều quan tâm của quí
vị nữa." Giải thích dưới ánh sáng của thư anh, Bob, điều
này có nghĩa để nhìn thấy sự không chân thực của bản
ngã-cái tôi và nắm bắt được sự tương đồng giữa Ta
và Người, anh không thể tiếp tục suy nghĩ và hành động
để đáp lại yêu cầu của cái bản ngã định hướng nhị
nguyên của anh; anh phải lưu ý đến tiếng gọi sâu hơn của
giới cấm.Và tuy một khi giới cấm đã trở thành một tiêu
chuẩn trong cuộc sống thường nhật của anh, ngộ không còn
đứng tách rời với anh như những gì phải tìm kiếm. Trong
trạng thái tự do như vậy, người ta không còn nghĩ về luật
đạo đức hay tập tục xã hội, về chuyện bị trói buộc
vào hay được giải thoát ra khỏi chúng. Anh có thể di chuyển
xuyên qua những tập tục xã hội mà chừng như không hề xuyên
qua chúng --chúng ở đó tuy không ở đó. Mới đầu người
ta tìm tự do khỏi những cảm giác đè nén. Dần dần, qua
toạ thiền và giữ giới, những đè nén bó buộc tan đi. Cái
giá của sự tự do này, tuy nhiên, là sự luyện tập lâu dài
và tự kỷ luật.
Nhận ra điều này, Thomas Merton
nói," Sự coi khinh của thiền giả đối với tập tục thông
thường của xã hội và hình thức là hiện tượng lành mạnh,
nhưng nó lành mạnh vì nó bao hàm tự do tâm linh trên nền
tảng của sự giải thoát khỏi tánh bồng bột, chủ nghĩa
vị kỷ và tự mê hoặc." Trong câu nói này " coi khinh" là sự
lựa chọn tồi, vì một thiền giả đã phát triển tâm linh
không nô lệ vào vấn đề trói buộc hay coi khinh luật lệ,
phong tục. Quả thực các thiền sư được biết đến nhiều
bởi sự cải cách hơn là tuân theo. Thiền sư Bạch ẩn với
ngòi bút tích cực của ông chỉ trích gay gắt giai cấp thống
trị đầy quyền lực ở Nhật vì sự áp bức và bóc lột
của họ đối với nông nô, những con người mà ông thường
xuyên kết giao. Chính Ðức Phật cũng đã tấn công vào tôn
giáo chính thống của thời ngài vì sự mê tín và chủ nghĩa
độc đoán, thậm chí ngài nhận vào tăng đoàn những con người
thuộc giai cấp tiện dân, những người bị ruồng bỏ trong
xã hội Ấn độ. Công lý và sự bình đẳng trong xã hội
có thể tiến triển qua nổ lực của Phật, Bạch ẩn, và
những thiền sư khác nhờ vào sức mạnh biến đổi của tự
do tinh thần.
Anh hỏi," Thiền hiểu thế
nào về những hậu quả của việc không tuân theo giới luật?
Thiền đối phó thế nào với vấn đề cảm giác tội lỗi
có thể nảy sinh từ việc không thực hiện đầy đủ giới
luật? Bình thường cảm giác tội lỗi không phát sinh khi người
ta không giữ giới vì người ta nhận thấy rằng người bình
thường không có khả năng lúc nào cũng tuân theo từng giới
cấm--chỉ có Phật mới có thể làm được như vậy. Khi người
ta thành thật cố gắng sống theo kim chỉ nam này, ăn năn về
những sai phạm và quyết tâm làm tốt hơn trong tương lai,
những sai phạm như vậy, tuy đáng tiếc, không phải là tai
hại. Ðiều tai hại đối với sự tiến bộ tâm linh của
người ấy là mất lòng tin vào sự bảo đảm của Phật,
xuất hiện từ sự giác ngộ tối thượng của ngài rằng
mỗi chúng ta vốn có cái thanh tịnh bổn lai trọn vẹn và
năng lực, qua tu luyện, hiểu được cái hoàn hảo bẩm sinh
này .
Mục tiêu cơ bản của giới
luật là tạo ra con người có năng lực thực hiện việc tu
tập với mục đích nhận ra Phật tánh của chính mình. Thiếu
sự công bằng và vô tư, ít có người chịu đi theo con đường
đạo với nhiệt tình thuyết phục. Hành động mà giới luật
khước từ phải được bỏ đi, không đơn giản vì lý do
đạo đức, mà vì người ta không thể đi sâu vào toạ thiền
bằng cuộc sống phóng đãng, thiếu suy nghĩ, như là người
ta không thể ngủ và thức cùng một lúc.
Không phải tất cả hành vi
xấu bị nhân loại lên án nảy sinh từ cảm giác Ta và Người
sao? Từ sự khẳng định mạnh mẽ của cái tôi-bản ngã hay
sao? Ðến mức độ người ta có thể tiêu diệt ảo tưởng
nhị nguyên này và sự tự kỷ trung tâm mà nó hiển nhiên
nuôi dưỡng, và mang vào nội kiến một tiêu điểm duy nhất,
vì thế không có tôi cũng không có người khác, cảm giác
tương phản và đối nghịch của u uất và giận dữ, dần
dần biến mất.
Hành động"đúng" trong một
hoàn cảnh cụ thể, khi ấy, dầu phá thai, chết theo ý muốn
hay những vấn đề nan giải đạo đức phức tạp khác, có
thể xuất hiện chỉ khi sự tự siêu việt xảy ra. Hơn nữa,
khi một người đã ngộ tánh bất khả phân ly của các pháp
và triệt để hợp nhất nhận thức này vào cuộc sống bình
thường, thời ý niệm "hành động đúng" biến mất. Một
thiền sư thuở xưa nói như sau:
Chết trong khi sống
Và chết hoàn toàn.
Rồi làm bất cứ thứ gì ngươi
muốn,
Bởi tất cả đều tốt.
Giới cấm trong sự tinh tế
và độ sâu tương đối-tuyệt đối có thể được hiểu
ở nhiều mức độ. Khi anh đảm đương công việc huấn luyện
Thiền, một lực cản tự nhiên và sự trong sáng xuất hiện
khi anh đạt được sự kiểm soát lớn hơn về tâm và tình
cảm, nhận định của anh về giới cấm sẽ sâu hơn. Vì vậy,
không cần thiết phải căng theo nó, vì dần dần hành vi của
anh sẽ phù hợp với chúng. Giới cấm đứng lên trên đạo
đức, nhưng không chà đạp chúng.
Giới luật không phải được
áp đặt từ bên ngoài vào, chính sức mạnh cải hoán của
Thiền mang đến sự trong sáng của tâm. Sự tuân phục bên
ngoài đến từng chi tiết của giới luật kém ý nghĩa hơn
từ bi lớn lên từ toạ thiền. Tuy vậy, cố gắng mới đầu
tuân theo giới luật là điều cần thiết, vì toạ thiền có
thể bị chao đảo khi đối diện với những thói quen lâu
đời và những cám dỗ thường nhật.
Trả lời thưa của anh rồi,
bây giờ tôi thúc anh nên bắt đầu toạ thiền, vì với tôi,
rõ ràng là phiá sau những câu hỏi về giới luật xuất hiện
một nhu cầu về tự ngộ. Một khi anh ngộ rồi, những lời
của tôi sẽ giống như đồ rác rưỡi.
Thân,
Phillip Kapleau
2 " THIỀN LÀ
MỘT CÁCH TRỐN CHẠY--THÌ ANH LÀM GÌ ÐỂ GIÚP XÃ HỘI?
Lão sư mến,
Kể từ lần cuối gặp thầy
đến nay đã lâu, vì bận rộn công việc nên tôi khó đến
Rochester để tiếp xúc với thầy, vì thế tốt nhất là tôi
viết thư cho thầy. E rằng thầy không còn nhớ tôi, tôi từng
là hội viên của Trung tâm trong khoảng một năm và thường
xuyên ngồi với nhóm ở Denver.
Mới đây tôi gặp một hoàn
cảnh rất khó khăn mà đến giờ tôi vẫn chưa giải quyết
được, nó đang đi đến một giai đoạn quyết định. Ðiều
này liên quan đến cha mẹ tôi và tôi, đơn giản là tôi không
biết giải quyết nó như thế nào. Tôi rất gần gũi với
cha mẹ tôi, họ là những người thông minh và có học. Chúng
tôi thường tự do trao đổi với nhau và tôi rất kính trọng
họ. Vì vậy, thầy có thể hiểu tôi bị kinh động như thế
nào khi cuối cùng tôi nhận ra rằng không chỉ họ không đồng
ý cho tôi toạ thiền mà còn công khai chống lại việc toạ
thiền. Lão sư, tôi thật sự không biết làm gì. Thầy có
thể cho là tôi non nớt và thậm chí ngốc ngếch vì quá quan
tâm đến những gì cha mẹ tôi nghĩ. Dẫu sao, tôi cũng đủ
lớn để tự quyết định và theo đuổi đến cùng. Nhưng
tôi nghĩ rằng điều thật sự đang xảy ra là cha mẹ tôi
thù địch với "tôn giáo phương Ðông," như họ gọi, đã
ảnh hưởng lên đức tin về Phật pháp của tôi.
Tôi nhiều lần đã thử giải
thích cho cha mẹ tôi tại sao tôi toạ thiền--là vì sự giác
ngộ của tôi, khi có được, sẽ giúp không chỉ chính mình
mà còn vì người khác nữa--nhưng họ không thể hiểu hay
chấp nhận nó.
Cha mẹ tôi nói," Con không là
gì để giúp xã hội cả. Con đang dùng Thiền như một cách
chạy trốn không hơn không kém. Nếu con thật sự muốn thay
đổi chính mình, tốt nhất con đến bác sĩ thần kinh." Những
kết án này làm tôi đau khổ và bối rối. Thật sự, tôi
không phán đoán tốt lắm nhưng tôi cảm thấy chắc chắn
có sự thay đổi tốt trong tôi: tôi cảm thấy rõ ràng, yên
bình nhiều hơn tôi trước đây và rất độ lượng với người
khác. Lão sư, tôi kính trọng và yêu thương cha mẹ tôi, như
tôi nói, dĩ nhiên họ rất hiểu rất hiểu rõ tôi. Nếu nó
hoàn toàn vô giá trị đối với họ, liệu họ có thể nói
những điều như vậy không?
Khi tôi bắt đầu toạ thiền,
tôi thật sự cảm thấy rằng ngồi và dĩ nhiên ngộ, là tốt
nhất nếu không là cách duy nhất để giúp người khác. Nhưng
bây giờ tôi phải thừa nhận rằng đôi khi tôi cảm thấy
có tội vì tôi không còn tham gia cải cách chính trị và những
chính nghĩa khác mà trước đây đã từng thu hút tôi. Có đúng
là Ðạo nguyên đã nói, khi một thiền giả vào đại định,
y trở thành một với tất cả vạn vật trong vũ trụ và hướng
dẫn chúng sinh đến giác ngộ không? Ước gì tôi có thể
tin mạnh mẽ vào chân lý này xiết bao!
Viết rồi đọc lại lá thư
này, rõ ràng là đức tin của tôi yếu ớt biết bao vì đã
toạ thiền mà còn hỏi những câu như thế này. Tôi rất tiếc,
lão sư, đã phiền thầy nhưng nếu có thể, mong thầy giúp
tôi làm rõ những bối rối này, tôi sẽ thành thật biết
ơn vô cùng.
Cuối lạy thầy,
Lynn
THƯ ÐÁP
Lynn mến,
Trạng thái bủa vây việc bảo
vệ Thiền của cô theo như cách mô tả trong thư gợi tôi nhớ
đến một một giai thoại về Bồ đề sư tổ. Khi ông đang
tọa thiền trong một hang động, thì ba đứa bé tình cờ phát
hiện một lối đi dẫn đến hang và liếc nhìn vào bên trong.
Chúng thấy ở có một bóng đen dễ sợ nên chạy ra ngoài
hô hoán. Rồi sự tò mò kéo chúng trở lại, tuy nhiên, từ
khoảng cách an toàn, chúng quan sát cái hình thù bất động
và suy diễn theo bản tính của chúng. " Giống như một người,"
đứa thứ nhất thì thào."Nhưng không thể như thế," đứa
thứ hai đáp." Không ai có thể ngồi yên lâu như vậy được.
Chắc là con gấu." " Không," đứa thứ ba chen vào," nó không
có lông." Chúng quan sát hình thù kỳ lạ một lần nữa. Can
đảm hơn vì sự bất động của" nó", cả ba bắt đầu ném
những viên đá nhỏ vào nó, nhưng nó không động đậy cũng
không lên tiếng. Ðứa gan dạ nhất trong bọn tiến gần hơn,
chạy nhanh lên trước chạm vào hình nhân và quay nhanh trở
lại. Vẫn không có phản ứng. Bối rối, chúng rút lui ra để
chia xẻ kết luận. " Hoàn toàn không phải đá," thằng bé
đã chạm vào nó nói." Nó mềm không lông, vì vậy, chắc chắn
là một người đang ngồi." Nhưng tại sao có người lại ngủ
theo cách này? Thật không tự nhiên," đứa khác xen vào. "Tại
sao nó không nhúc nhích khi tao chạm vào? Chúng càng nghĩ, bí
mật càng làm tăng sự bối rối và lo âu của chúng. Bỗng
nhiên một đứa nhặt hòn đá to với vẻ thách thức ném vào
hình nhân bất động, đập ngay giữa đầu. Bấy giờ, cuối
cùng hình thù bắt đầu nhúc nhích--chậm chạp-trước hết
là đầu, rồi tay, chân , thân thể. Rồi rống lên. Bọn nhỏ
kinh hoàng chạy trốn, Bồ đề đạt ma tiếp tục rống--với
tiếng cười--rồi tuôn trào nước mắt. Hòn đá đã thúc
sự ngộ của ông, sự giác ngộ vĩ đại của ông.
Nhân tánh thay đổi một ít
từ thời Bồ đề đạt ma. Một người ngồi thiền yên lặng
trong phòng của mình hay ở thiền viện vẫn phải đương đầu
với nghi ngờ và ngay cả sự trầm uất. Hoàn cảnh của cô
tiêu biểu cho một trong những điều tệ hại nhất, thường
từ phát xuất từ phiá bạn bè hay gia đình, chính họ thường
khuyên sử dụng liệu pháp tâm ly(psychotherapy). Và hiện tượng
kỳ lạ là chính người thường xuyên đến khám tại bác
sĩ thần kinh ít khi bị chỉ trích vì cố gắng tự cải thiện
mình thay vì giúp đở xã hội. Trái lại, gia đình bạn bè
anh ta thường tán thưởng ý chí vượt qua bối rối lo âu
của anh ta. Và nếu tiến trình hồi phục của anh ta chậm
chạp, nếu nó có thật và kéo dài, anh ta lẫn cách trị liệu
không bị lên án bức thiết.
Nhưng nếu người ấy đi theo
con đường toạ thiền thì lại ít nhận được sự khuyến
khích hay thông cảm. Và nếu anh ta không bị gia đình hay bạn
bè chế diễu về" sự lầm lẩn" này, họ mong đợi anh trở
thành hoàn hảo ngay tức khắc--một vị Phật khác. Nếu cách
cư xữ dường như không đổi--thoạt tiên có bao nhiêu người
phê bình nghi ngờ công khai nhận ra sự thay đổi tinh vi trong
anh ta?--họ tấn công anh ta cùng bằng những biêu riếu như
cô đang gặp ở nhà. Khi cô kể với cha mẹ rằng cô đang
toạ thiền với hi vọng ngày nào đó được giác ngộ, lẽ
tất nhiên họ xem thực hành thiền như một công việc được-tất-cả
hay chẳng-được-gì tất cả dựa trên giác ngộ; từ đây
đến lúc ngộ, họ sẽ cho là cô đang chờ đợi, không đến
đâu cả. Họ không hiểu rằng trong Thiền vấn đề không
phải là" đến" mà là trở thành--hiểu biết, yêu thương
và tự tin hơn. Làm thế nào họ biết được qua việc toạ
thiền đều đặn của cô, những giả dối, buồn rầu, ương
ngạnh đã rời bỏ cô và bản tính trong sáng không một vết
nhơ bẩm sinh của cô sẽ tự hiểu lộ?
Ðiều cô nói về cảm giác
trong sáng yên bình nhiều hơn, và cởi mở hơn với người
khác, là điều mà người thường xuyên toạ thiền trải qua.
Ðừng thất vọng nếu gia đình và bạn bè không nhận ra những
thay đổi này trong cô. Hãy nhớ tâm của cha mẹ cũng bị mê
mờ và đã quá gần gui?với cô trong nhiều năm, do đó, họ
có một hình ảnh cố định về đứa con gái của mình, nên
cần có thời gian để vượt qua. Giống như khó mà nhìn thấy
cái mũi của mình, gia đình bận rộn giải quyết những vấn
đề khó khăn và sự ức chế của nó khiến họ khó mà chú
ý sự biến đổi thoạt đầu của một thành viên trong gia
đình. Nhưng trực giác mạnh của người mẹ cuối cùng sẽ
thắng. Sẽ mất lâu hơn đối với cha cô để nhận ra điều
này, nhưng lợi ích vi diệu của toạ thiền sẽ bắt đầu
cho thấy qua cha lẫn mẹ của cô. Họ sẽ ít cảm thấy sự
cáu gắt và chống đối của cô, cũng như ít lãnh đạm, và
chắc chắn họ bị ảnh hưởng tích cực bởi vẻ ân cần
và từ bi của cô quan tâm đến sự hạnh phúc của họ. Ðây
thật sự là cách cô thu được sau những năm tháng hi sinh.
Và nếu cô tiếp tục ngồi thiền, đến lúc cô sẽ góp vào
thành một gia đình đầm ấm yêu thương. Ðây không phải
là sự đóng góp không có ý nghĩa đối với xã hội, vì suy
cho cùng , gia đình là tế bào của xã hội--sự bất đồng
hay hoà thuận của nó được phản ánh trong xã hội. Ðể
sang một bên vấn đề cha mẹ cô có đang làm gì giúp đở
xã hội không? Sự phê bình của họ có giá trị nào không?
Cô dành nhiều giờ trong ngày để toạ thiền, có tránh các
trách nhiệm xã hội không?
Trước khi trả lời câu hỏi
này cho công bằng, có lẽ chúng ta nên đặt lại vấn đề,
"'Giúp đở xã hội' thật sự có ý nghĩa gì?" Cha mẹ cô có
biết đích xác ý nghĩa của nó không? Có thể nó không chỉ
là một câu nói thông thường, mơ hồ như sự thách thức,
mà họ ném vào cô vì thất vọng? Dù sao, cô cũng làm việc
toàn thời gian như các bác sĩ, thợ mộc, thư ký, nhạc sĩ
và những người khác cũng là hội viên của Trung âm thiền.
Cha mẹ cô sẽ làm gì hơn nữa cho cô? Tại sao điều đó làm
cha mẹ cô phiền lòng khi cô đã dùng thời gian rãnh để tự
rèn luyện qua thiền? Thật giống như họ cảm thấy sự cố
gắng và sự hi sinh được đòi hỏi trong huấn luyện của
cô, và kính trọng cô về điều này, cảm thấy tộ? lỗi
vì họ không thể làm giống vậy, rồi họ tự ghét mình vì
cảm giác tôi lỗi…Và cuối cùng giận việc cô toạ thiền
như là sự phát sinh những tình cảm khó chịu này. Ðiều
này có thể kể đến thái độ của một người cha, không
lâu trước đây đến gặp tôi vì giận con gái mình." Ban đầu
thì đến với ma tuý," ông nói," rồi đến tham thiền, nay
đến thiền. Cái gì sẽ đến kế tiếp?" Thường những người
chỉ tay vào người khác không đồng tình vì " không làm ích
gì cho xã hội" cũng làm thế vì mặc cảm tội lỗi đối
với sự tham gia ích kỷ của chính họ hay vì do sự không
chắc chắn của chính những tiêu chuẩn của họ. Hay có thể
nó phản ánh sự thất bại của những kỳ vọng, lý tưởng
mà từ lâu họ đeo đuổi đến nay vẫn chưa thành hiện thực.
Bây giờ trở lại: "Giúp đở
xã hội" có ý nghĩa gì? Những nhà hoạt động chính trị
cho rằng họ biết nó có ý nghĩa gì khi vào thập niên sáu
mươi, họ giao chiến với luật lệ và những hình thức bên
ngoài khác của xã hội, tuy nhiên ngày nay họ tuyên bố là
không gây ảnh hưởng lên chính mình thì không có thay đổi
nào có ý nghĩa xãy ra. "Người làm tốt" chắc chắn cảm thấy
họ đang giúp đở xã hội khi họ độc đoán tự đẩy mình
vào công việc của người khác, ép buộc người ta bằng chính
công thức của họ về hạnh phúc. Rõ ràng, cụm từ" giúp
ích xã hội" mơ hồ, không gì hơn là một khẩu hiệu rỗng
tuếch, ít nhất khi được diễn dịch về bất cứ hoạt động
đặc biệt hay phương châm công việc.
Nếu có sự giúp ích thật
sự nào, nó phải thực hiện từ "bên trong," cải thiện chất
liệu bên trong con người và mỗi phương diện người đó
liên hệ với cuộc sống. Theo nghĩa này, chắc chắn cô sẽ
giúp ích người khác nếu cô luyện thiền nghiêm túc. Ðến
mức độ cô làm sạch cái tâm tham-sân, tự tìm kiếm và phát
triển trái tim từ bi lặng lẽ, cô sẽ trở nên một người
con gái, người chị, người láng giềng, và người nhân công
tốt hơn. Tiếp tục ngồi một cách chí thành, cô sẽ dần
dần làm tan biến những niệm tưởng kiêu căng, định kiến
bướng bỉnh và những khái niệm sai về chính mình và thế
giới. Vì sao những lợi ích này không được cảm nhận bởi
những người xung quanh cô và bởi xã hội nói chung?
Thay vì chạy trốn cuộc đời,
mục đích phiá trước cô và những ai thực hành thiền nghiêm
túc là trở thành hoàn toàn là một với nó. Một đại sư
Trung hoa nói với đệ tử của mình ," Ðừng để cho những
sự cố trong cuộc sống thường ngày trói buộc ngươi, nhưng
chớ tự mình lìa khỏi nó." Một thiền sư khác nói:" Con người
bám vào cái trống rỗng và làm ngơ thế giới vật chất cũng
giống như vừa thoát khỏi nạn chết đuối lại lao vào lửa."
Cho nên phải hiểu rằng Thiền không phải là chạy trốn những
vấn đề của thế gian mà là một sự giải phóng đem lại
cho ta tuệ giác và sức mạnh để theo đuổi bất cứ điều
gì ta được đòi hỏi phải làm. Trong Thiền, chúng ta không
thèm muốn sự yên bình của cái chết mà làm việc để phát
triển sự im lặng nội tâm và sự trong sáng của tâm qua việc
tham gia tích cực các vấn đề trong cuộc sống. Sự yên bình
thật sự của tâm là chiến thắng không phải bởi tránh né
những xung đột mà là đương đầu và vượt qua chúng với
lưỡi kiếm đấu tranh.
Giống như những gì đang làm
phiền lòng cha mẹ cô là khái niệm bắt rễ sâu trong cách
suy nghĩ của người phương Tây chúng ta, muốn trở nên có
ích người đó phải "tích cực." Trong Nghệ thuật yêu đương,
Erich Fromm xem xét từ "tích cực" được dùng thông dụng trong
xã hội ta. Ô?g nhấn mạnh đến điều mà người ta làm ít
quan trọng hơn cái động cơ nằm phi? sau hoạt động đó.
Người bị gắn vào công việc liên tục bởi sự bất ổn,
cô đơn, hay tham lam, chẳng hạn, là nô lệ với những tình
cảm như vậy, một đối tượng thụ động bị tác động
lên. Trái lại, người ngồi thiền định tập trung là tham
gia vào" hoạt động cao nhất, đó là, hoạt động của tâm
hồn, chỉ có thể dưới điều kiện tự do và độc lập
nội tâm…"
Nhìn theo cách này, thậm chí
cha mẹ cô có thể đồng ý là nếu chúng ta duy trì sự cân
bằng tinh thần để đương đầu với những căng thẳng và
xung đột đang gia tăng trong cuộc sống hiện tại, chúng ta
không còn sự lựa chọn nào khác ngoài việc dấn thân vào"
hoạt động cao nhất này của tâm hồn" này. Và không chỉ
vì bản thân chúng ta. Phật giáo dạy rằng tâm của một người
là tâm của tất cả mọi người. Xã hội dù sao là sự sáng
tạo của chính chúng ta, không gì khác hơn là sự biểu lộ
tâm tập thể của tất cả những cá nhân tạo ra nó. Vì những
lỗi "bên ngoài" của xã hội thật sự nằm bên trong tâm chúng
ta, nó đưa tới, như cô cảm nhận đúng, là chúng ta mỗi
người phải gánh vác trách nhiệm về thân phận con người.
Làm thế nào một người cảm nhận có trách nhiệm với đồng
bào của mình lại làm ngơ việc tịnh hoá chính bản thân
mình? Làm sao y có thể đủ nghị lực để làm ngơ trước
những ô uế phát ta từ thân, khẩu, ý của chính mình?
Vì vậy, ảnh hưởng sự giác
ngộ của một người tác động lên thế giới tâm linh của
tập thể là vô cùng tận. Ở phương diện vô vi, nó toả
ra dòng ánh sáng thanh tịnh soi vào bóng đen vô minh của tâm
người khác. Ở phương diện hữu vi, sức mạnh của tâm ngộ
thanh tịnh đầy giới đức ảnh hưởng và biến đổi tâm
người khác đến vô cùng. Như ánh sáng dù chỉ là vài ngọn
nến trong một hang động to lớn và đen như mực làm giảm
đi bóng tối ở chừng mực nào đó, hàng trăm trong hàng vạn
người toạ thiền một cách vô ngã sẽ tạo nên một sức
mạnh vô cùng vì hoà bình hoà hợp trên thế giới.
Vì chính cô và vì người khác,
Lynn, tôi hi vọng cô duy trì việc luyện tập và tự chứng
nghiệm phép nhiệm mầu của Thiền.
Thân,
P.K.
3 " TÔI CÓ
PHẢI TỪ BỎ GIA ÐÌNH ÐỂ HOÀN TOÀN GIA NHẬP THIỀN KHÔNG?
Lão sư kính,
Từ khi gặp thầy cách đây
nhiều tháng tại Costa Rica, tôi đã suy nghĩ nhiều về những
gì chúng ta đã nói với nhau, và bây giờ tôi quyết định
dự chương trình huấn luyện ở Trung tâm thiền, tôi muốn
trnh thủ thông báo với thầy về những tình cảm liên quan
đến quyết định này.
Thoạt tiên, tôi đã đọc về
thiền, cũng như những triết lý và cách rèn luyện tự ngộ
khác, trong nhiều năm nhưng không thường xuyên. Mới đầu,
tôi xem điều quan tâm này không gì hơn điều đó, điều mà
tôi bắt gặp trong tưởng tượng và thu hút tôi bằng những
miêu tả về những nơi xa xôi, với các phép tu luyện dị
thường, những hành vi thái độ của những bậc thông thái,
thầy Ấn độ, thầy Hồi giáo và các nhà sư, những sự trích
dẫn vô lý, không thể đoán được về Chân lý, Hiện thực,Tâm,
Bất định, và Tối hậu. Nhưng cho dù tôi không hiểu hết
tất cả, một cái gì đó đã thu hút sự chú ý của tôi và
tôi tiếp tục quay lại để được nhiều hơn.
Rồi thời gian trôi qua, tôi
trở nên chuyên hơn ( ít nhất trong đọc sách), chủ đề trở
nên thôi thúc hơn và khi tôi nhận ra chính mình bị thu hút
mãnh liệt hơn; cũng như phát triển một "cảm giác" về những
gì được kể, tất cả bắt đầu có ý nghĩa hơn. Tôi đến
với nhận thức là tất cả " triết lý ngoại lai" này có
sự liên hệ trực tiếp đến tôi, đến cuộc đời tôi, và
tôi nhận thấy chính mình bắt đầu thay đổi và đi theo một
hướng nhất định. Chậm, nhưng chắc, tôi đến với nhiều
( đối với tôi) hiểu biết sâu có ý nghĩa đã thay đổi
hướng đi của cuộc đời của lúc đó. Tiến trình này tiếp
tục cho đến bây giờ, lúc mà tôi nhận thấy mình trong một
hoàn cảnh đòi hỏi một quyết tâm cao có thể làm tôi sống
quãng đời còn lại trong an bình, bị thuyết phục vượt qua
tất cả nghi ngại, rằng tôi đã tìm thấy những gì tôi tìm
kiếm.
Ðiều xảy ra trong những năm
tháng này là tôi có được sự tỉnh thức nhiều hơn, nó
giúp tôi sống và làm việc yên bình, tích cực hơn. Tuy nhiên,
cùng tiến trình nhận thức này cũng góp phần vào cảm giác
sâu đậ? của lộn xộn, thất vọng, lo âu, vì tôi bây giờ
có cảm giác không gì lay chuyển là tôi nắm được bóng dáng
của Hiện thực hay Chân lý, một điều gì đó thuộc một
trật tự hoàn toàn khác với những cái đã rõ ràng. Và bây
giờ tôi muốn biết thực tế khác này là gì? Tôi muốn có
cái nhìn toàn cảnh thay vì chỉ là một bóng mờ, để thực
hiện một cú bứt phá nhằm giải quyết hay loại bỏ một
lần cuối cùng bất cứ những gì mà tôi cảm thấy chia cách
tôi với những phạm vi hay thực tế khác đó của cuộc sống.
Trong những năm qua tôi đã thực hiện nhiều cố gắng bất
thành để kết thúc điều này một mình, với kết quả là
tôi lại bị kích động nhiều hơn, trong khi sự bồn chồn
và thất vọng của tôi gia tăng. Dường như trở nên ngộ
mà không có sự giúp đở của một người thầy đắc ngộ
là một chuyện khó khăn, không phải là không có thể hoàn
thành.
Và hiện tại, tôi quyết định
tiến một bước kế tiếp, tham dự một khoá huấn luyện
vàtự mình quan hệ trực tiếp với thầy, người cuối cùng
có thể giúp tôi đạt ngộ, tôi đang trải qua những hoài
nghi và lo âu mới. Một phần, tôi chắc rằng nếu tôi không
làm thế tôi sẽ tiếp tục sống trong xung đột, nhưng mặc
khác, tôi có cảm giác tôi đang bắt đầu một giai đoạn
cuối của hành trình đi tìm ý nghĩa cuối cùng của cuộc
đời và sẽ không có sự quay lại. Và ý nghĩ "bất thối
" này làm tôi phân vân nơi chính xác nào tôi sẽ đến, điều
gì sẽ xảy ra với tôi và kết quả của bước này như thế
nào? Còn nữa, trong khi tôi không muốn tiếp tục sống trong
sự xung đột và lo âu này, cũng không chết trong trạng thái
lộn xộn như vậy, tôi có thể nhận ra sự do dự, bắt rễ
sâu trong tôi khi từ bỏ cái tôi là và cái tôi có, cũng đang
hoạt động.
Ðể sống theo cách này rất
khó, vì tôi không ngừng có cảm giác tôi hoạt động rất
siêu tuyệt hay rất nông cạn và giới hạn trên phần "bề
mặt " của Hiện thực mà ở đó tất cả các mối qua hệ
lẫn giải pháp cho mọi vấn đề sẽ rõ ràng trong sáng đối
với tôi, tuy vậy nó tiếp tục lẫn tránh tôi. Tôi cũng cảm
thấy một năng lượng tiềm tàng bị khóa chặc trong tôi,
nhưng tôi không thể giải thoát nó và hiểu ra những gì tôi
cảm nhận trở nên cái giống như "chân tánh "của tôi.
Và dĩ nhiên một nguồn lo âu
nghi ngờ khác là gia đình tôi. Về vợ tôi, con tôi, vấn đề
học hành của chúng, công việc của chúng tôi v.v…? Ðiều
gì sẽ xảy ra đối với tất cả những mối quan hệ và ràng
buộc này và bó buộc này, nếu tôi khởi hành theo con đường
mà dường như không có sự quay lại? Những câu hỏi và nghi
ngờ như vậy có lẽ hình như không liên quan và bên ngoài
vấn đề, hay thật sự không gây lo âu dưới cái nhìn của
một người giác ngộ như thầy, nhưng đối với tôi, chúng
chính là chướng ngại làm cho tôi do dự và giữ tôi trong
trạng thái chờ phán quyết. Hay để diễn đạt câu hỏi theo
một cách khái quát hơn, liệu tôi có thể tham gia đầy đủ
công việc Thiền mà không nhất thiết phải bỏ đi các quan
hệ này không? Mặc dù vợ tôi, một con người hiểu biết
chính chắn ngoại lệ, không thừa nhận là đang lo âu về
điểm này, tôi hiểu là cô ấy--phản ứng tự nhiên--và dù
sao, tôi không muốn gây tổn thương cô ấy. Tôi cũng không
thể lừa dối, ở điểm này, chuyện từ bỏ con của mình.
Vấn đề có vẻ như một người muốn trọn vẹn cả đôi
đường, nhưng tôi nghi là nó không đơn giản như thế.
Ðây không phải những câu
hỏi tôi muốn trả lời trực tiếp, nhưng tôi muốn được
quan tâm. Tôi cho rằng rất có thể hầu hết mọi nghi ngờ
lo âu này sẽ được giải quyết thật tự nhiên khi tôi đi
tới, và vì vậy tôi quyết định chỉ đi về phía trước
bằng bước kế tiếp, là đến Rochester và bắt đầu luyện
tập và để tiến trình bắt đầu hoạt động và để những
mảnh vỡ rơi một cách tự nhiên.
Ðây là một lá thư khó viết,
đặc biệt là tôi cố gắng diễn tả bằng những trực giác,
cảm xúc và những tiến trình .v.v… thật sự không thể mô
tả nó bằng lời. Tuy nhiên tôi chắc chắn thầy nắm được
cốt lỏi những gì tôi cố nói.
Tôi hi vọng mọi điều tốt
cho thầy và mong đợi gặp thầy lần nữa.
Chân thành,
David
THƯ ÐÁP
David thân mến, anh thật đúng
--một khi Chân tánh của anh bắt đầu dấy lên thúc dục đến
với ý thức, không có sự quay trở lại. Không nghi ngờ gì
về chuyện anh biết Freud và những nhà tâm lý khác nói tới
cái hại lớn gây đối với tinh thần khi khao khát xác thịt
không tìm ra lối thoát. Nhưng tồi hơn nữa là sự thất bại
của nhu cầu nguyên thủy về hiểu biết ta là ai, là gì và
ý nghĩa của sinh tử.Những câu hỏi này là chướng ngại
anh tự mình phải xuyên thủng; về mặt kia của nó là Hiện
thực mà anh cảm nhận. Nhưng nó không tách biệt. Hiện thực
này--làm thế nào có nhiều hơn một Hiện thực? Khi chất
sình của những tư niệm mê hoặc lắng xuống, anh sẽ nhìn
thấy làn nước trong sạch mà thực tế cũng nước đó được
tẩy đi chất dơ bẩn.
Anh đang lơ lững ở tuổi bốn
mươi, phải không David? Nó đặt anh ở ngã ba đường, nơi
mà anh phải tự hỏi," Liệu ta sẽ đi theo con đường có ít
kháng cự, một bên thoải mái, một bên đau khổ không thoả
mãn hay ta sẽ đi theo một nẻo đường mới dẫn đến tự
do thật sự? Nó có thể là cơ hội cuối cùng để hoàn thành
ước vọng và làm chủ sự sợ hãi, vì anh có thể nhận thấy
kèm theo những nổi lo âu thông thường của tuổi trung niên
sự tự ghét bỏ vì đã không đảm nhận điều đè nén quá
mạnh trong tim. Thật đáng buồn, đây là cảnh ngộ của hàng
ngàn người mà trước đây tràn trề nhựa sống và hi vọng,
nay nhận ra những năm tháng sau này năng lượng của họ đã
đổ vào hàng loạt hoạt động hay bị cạn đi bởi sự xói
mòn của sợ hãi về sống chết, đối mặt với nó họ cảm
thấy bất lực. Jung viết là ông ta chưa bao giờ có bệnh
nhân trên bốn mươi vì vấn đề nền tảng của họ không
phải là sợ chết. Chính ngộ--đánh thức chân tánh của bạn--nó
sẽ giải quyết nổi sợ này, cho phép anh sống nhiệt tình
và chết đàng hoàng.
Việc xem xét trường hợp một
tù nhân đang chấp hành bản án chung thân lại được phóng
thích sớm. Nếu anh ta đã ở tù nhiều năm và đã tạo nên
một chổ trú thoải mái trong cộng đồng tù nhân, có lẽ
anh ta trở nên sợ phải đối mặt với trách nhiệm của cuộc
sống bên ngoài. Nếu trong con người như vậy, sức sống đã
bị bóp nghẹt, anh ta sẽ từ chối được phóng thích sớm
hay không làm gì cả để được điều này. Tuy nhiên, nếu
anh ta chỉ ở tù vài năm và bản năng được tự do hoạt
động lành mạnh, anh ta làm mọi cách trong khả năng của mình
để được phóng thích.
Tương tự, sự chuẩn bị tham
gia chương trình huấn luyện sắp đến của anh cho thấy sinh
khí tinh thần của anh mạnh mẽ. Nếu anh hoãn lại quyết định
của mình, sự tra vấn tích cực về ngộ có thể bị dời
lại và cuối cùng sự thúc dục vì tự do sẽ trở nên câm
nín trong anh. Câm lặng nhưng không bao giờ bị xoá đi. Dù
anh có thể tạm thời che dấu sự thất vọng và bồn chồn
của mình bằng những trò giải trí, cũng sẽ không có yên
bình thật sự. Thậm chí những giây phút vui thú nhất của
anh cũng bị chiếm lỉnh bởi nổi đau mong ngóng sự tự ngộ.
Vì vậy, tôi chúc mừng anh
có được quyết định trọng yếu và mong gặp anh ở Rochester.
Sự quan tâm của anh đối với
vợ con, việc học hành của chúng và công việc của anh có
thể ảnh hưởng đến họ, cho thấy đáng khen ngợi, nó biểu
lộ sự vững chắc và hiệu quả của mối liên hệ giữa
anh và họ như thế nào. Trong hoàn cảnh của anh, thường người
vợ rất lo sợ. Nếu bản thân cô ấy không tọa thiền--và
tôi biết vợ anh thì không -- cảm giác phát sinh trong cô là
nếu anh tiếp tục tiến bộ trong Thiền, cuối cùng anh sẽ
trở thành tu sĩ và rời bỏ vợ con. Anh phải biết, nỗi sợ
bị người chồ?g bỏ rơi rất mạnh trong hầu hết càc phụ
nữ. Cách duy nhất mà anh có thể làm cho vợ con an tâm là
càng tỏ ra yêu thương họ nhiều hơn, vì những đứa con chắc
chắn là mối lo âu của mẹ chúng. Không xác định như thế,
vì điều này sẽ là giả tạo và chỉ làm lệch mối lo âu
của anh. Thay vì chỉ tập trung toàn tâm vào tu tập Thiền--
nghĩa là nhớ đặt mình hoàn toàn vào mọi khiá cạnh của
cuộc sống thường nhật--anh sẽ tự nhiên trở nên nhiều
yêu thương hơn. Có thể nói, tình yêu nguyên vẹn của anh
sẽ được giải thoát, xuất hiện và tự biểu lộ ngày càng
nhiều. Khi anh ở với vợ con, hãy trọn vẹn ở đấy với
họ; cũng giống như vậy, khi làm việc đừng để phần hồn
ở nhà; khi cạo râu chỉ việc cạo, khi đọc chỉ đọc.v.v...
Ðiều này là thực hiện đúng theo tinh thần của Thiền trong
cuộc sống hàng ngày của anh. Tiếp tục điều này chẳng
bao lâu, anh sẽ tự nhận ra nơi anh có sự hiểu biết và kiên
nhẫn hơn với con mình, trực nhận khi nào nên căng, khi nào
nên mềm dẽo. Anh sẽ đáp lại một cách nhạy bén những
nhu cầu của vợ anh cũng như đối với những người chung
quanh anh.
Cuối cùng, tôi nhắc anh đừng
nghĩ đến từ" làm đau lòng" hay" không làm đau lòng" gia đình.
Bực bội về điều này chỉ làm cách cư xữ của anh đối
với họ trở nên bó buộc không tự nhiên. Thay vì vậy, hãy
tin rằng theo ý nghĩa tâm linh sâu sắc nhất, bất cứ cái
gì giúp anh, mà cũng là giúp cho chính họ. Mới đầu điều
này dường như không phải như vậy, nhưng nếu anh luyện tập
sâu, sự thật về nó sẽ làm cho anh và vợ hiểu rõ. Ðến
lúc đó anh có thể làm tất cả để bảo đảm với cô ấy--
không chỉ bằng lời mà bằng hành động.
Cám ơn bài viết của anh, và
nếu anh không phản đối, tôi sẽ đọc thư anh trong buổi
nói chuyện chính thức sắp tới; chắc chắn nhiều người
sẽ thấy thư anh phấn khích và bổ ích.
Nồng hậu đón tiếp anh và
công việc khó khăn đang chờ anh.
Thân ái,
Phillip Kapleau