II MÔ TẢ
SỰ GIÁC NGỘ
1 " SỰ HẠNH PHÚC NHƯ
THẾ LÀM BẠN HIỂU SỰ BẤT HẠNH CỦA BẠN NHƯ THẾ NÀO TRƯỚC
ÐÂY TRẢI QUA"
LÃO SƯ kính mến, thư này được
trong niềm hi vọng khuyến khích những người khác. Ðặc biệt,
những ai đang sống xa trung tâm thiền và phải thực hành đơn
độc, những người cao niên bị trở ngại về thân xác, và
những ai cảm thấy thiếu niềm tự tin. Năm năm qua, kể từ
lần đầu tôi đến trung tâm vào tuổi năm mươi chín, tôi
đã dự chỉ ba khóa nhiếp tâm bảy ngày ( chủ yếu vì lưng
đau và chân bị tê cứng)--Nhưng khóa nhiếp tâm thứ ba- tháng
10/75-là khoá nhiếp tâm năng động kỳ diệu. Các trở ngại,
đau đớn, tuổi tác, khủng hoảng vì tuyệt vọng, thậm chí
cả tu tập đơn độc--bây giờ tất cả được nhìn như là
trạn mưa rào ơn phước.
Mặc dù, ngay từ các buổi
lể mở đầu, khoá nhiếp tâm đó đã phóng tôi vào sự luyện
tập khẩn trương và cường độ tu tập tôi chưa từng biết
trước đây. Chắn chắn rằng không có sự gợi ý đó là
" khoá nhiếp tâm của tôi." Tôi đã dành cho thiền năm năm,
đến đây là kết thúc, vì vậy có thoả thuận ngầm mới
" Ðược, ta sẽ dành cho Thiền thêm ba năm nữa. Và rồi ta
sẽ xem." Cách nào mang lại một chút ít hi vọng tức thời
cho người tu tập quá tản mạn, bị lôi kéo bởi niệm tưởng?
Người đọc không ngừng nghỉ? Người chắc chắn là không
thể ngồi yên trên chiếu thiền? Ðiều duy nhất có thể nói
được về sự tu tập của tôi là nó bền bỉ, trung
thành bền bỉ và kiên định, bất kể vấn đề gì nảy sinh.
Ðôi khi, sau những khủng hoảng, tôi thề bỏ cuộc, ngưng
" sự lãng phí hoàn toàn ngay tức khắc," cố gắng bỏ và
nhận ra tôi không thể. Thiền tóm lấy tôi và đang lắc tôi
như mèo vờn chuột. Tôi đã chống trả và cố vượt thoát,
nhưng mọi việc không thành.
Giờ đây, chúng tôi đang ở
trong khóa nhiếp tâm. Câu chuyện cũ không thích hợp và nên
quên.
Hai ngày đầu tiên, sự tu
tập của tôi phóng đi có khí thế, một phần nhờ vào sự
chuẩn bị kỹ ở nhà. Ðau lưng, các ý tưởng lơ đãng, nhưng
tôi có thể quay lại và quay lại và rồi lại quay lại sự
tập trung. Lời bình của lão sư vào ngày thứ hai nhắm chí
tử vào ai lệ thuộc vào lời. Họ là những kẻ thất bại,
lão sư nói. Từng là nhà văn và là kẻ cả đời sống với
chữ nghĩa, tôi cảm thấy những mũi tên này cắm vào tim tôi,
và khóc một cay đắng. Tôi nhớ đến những sổ ghi chép và
báo chí lư giữ đã ba mươi năm, mà tôi rất hãnh diện, bám
bụi nhưng không được ném bỏ đi--sự ràng buộc với qúa
khứ, ràng buộc với ngã. "Tôi sẽ đốt chúng," tôi hứa,"
tôi sẽ tái sinh trong mỗi khoảnh khắc." Sự tập luyện của
tôi đang nóng lên. Tôi được trợ giúp bởi mỗi người quanh
tôi-- sự trợ giúp cá nhân đặc biệt được trao tặng không
thể nào tin được, ít nhất, bởi bốn người nhiếp tâm
kế cận.
Ngày thứ ba, thứ Ba "đen".
Mọi sự vỡ vụn, sụp đổ. Tôi đắm mình vào nổi chán
nãn đen tối nhất. Không thể tu tập. Không bao giờ có thể
nữa. Chẳng thể nán thêm hơn ba mươi giây. Tôi sẽ rời khoá
nhiếp tâm, lìa Thiền mãi mãi. Vì cái gì để sống? Tôi dừng
lại ở ý định tự sát. Tại sao không? Tự sát. Sao lại
sống? Sẽ không dự buổi độc tham. Không đủ can đảm để
tới. Có ích gì? Tôi nói được gì? Tôi đã bị cháy hết
rồi, chiếc hỏa tiển rời khỏi bệ phóng hai ngày…cạn
kiệt, cạn kiệt. Ðau khổ dâng trào sôi sục. Cuối cùng,
tôi lê bước đến buổi độc tham, đứng cuối cùng trong
hàng. Lão sư ôm tôi, khuyến khích tôi. Sự nhiếp tâm mất
trong tôi là không thực. Tôi có thể lôi nó ra. Phải không?
Vâng, tôi có thể và tôi sẽ, tôi sẽ. Dần dần mây đen vén
lên, cùng lúc ấy, tu tập sống lại ở mức độ sâu hơn.
Năng lượng lại tuông trào.
Ngày thứ tư và năm, mọi
việc đang xảy ra. Vốn là phóng viên--người quan sát, tôi
theo dõi chúng với kinh ngạc dịu dàng. Nhưng đây là bầu
trời quang minh tôi đã từng đọc đến! Ý tưởng bồng bềnh
như mây, vô tội, tự do. Ô, kỳ diệu, chẳng thể tin được.
Thời gian trôi qua, tôi phân tích và quan sát trạng thái mới
của tôi, bám víu vào nó. Dĩ nhiên, nó mờ đi, lung linh, biến
mất. Lại u ám,tảng mạn, chua xót, hoang tưởng. Quay lại
trạng thái cũ. KHÔNG … KHÔNG… KHÔNG …Người đạo hữu
bên phải tôi đang tu tập với sự vững chắc và sức mạnh
của núi. Tôi hấp thu sức mạnh của anh ta, thậm chí hoà
điệu vào hơi thở của anh ta. Ðược rồi. Năng lượng và
sức mạnh tăng lên. Bổng nhiên người quan sát ghi nhận :
núi bạc…vách sắt! Núi bạc trơn trợt như băng; tường
sắt có cái cổng nặng nề được cài then chôn chặc. Tôi
xô mình đẩy nó lần nữa, rồi lần nữa. Tôi dán mình vào
nó KHÔNG … KHÔNG… KHÔNG … Và nó cũng biến mất và chẳng
trở lại .
Tôi không biết làm gì. Tôi
đang ở ngõ cụt, trong một cái hộp, không, căn phòng không
cửa đi lẫn cửa sổ. Tôi phải phá ra, nhưng cách nào,
cách nào , cách nào. Ðâm thẳng vào bức tường,
cào cấu. Tuyệt vọng, tuyệt vọng, tôi phải thử bất kỳ
thứ gì, làmbất cứ cách gì. Sôi nổi, tôi ôn lại
toàn bộ hướng dẫn tôi đã nghe và đọc. Tôi sẽ như đứa
trẻ, ngốc nghếch. Tôi phải tin? Tôi sẽ tin? Tôi thật
tin. Họ nói tôi là KHÔNG? Vậy tôi là KHÔNG. Nếu tôi là KHÔNG,
tôi biết KHÔNG. Do vậy tôi thật biết KHÔNG. Tôi là KHÔNG,
tôi biết KHÔNG. Tôi không là gì ngoài KHÔNG. Tôi là đứa
trẻ ngốc nghếch, là KHÔNG, và thấy KHÔNG ở mọi nơi…
và tiếp tục và tiếp tục và tiếp tục. Nổi tuyệt vọng
của tôi đến rồi đi như những đợt sóng. Không có cảm
giác nào của bất kỳ giải pháp nào đang đi đến. Chỉ có
đấu tranh, đấu tranh vì chính sự cấp thiết. Tôi phải xuyên
phá, và dù tôi không mong mõi xuyên phá, hay nghĩ tới cái gì
giống như xuyên phá. Các nổ lực của tôi vẩn còn khó hiểu,
với sự tản mạn … Trên giường, tôi đấu tranh để lôi
KHÔNG vào giấc ngủ. Ngươi muốn ngủ ư? Tốt thôi, cứ việc
… Nhưng chỉ khi KHÔNG đi kèm với ngươi. Không chắc điều
này có thành công như mong ước hay không. Nhưng nó xuất hiện
con đường trống trải cho KHÔNG xâm nhập vào tâm với các
chừng mực sâu hơn. Bây giờ, trong và ngoài thiền đường,
các tản mạn ngày càng ít dần. Tôi không còn phải đấu
tranh với chúng nữa. KHÔNG sẳn sàng quay lại; nó luôn ở
đó, ngay dưới váng bẩn bề mặt.
Ngày thứ sáu và bảy. Cái
bụng người cười. Lấy một cái thau to để lau rửa người,
tôi phải đang đứng một cách kỳ quặc, vì cái bụng buồn
cười kỳ lạ đang nhìn lên tôi bằng một con mắt của nó.
Dường như nó lớn gấp hai lần như tôi đã nhớ và có một
nhân cách kỳ quặc đầy đủ riêng nó. Chúng tôi chào nhau
và ngã lăn ra cười. Vậy mà tôi tưởng nó là" của tôi".
Ngạo mạn làm sao, lố bịch làm sao! Cái mà tôi tưởng là
tôi là một bó thực thể buồn cười. Sau công việc sáng
thứ Sáu tôi đang nằm trên giường nghỉ ngơi, khi chính lão
sư đang đứng ở đó trong hình dạng cái còi hơi nước bằng
đồng to lớn, áp lực bên trong đang tăng, tăng. Van mở--đó
là miệng của ông--hơi nước phun lên và
KHÔNG!
Phát ra phiá trước tiếng còi
làm rung chuyển thế giới. Rồi tôi là lão sư và tiếng còi
đang phát ra từ tôi, là tôi, là mọi người, mọi sự! Rào
chắng bắt đầu sụp đổ; tâm đang làm việc cuồng nhiệt;
những tiếng nói bí mật trở nên rõ ràng. Dĩ nhiên, dĩ nhiên!
Diệu kỳ biết bao, đúng lúc biết mấy… Một hạnh
phúc chất ngất xâm đang xâm chiếm tôi. Hồ nghi còn lại--chẳng
phải hiểu biết này vẫn còn qúa duy lý hay sao? Nhưng hồ
nghi chẳng còn đắp đập ngăn cản hạnh phúc lẫn cảm xúc
biết ơn, bắt đầu chảy mạnh đến nổi gần như quá mức
chịu đựng. Ngày đó và kế tiếp, ngày cuối của khóa nhiếp
tâm, trải qua trong sự sửng sốt của hạnh phúc, vui thú trong
mỗikhoảnh khắc tới. Nhảy nhót trong hàng thiền hành,
rồi khóc vì nghĩ là tới nợ nhiều biết bao nhiêu với lão
sư, Tăng đoàn, chư Tổ, lực lượng nhân từ huyền
bí chuyển dời mạng sống chúng ta.
Có lẽ tác động xúc cảm
mạnh mẽ của kinh nghiệm này, chỉ nông cạn và cục bộ,
do chính sự vô vọng của hoàn cảnh tôi trước khi nó xãy
ra: gần như hoàn toàn không có niềm tin, khô như cục xương,
cằn cổi, âm u, chết cứng, bị nhốt vào chứng tật hoài
nghi, không thể nào phá thoát. Và luôn luôn khao khát--kẻ đói
nhất trong những hồ ma đói.
Niềm hạnh phúc diệu kỳ như
thế làm bạn hiểu ra( trong rất nhiều điều khác) sự bất
hạnh thật sự của bạn như thế nào trước đây trải qua.
Không phải trong các tình huống của cuộc đời, nhưng trong
chính bạn, cái ngã khốn khổ bồn chồn, không thỏa mãn vĩnh
viễn. Vui thú này là vui thú của sự trút bỏ các gánh nặng,
các gánh nặng mà bạn chẳng từng biết có nó--nó đã xâm
nhập vào bạn qúa sâu--lôi anh xuống, nghiền nát anh, làm
anh nặng như chì, quay chầm chậm như quay rỉ mật đường
lạnh lẽo đầy đặc.
Bây giờ, lần đầu tiên tôi
cảm nghiệm niềm vui đến, với tràn ngập cảm giác của
lòng tin. Lòng tin của tôi giới hạn ở lượng tối thiểu,
thấp nhất: Ngộ hiện hữu. Nghi lễ ở Trung tâm đã
làm tôi bối rối. Tôi bị bối rối và khó chịu khi ai đó
nói về lòng tin, ngay cả lão sư, và sẽ hướng ý nghĩ của
tôi sang về nơi khác. "Ðừng quan tâm nó," tôi tự nhủ. Giờ
đây, với bước nhảy vọt vĩ đại, niềm tin trải ra xa và
rộng. Nó chẳng có tí vẻ gì là niềm tin mà là cái biết
rõ ràng nhất, chắc chắn nhất. Những hoạt động vô tâm
của nghiệp (dĩ nhiên tôi chẳng bao giờ chấp nhận), cái
khéo léo khó hiểu, dị thường của cung cách và mọi vật
tự phát triển, cái mối quan hệ đan xen, cả thảy trở nên
rõ ràng làm tôi choáng ngộp, vì kinh ngạc và biết ơn.
Những dòng thơ viết bởi Cơ
đốc giáo thần bí hiện ra trong đầu tôi:
Tất cả rồi sẽ tốt đẹp
Và tất cả rồi sẽ tốt đẹp
Và tất cả mọi điều
Rồi sẽ tốt đẹp…
Vâng! Tôi nghĩ. Và không chỉ
tất cả rồi se?tốt đẹp, mà tất cả tốt ngay
bây giờ! Và luôn luôn đã tốt đẹp rồi, chỉ có tôi
quá mù quáng để không nhận ra nó. Sự phối hợp khó tin
của các tình huống may mắn đã dẫn tôi đến khoảnh khắc
này, kể cả những thứ mà tôi đã xem là vận rủi đen tối
nhất: lưng đau, sự cản trở của nghiệp văn, các sức mạnh
của buồn chán, khó khăn gia đình, sự chậm trể được chấp
nhận là hội viên của Trung tâm, những lá thư bị mất, đầu
gối sưng vù không chịu co lại, di chuyển khỏi Mêhico quá
xa --tất cả tạo nên mô hình thân thương, và rối ren dẫn
tôi tới Thiền, đến khoảnh khắc này, ngăn cản hành động
sốc nổi thiếu suy nghĩ mà tấm thân ở tuổi trung niên này
chẳng thể chống đở nổi, dạy tôi kiên nhẫn, cung cấp
những thất vọng và hổ thẹn ở một tốc độ tôi có thể
hấp thu, đưa tôi chính xác vào con đường đúng, đối với
tôi. Và tôi biết rằng cũng những kỳ diệu như vậy đang
mở ra đối với mọi người.
Lối suy nghĩ này có lẽ không
lạ gì đối với nhiều người đồng tu, đối với tôi đó
là sự quay ngược 180 độ, nó là một cuộc cách mạng cũng
như một sự thiên khải. Bây giờ, nếu những cản trở của
người viết văn tồn tại với tôi--Tốt! Tôi tin nó, kính
trọng nó, thậm chí sùng kính nó, vui trong nó. Một trí huệ
nhân từ đang làm việc ở đây, tôi không thể hi vọng đo
đạc. Kinh ngạc! Kinh ngạc!
Ðang khi khóa nhiếp tâm tiến
dần đến kết thúc, dường như có một lổ hổng trên đỉnh
đầu và một lổ hổng khác ở ngực, như thứ hố bom còn
lại. Như khối u to lớn--khối u ngã--đã bị loại bỏ thành
công, để lại tô,i lần đầu tiên trong đời, tự do.
Tự do! Tiếng rên rỉ" KHÔNG" ở mọi người vào đêm thứ
Sáu, tôi trở nên biết rằng cái đau khổ của lòng ham muốn
đã đi xa hoàn toàn. Tôi còn thiếu cái gì?
Kinh nghiệm riêng tư của tôi
là hạn hẹp và nông cạn. Kẻ bạo chúa, tôi hồ nghi, không
bị đánh bại một lần vĩnh viễn. Tôi cảm thấy bị lèn
chặc, bị gnuyền rủa, bị xô nghiêng--nhưng vô ngã hoàn toàn.
Hiểu biết này--Vâng , nó là cái vốn có. Bất kỳ nó là
cái gì, nó đem theo nổi vui thuần khiết, sự hoàn thành vĩ
đại nhất của đời tôi.
Năm năm đau khổ
Chấm dứt trong tiếng hát
Cúi lạy thầy
Christine
2 " TÔI BƯỚC
MỘT BƯỚC VÀ VŨ TRỤ LỘN NGƯỢC RA "
Lão sư mến, giờ đây đã
một tuần kể từ khoá nhiếp tâm tháng Mười, công việc
nghề nghiệp và gia đình thường ngày đã quay trở lại. Tuy
vậy, khoá nhiếp tâm ấy đã thay đổi cả thế giới! Khi
thầy nói ở buổi nhiếp tâm đang kết thúc, nó là một khóa
nhiếp tâm mạnh mẽ khác thường. Con người ở Wisconsin đây
nói là họ đã theo dõi khóa nhiếp tâm, thậm chí trong suốt
ngay giữa các hoạt động mỗi ngày; một phụ nữ trẻ nói
rằng chị thấy mình đã phải thức dậy trong đêm để
toạ thiền và thời khắc trôi qua hồn nhiên.
Với tôi, nữa đầu của khoá
nhiếp tâm cực kỳ khó khăn. Ôi, tâm trạng của tôi lúc ấy.
Dường như khi ấy tôi phải trải qua nữa thời gian trong cơn
tuyệt vọng hoàn toàn, sự chạm mặt tôi chưa từng gặp trước
đây, sự thật là, trong xúc cảm sâu kín nhất, chúnh ta không
làm chủ cái gì, không kiểm soát cái gì. Không ngay cả tâm
và thân của chính chúng ta. Nửa thời gian còn lại trải qua
trong dè bỉu Thiền:" ta chẳng bao giờ quen sợ cái chết,"
Tôi tự nhủ," bình thường, ta chẳng bao giờ có cảm giác
vp6 vọng như thế này, khi đối mặt với thế giới không
vô thường. Ta có thiền để mang ơn vì tất cả đau khổ
chết tiệt này! Ðược, khi cái này qua đi, ta sẽ về với
gia đình, và sống một cuộc sống bình thường, như
người bình thường không hành thiền!"
Bên dưới mọi nuông chìu này,
định lực đang xây dựng, và qua mọi trạng thái tâm tiêu
cực, tôi có thể tra vấn thường xuyên. Ai sợ? Ai
vô vọng? Ai ,Ai,AI đang trải qua mọi chuyện này? Rồi
đêm cuối cùng tới, với mọi sự trợ giúp của các trưởng
lớp, và đột nhiên, hai mươi phút trước buổi độc tham
cuối cùng, Tôi biết! Dường như tôi bước một bước và
toàn bộ vũ trụ lộn ngược ra.
Tôi đã phải, vặn vẹo theo
đúng nghĩa đen, trên ghế đợi độc tham. Tôi không chờ đợi
để được tham vấn, nhưng để diển tả cái kinh ngạc hoàn
toàn của tôi, cái trạng thái sửng sốt vui sướng này. Cái
vẻ kỳ lạ sửng sốt đó đã tràn ngập cảm xúc khi ấy.
Bây giờ tôi hiểu tại sao, và đúng là điểm này cần tập
trung vào. Tôi nhận ra, bây giờ, qua tất cả năm tháng tu tập
luôn luôn tồn tại, ngay cả trong những lúc niềm tin có vẻ
sâu sắc nhất , một loại hoài nghi còn sót lại về khả
năng của tự giải thoát thực sự. Sâu lắng ở
đó luôn có cảm giác " cuộc sống đang nắm lấy anh," và
nếu cuộc sống không…, tốt, cái chết sẽ đón. Thật
sự không có lối ra. Thậm chí, có những khi tôi cố thuyết
phục bằng lý trí là có một lối ra; nhưng không, cái kinh
nghiệm rằng có, lối ra này nhỏ hơn cả cái nạng (crutch)
có thể, và đã, ngã nhào lần nữa và lần nữa. Vui
thú biết bao để nếm trải, để kinh nghiệm thật sự, cái
tự do tuyệt diệu này. Thêm nhiều "không gian" biết mấy trong
vũ trụ rộng lớn này!
Có loạt hồ nghi khác hiện
diện trong suốt những năm tháng vừa qua này. Tôi khởi sự
hành Thiền sau một thời kỳ mất ảo tưởng thực sự về
hoạt động xã hội và chính trị, và tôi hy vọng Thiền là
con đường giúp tôi khuây khoả, ít nhất, con đường nhỏ,
nổi đau khổ tôi nhìn thấy trong thế giới. Nhưng qua những
năm này, tôi thường phiền muộn bởi những ý tưởng rằng
ngồi và nhìn chăm chăm vào bức tường, có vẻ khó là cách
hợp lý để làm bất cứ gì cho bất cứ ai. Cùng lúc đó,
dĩ nhiên, nhận thức lớn hơn là tọa thiền làm người ta
nhạy cảm hơn, có khả năng hơn để chịu đựng được trong
những con đường chật hẹp, có lẽ ít đau đớn hơn. Nhưng
điều này dường như còn quá ít để đối mặt với thế
giới tối tăm đau khổ như thế. Do vậy, hãy tưởng tượng
nổi kinh ngạc của tôi, cuối cùng, khi thoáng hiện quả thật
không có trợ giúp nào vĩ đại mà chúng ta có thể ban tặng,
hơn là đánh thức chân tánh của chúng ta, và hiến dâng chúng
ta cho cái ngộ của chúng sanh. "Chúng sanh vô biên thệ nguyện
độ." Ôi, lời thề! Trước khi ngay cả có ý đồ nói ra lời
thề như thế, chúng sanh hoàn toàn giải thoát rốt ráo và
viên mãn.
Tuy thế, không có tất cả
Phật và Bồ tát, không Tăng đoàn, không có thầy, lão sư,
ông già tác động lắm mồm mép, bằng cách nào chúng tôi
biết được điều này? Cám ơn Thầy vì chính cuộc đời
của tôi!
Cung kính đãnh lể khắp mười
phương.
Don
3 " AN VUI VÔ
HẠN "
Sau khoá nhiếp tâm tháng Mười
(lạp bát), là khoá nhiếp tâm tháng Mười Hai kỷ niệm ngày
Ðức Phật thành đạo), ở khoá nhiếp tâm này, niềm hi vọng
mới được nảy sinh. Hi vọng này, với niềm tin không đổi
đã có trong tôi, cho tôi lòng xác tín rằng sự thành công
sẽ là của tôi. Giữa tháng Mười và tháng Mười Hai, vợ
tôi và tôi dành thời gian của mình để chuẩn bị cho khoá
nhiếp tâm này. Chúng tôi ngồi thiền nhiều ngày mỗi tuần,
dự buổi thọ giới tại Trung tâm thiền Toronto, và nhận pháp
danh" mà chúng tôi rất khó đọc và viết". Khi khoá nhiếp
tâm đến, cả hai chúng tôi đã chuẩn bị kỹ càng.
Hai ngày đầu diễn ra không
có quá nhiều chuyện bất ngờ. Nề nếp bình thường diễn
ra. Vào ngày thứ ba, lão sư thăm dò bằng vài câu hỏi thử
nghiệm, và tôi nhận biết được tính tự phát của các câu
đáp và sự hài lòng rõ ràng của thầy. Tôi hết sức lo,"
Ðây là khóa nhiếp tâm của tôi!" Quay lại thiền đường,
tôi lao mình hoàn toàn vào công án.
Vào ngày kế tiếp sống trong
cơn giận dữ không nguôi. Bị thôi dục bằng gậy, tiếng
la của các trưởng lớp, sự thúc dục của lão sư, tôi cố
dấn thân sâu hơn vào công án, nhưng các niệm tưởng luôn
luôn phản kháng lại. Cố gắng trong thời gian tu tập và cả
trong giờ ăn để trụ tâm trong công án, tâm tôi tản mạn.
Niềm hi vọng đã được nuôi
dưỡng qua hai tháng giữa hai kỳ nhiếp tâm trôi tuộc đi.
Những nghi ngờ cũ len vào: Tôi không bao giờ có thể làm được
cái này; những người đã vượt qua công án đầu tiên ở
trên bục, họ đều trẻ và có thể làm được. Hãy nhìn
vào ông này,… ông ta đã tu tập chăm chỉ biết mấy, và
ông ta không vượt qua công án của mình, ở đó có cơ hội
nào cho tôi? Tình trạng tốt tâm bị giảm sút. Nó là vô vọng,
và với điều đó, thất vọng lớn lên.
Trong thời gian ngắn ngủi,
tôi rời khỏi công án và tự biện: Cái lý do tôi cảm thấy
vô vọng như thế là vì khao khát KHÔNG quá nhiều. Nếu không
có đòi hỏi to lớn như thế đối với KHÔNG, sẽ không có
sự thối chí hay thất vọng này. Thực ra, khi ấy, thất vọng
là đồng minh của tôi, cách thức và sự biểu lộ đòi hỏi
của tôi. Sự thất vọng này thật sự là tiếng nói của
chân tánh tôi! Mọi điều này diễn ra trong tâm như tia chớp.
Nhưng trong lúc thấy được điều này, tim tôi trải ra, và
ham muốn chất ngất, KHÔNG chiếm hữu tôi. Tôi khao khát KHÔNG
nhiều đến nổi thân không đủ sức chứa. Và tôi mượn,
đúng như thế, cái thân của tất cả những người tham gia
nhiếp tâm, của trưởng lớp, của lão sư. Tôi khao khát nổi
khao khát của họ. Và họ khát khao cái của tôi. Tôi trở
thành khoá nhiếp tâm. Khi ai đó thét lên, họ thét lên nổi
đau của tôi. Khi người khác chạy xô tới độc tham, họ
tuyên bố sự cuồng nhiệt của tôi. Khi người trưởng lớp
sử dụng cây gậy, và thở hào hển vì cố sức, họ thở
KHÔNG cho tôi. Các nổ lực của lão sư là nổ lực của tôi.
Gánh trách nhiệm khủng khiếp trở thành của tôi. Tôi không
thể để khoá nhiếp tâm thất bại. Lực của toàn khoá nhiếp
tâm dường như đang tập trung ở đan điền của tôi. Vai,
ngực, tay, bụng đều thư giản nhưng ở đó lực rất tập
trung mạnh mẽ đang vận hành.
Cuộc đấu tranh diễn ra trên
phạm vi khổng lồ. Các thời kỳ vô niệm tới, nhưng sự
bồn chồn qúa nhiều để đón chúng. Ðúng như người ta đang
thử phá xuyên qua một bức tường.Vào ngày thứ năm, tôi
dậy lúc hai giờ sáng và ngồi tới bốn giờ không động
đậy, hoàn toàn chú tâm vào KHÔNG , cái đau ở hai chân gia
tăng, và tuy vậy, được chuyển dễ dàng vào tra vấn KHÔNG.
Tôi đổ xô tới độc tham trở về với hoang mang. Lão sư
đã tham vấn tôi, giúp đở tôi, nhưng khi trở về, hồ nghi
về thầy nổi lên." Ông ta sắp công nhận một cách quá dể
dàng, ông ta không ngộ sâu và chẳng muốn bất kỳ ai khác
được vậy." Trưởng lớp đánh đập ta, làm tổn thương,"Toàn
bộ công việc này củaThiền là trò đánh lừa! Lão sư Ðại
vân đã thừa nhận mọi việc ông làm là bán nước lấy từ
sông."Chả có gì trong đó! "Tôi vật vã với cảm xúc đắm
chìm của người cô đơn, bị từ bo hoàn toàn
Lời bình của lão sư sáng
hôm đó làm sáng tỏ các hoài nghi của tôi hoàn toàn. Lão
sư nói về trí thức ( intellect), về gã đầy tớ chưa chi
đã tự xưng là thầy ra sao. Tôi bắt đầu khóc. Thầy dường
như đang nói cho riêng mình tôi, đang thấy, đang thấy, đang
thấy sâu trong chiều sâu của tôi.Tôi không nhớ điều thầy
nói, nhưng rất đau đớn. Chắc chắn là kinh nghiệm này đã
dọn đường cho cái điều sắp đến.
Tại buổi độc tham tối qua,
lão sư sắp sửa lập lại cho tôi lời cảnh báo thường lệ
về sự quan trọng của ngày vừa qua và đòi hỏi nổ lực
to lớn. Tôi ngắt lời thầy và nói sôi nổi," Vâng, tôi biết,
tôi hứa với thầy tôi sẽ, tôi sẽ thực hiện!" Và khi rời
phòng độc tham, tôi quay lại nói," Tôi sẽ." Tôi đã quyết
tâm với tôi ngồi trọn đêm và đắm mình một cách hồn
nhiên vào KHÔNG.
Sau khi chuông kết thúc rung
và lể bế mạc tối ấy cử hành, tôi trở lại toạ thiền
ở thiền đường, nhưng bắt gặp sự chú tâm của tôi bị
phân tán. Tôi ngồi khoảng hai mươi phút và động đậy liên
tục. Vào giữa đêm tôi cảm thấy có lẽ tốt nhất là đi
ngủ. Nhưng nhớ lại lời thề với lão sư và chính mình,
tôi không thể làm vậy. Mặc dù, dường như ngồi như thế
này không ích gì và không hiệu quả, tôi vẫn tiếp tục đấu
tranh. Cuối cùng, lúc 2 giờ 30 phút sáng, tôi bỏ cuộc, vô
cùng xấu hổ, đi ngủ.
Kỳ lạ là, sáng hôm sau, khi
chuông báo thức vang lên, tôi chui ra khỏi túi ngủ với cảm
giác chắc chắn mát mẽ lạ thường. Ngồi trên chiếu thiền,
tôi thấy cái chổ ngồi đã được kiếm tìm một cách sốt
sắng tối qua trở nên thanh thản vô cùng. Cuối cùng, nắm
được KHÔNG. Tôi quyết định không đi tới buổi độc tham,
thay vào đó, tiếp tục công việc toạ thiền.
Một trưởng lớp vổ vào vai
tôi thì thào thầm" Hãy đi độc tham." Tôi miễn cưỡng đi
với cảm giác phiền muộn vì bị cản trở buổi ngồi tốt
như thế. Nhưng, ngồi trước lão sư, tôi bắt gặp những
câu trả lời hiện ra mà không sẳn có trước đó. Buổi độc
tham thành công to lớn và gieo vào tôi quyết tâm làm việc
chăm chỉ hơn. Tôi đã bám chặt vào tu tập và đang hành trì
một cách tinh tấn. Nhưng ở buổi độc tham vừa qua, lão sư,
khi tham vấn, chỉ cho thấy là các câu trả lời của tôi còn
qúa duy lý, và không có tiến bộ về những gì đã được
truyền vào buổi sáng. Quay về thiền đường, tôi hoàn toàn
mất can đảm, và cảm thấy tôi phải đầu hàng. Tôi hết
năng lượng, và dường như, không còn ý chí. Người đàn
ông trẻ bên phải tôi, tuy nhiên, đang ngồi thẳng lưng và
rõ ràng đang tu tập cực kỳ chuyên tâm. Tôi nghĩ," Anh ta không
bỏ cuộc, vậy tại sao ta từ bỏ?" và bằng tất cả cố
gắng của ý chí, tôi tập trung tìm kiếm KHÔNG ở đan điền;
cột sống tự nó làm thẳng và giử thẳng đến cuối buổi
nhiếp tâm.
Thức vào lúc hai giờ sáng
ngày kế tiếp, sự chú ý của tôi quay vào trạng thái nội
tâm. Cái quay hướng nội này nói lên có cái ngăn trở, cái
căng thẳng, phát sinh từ thiếu lòng tin, và một quyết tâm
được thực hiện để có niềm tin hơn ở những khoá nhiếp
tâm tới. Rồi nó được quyết định để diễn tả niềm
tin này ngay bằng cách cho phép ngăn trở được mở ra. Sự
mở này được kèm theo một cảm giác suy sụp và sợ hải.
Một lần lão sư khuyến khích
người tham dự nhiếp tâm bằng cách nói là họ không thể
rơi khỏi vũ trụ, nhớ lại điều đó tạo cho tôi can đảm
cần thiết cho sự khai phóng tiếp tục. Cảm giác sụp đổ
tiếp tục và được nhấn mạnh bởi tìm kiếm một nổi sợ
xa xưa. Một nhận thức đến với sự giải phóng, đó là
sự tự do chịu đựng, chứ không phải thoát đau khổ và
nội kiến này tăng tốc tiến trình ( từ " tiến trình" được
dùng ở đây, vì mong muốn một cái gì tốt hơn, dù từ này
tạo ra hình bóng cái đang xãy ra ; những gì đang xãy ra đều
là một " sự nhận biết". Cảm giác đang hấp hối, nảy sinh
với sự chết.)
Tôi tự nhủ," Tôi đang hấp
hối và nếu đúng như vậy thì để tôi quan sát cái gì sẽ
xãy ra." Nỗi sợ và bối rối gia tăng cho đến khi nhận ra
là tim tôi đang đập, và nhận thức loé lên rằng nếu tim
đang đập thì tiến trình không phải là của sự hấp hối.
Rồi tôi tự nhận ra mình trong một không gian bao la trống
trải, như được thắp sáng bởi ánh trăng, với cảm giác
đúng như đang ở nhà. Tôi nhận ra hoàn toàn chắc chắn tuy
không quan tâm lắm về ý niệm, tôi không thể nào chết.
Tuy nhiên một nỗi lo sợ mới
phát sinh, đó là nếu tôi không thể chết thì tôi chịu đựng
một hình thức mất ngũ vũ trụ. Cùng với nó là mối bận
tâm."Thế thì tất cả đều tồn tại, chỉ có vậy phải
không?"và câu trả lời đến," Không, có đi, nói, ăn ngũ."
Và nhìn thấy câu" Khi đói tôi ăn và khi mệt tôi ngũ" của
Triệu Châu, có một thực tế mới. ( Người bình thường
nhìn vào việc ngủ nghỉ và ăn uống của đời mình và hỏi
," Tất cả chỉ có thế thôi ư?" ," Không, có một 'cuộc sống
cao hơn' , một cuộc sống bên ngoài thế giới này." Tôi hỏi"
Tất cả chỉ có thế thôi ư?", và câu trả lời " Không, có
một cuộc sống của sự tồn tại bình thường.") Nổi bận
tâm rời khỏi tôi, và tôi còn lại đơn độc trong không gian
trống rỗng bao la.
Không có cách nào mà trong đó
điều kiện có thể được mô tả khác hơn là"tự nhiên".
Nó không phải một " kinh nghiệm". Không có gì bên ngoài "tạo
ra" kinh nghiệm, cũng không có gì bên trong, chỉ là cái toàn
thể viên dung. Không có cảm giác cần thiết kiểm soát điều
gì, cũng không có cảm giác theo cách nào đó bị mất tự
chủ. Giải thoát hoàn toàn nhưng tự nhiên.
Tiến trình chậm chạp đi dần
đến kết thúc trông giống như sắp đi ngũ, nhưng trở thành
sắp thức dậy. Ðồng hồ gỏ bốn giờ sáng. Toàn bộ tiến
trình kéo dài hai giờ.
Vợ tôi thức dậy lúc 4:30
sáng, tôi mô tả chi tiết với cô ấy những gì đã xãy ra.
Một" thực tại" của trần gian đang sẳn sàng thay thế thực
tại tiến trình, những hoài nghi đang nãy sinh về thực tế,
tôi có đang mơ hay không. Tôi và bạn tôi bàn cải rất lâu
về vấn đề chúng tôi phải làm gì.
Tôi cảm thấy mối quan tâm
gia tăng về những điều đã xãy ra đơn giản chỉ là một
giấc mơ hay ma cảnh. Không có cảm giác về nội kiến hay
hiểu biết thêm về công án KHÔNG. Một cảm giác lo sợ phải
phô bày kinh nghiệm khác với lão sư, người chắc chắn đã
trải qua dồn dập hàng ngàn kinh nghiệm như vậy. Có một
sự cám dỗ dai dẳng đang khuyên lơn "Hãy bỏ nó đi, về nhà
thôi." Tuy nhiên câu hỏi còn lại là:" Nó là gì? " và nằm
sẳn trong đan điền của tôi là trực giác. Vợ tôi thúc tôi
ở lại để gặp lão sư.
Lúc bảy giờ sáng. Tôi đến
gõ cửa phòng ông. Ông hỏi lớn,"Ai đó?" tôi đáp và nói
tên mình. Tôi cảm thấy ơn ớn. Ô?g mở cửa, sự tiếp đón
từ bi làm mất đi những luống cuống của tôi.
Cảm thấy hơi ngốc nghếch,
tôi ngồi xuống, và lắp bắp kể lại rằng tôi có trải
qua một loại kinh nghiệm và cần được lão sư chứng nhận.
Sau khi tôi đưa ra nét chính, ông chậm chạp thăm dò và hỏi
kỷ càng cho đến khi câu chuyện trên được thuật lại đầy
đủ. Quả thật, lão sư tỏ ra rất quan tâm và ông từ chối
ý kiến tôi khi tôi bảo có lẽ đó là ma cảnh.
Ông hỏi tôi một số câu hỏi
về công án KHÔNG. Tôi suy nghĩ về câu hỏi đầu tiên mà
đưa ra và cảm thấy nó vô nghĩa. Ông thử lần nữa và hỏi
câu khác. Một lần nữa câu trả lời duy nhất tôi đưa ra
dựa vào lý trí. Ông thử lần thứ ba và tôi thấy sự bồn
chồn khuấy động nơi tôi. Tôi đứng dậy và lùi ra xa. Câu
hỏi bổng nhiên thọc sâu và một sự bùng nổ, một ngọn
núi lửa tuông trào, lao vút lên từ đan điền. Tôi la," Ðây
là KHÔNG! KHÔNG! KHÔNG!" Tôi thét lên và cười to" KHÔNG thân
yêu! Trời ơi, đây là KHÔNG! Ðây là KHÔNG! KHÔNG! KHÔNG!"
Cơn kịch phát cuối cùng tự xãy ra, và thầy tôi, nhìn tôi
với vẻ từ bi, nói," Ðúng, anh đã nhìn thấy KHÔNG, nhưng
bây giờ anh phải giữ nó. Anh phải mở rộng và làm sâu những
gì anh vừa có chỉ là cái bóng mờ." Tiếp theo, lão sư chỉ
ra những gì tôi cần luyện trong tương lai.
CHÚ THÍCH
Tám hay chín giờ sau khi rời
lão sư, tôi về đến nhà. Ðêm đó trôi qua không ngủ được.
An bình, hoan lạc vô hạn. Tôi kiệt sức nhưng không thể ngủ.
Niềm vui của tôi quá lớn.
Suốt những ngày còn lại trong
tuần và nhiều ngày sau đó tôi có dai dẳng cảm giác không
bị ngăn trở, như đi trên chính đôi chân của mình, thấy
bằng chính mắt của mình. Ngoại trừ thời gian biết ơn sâu
sắc hướng về lão sư và các bạn đồng khoá, và vợ tôi.
Tất cả đều tự nhiên dễ dàng. Niềm vui rời bỏ, yên bình
rời bỏ, chỉ để lại cảm giác cởi mở tự nhiên.
Cái nổ thực sự đã xãy ra,
nhưng mãnh vụn còn lại. Thói quen cũ của tâm tính, phản
ứng--chúng vẫn còn đó. Nhưng chúng mất vòng kềm tỏa. Những
kẻ thù cũ trổi dậy, vỡ vụn và trở thành bụi, và tên
bạo chúa đó, lão vua già yếu đuối bị đốn gục, lão không
cần được cho ăn nữa. Giống như một mụn bỏng được
chọc ra--vẫn hơi đau nhưng qúa dễ chịu.
Việc ngồi thiền của tôi
cũng thay đổi--nó trở nên sâu và trơn tru hơn, nó không còn
là điều gì tách biệt.
Có lẽ những giải thích trước
đây sẽ có giá trị hơn nếu nó bao gồm những chi tiết thuộc
về cuộc sống nhân tôi. Người ta thường tự hỏi rằng
có thể hoà nhập việc hành thiền vào cuộc sống trần thế
hay không. Bản thân tôi không xem là một trường hợp ngoại
lệ. Thật đáng khích lệ nếu một người có cuộc sống
gia đình bận rộn, có việc làm toàn thời gian mà vẫn có
thể hành thiền một cách tinh tấn
Hôn nhân của tôi là một thành
công lớn và nó đã tạo ra ba đứa con ngoan.
Tôi làm ở phòng Quản lý Nhân
Sự của một công ty lớn, và có thể nói tôi thành công đều
đều , có lẽ sắp được thăng chức Phó Chủ Tịch trong
một thời gian không xa nữa.
Tôi bắt đầu hành thiền thực
sự vào năm 1966 khi tôi dự một buổi toạ thiền suốt ngày
tại Canada do lão sư Bạch vân hướng dẫn. Trước đó, đời
sống tinh thần của tôi rất chao đảo, đi từ lúng túng này
sang lúng túng khác, không lối thoát. Tình trạng kéo dài đến
năm 1964 , kiệt sức và u buồn, tôi bắt đầu tự ngồi thiền.
Chỉ sau khi đến với lão sư
Bạch vân, tôi mới tìm hiểu sâu hơn về thiền. Thất không
thể hình dung được niềm vui sướng biết bao của tôi không
khi nghe tin có một khóa nhiếp tâm ở Rochester. Nơi đó có
một thiền sư người Mỹ, Phillip Kapleau, hướng dẫn. Nhưng
niềm vui đó cũng mang lại một cảm giác lấn áp trong tôi,
nó đánh thức nổi sợ chết, ám ảnh tôi gần như suốt hai
năm trời. Tôi bị bão hoà bởi lo âu và xơ cứng tâm lý.
Tôi sợ bị đơn độc. Có một lần tôi tin chắc rằng mình
sắp chết vì vậy tôi ngừng xe và bước ra ngoài với mong
muốn có người chứng kiến cái chết của mình. Khi bước
ra khỏi xe, cú sốc của không khí lạnh làm tôi hoàn hồn
trở lại.
Bác sĩ cho tôi dùng thuốc an
thần. Nhưng tôi biết nếu tuân theo lời khuyên của bác sĩ
thì có khả năng phải chấm dứt tọa thiền. Dù sao, trong
tôi vẫn có niềm tin rằng toạ thiền đúng lúc, tự nó trở
thành cách chửa trị. Lúc này, thầy tôi, lão sư Kapleau, sách
tấn tôi liên tục và dạy rõ rằng, thật ra, có cái sợ như
vậy là một dịp may dẫn ta đi sâu hơn vào con đường tu
luyện, quả là nó biến thành động lực. Sức mạnh quyền
lực của lo âu phát sinh năng lượng lớn, và ngồi thiền
trong thời gian này sẽ sâu hơn.
Công việc của tôi cũng có
ích, mặc dù có một sự cám dổ liên tục bằng cách nào
đó nên rút ra khỏi môi trường làm việc mà tôi đang trông
cậy vào; chính những vấn đề tầm thường, vụn vặt, những
tranh chấp và bất đồng lại là những thúc dục tôi tiếp
bước trên con đường tu tập. Chịu đựng bẽ bàng đau khổ,
cố gắng đưa vào những ý tưởng mới là những chất mài
mòn cái ngã một cách mạnh mẽ. Dù cuộc đấu tranh đang dồn
nén, trong sâu kín sự điều hòa giữa tu tập và cuộc sống
đời thường có phần phát triển. Cùng lúc đó, tôi có được
một sinh khí và năng lượng khiến tôi thực hiện trót lọt
nhiều chương trình lớn, mà có lẽ sẽ không làm được nếu
không có nguồn lực tích luỷ được từ việc tu thiền.
Cho đến lúc này, vợ tôi và
tôi tu thiền được tám năm, mỗi sáng từ năm giờ đến
bảy giờ hai mươi và mỗi tối một giờ. Mỗi tháng một
lần chúng tôi có một hay hai ngày toạ thiền suốt 24 giờ
liền, thường là vào những ngày cuối tuần. Chúng tôi cũng
thấy rất có ích khi đọc những loại sách gây cảm hứng
tu tập, vì thế, trong thực tế chúng tôi dành nhiều thời
gian cho Phật giáo.
Trong một mùa hè nóng nực,
tôi bị mất ngủ và kèm theo căng thẳng hành hạ, sự quấy
rầy kéo dài suốt tám tháng. Thầy tôi tiếp tục thúc tôi
tọa thiền. "Hãy làm việc cho đến cùng kiệt nếu anh thấy
phải như thế, nhưng đừng từ bỏ việc ngồi thiền."
Chẳng bao lâu sau, chúng tôi
từ bỏ việc ăn thịt. Ðiều này tạo ra một khó khăn mới
cho tôi ở cơ quan, nó làm cho tôi có vẻ khó khăn, và hơi
dở hơi, nhưng rồi bạn bè tôi chấp nhận" sự kỳ quặc"
này. Tuy nhiên, điều tệ hơn là không uống rượu. Trong giới
kinh doanh, hể có dịp là rượu được khui và chuyền tay nhau.
Ðôi khi tôi chỉ dùng bia gừng nguyên chất, và khi một ai
đó nài ép tôi uống, tôi bảo tôi từng là một bợm nhậu
nhưng đã được cải tạo. Thường thường tôi tránh các
cuộc ăn nhậu.
Mặc dù có những khó khăn
như thế, cái cảm giác về một người có hoàn cảnh công
việc đã phát triển, và chính thách thức mà cuộc sống bị
đặt ra bởi thiền đã tạo nên, đã là công cụ cung cấp
năng lượng cần thiết để vượt qua những vấn đề nảy
sinh từ những thách thức đó.
Cảm giác chung trong tôi bây
giờ là trở thành một thành viên có đặc quyền về những
công trình sáng tạo vĩ đại. "Tôi" thường là một người
tham gia miễn cưỡng trong công việc vĩ đại này. Cái để
đánh giá sự miễn cưỡng "của tôi" là biết ơn tôi. Bây
giờ đây, tôi đanh hướng về lão sư, biết ơn thầy vì thầy
đã đặt ra những luật lệ nghiêm khắc và tỏ lòng kính
trọng với ai tuân theo kỹ luật này. Bài này được viết
ra để diễn tả lòng biết ơn này, nhưng với cảm giác về
sự vụng về và chán ngắt của ngôn từ. Nói khác đi, một
cái chắp tay thanh tịnh là một niềm khuây khoả.
Với lòng biết ơn sâu sắc
Roger