III NHỮNG
ÐỐI THOẠI
1 CÓ PHẢI
VÌ XU NỊNH MÀ CHÚNG TA CÚNG DƯỜNG CHƯ PHẬT?
NGƯỜI HỎI: Thầy nhiều lần
nói Thiền là tôn giáo, dù là tôn giáo không giáo điều và
tín điều. Nhưng thầy không hề nói một lời nào về cầu
nguyện. Tôn giáo không có cầu nguyện như cá thiếu nước.
LẢO SƯ: Lý do qúi vị không
nghe nói gì về nó, và ít ai hỏi về nó. Dù vậy qúi vị
đúng. Cầu nguyện là huyết mạch của tôn giáo. Vì cầu nguyện
đòi hỏi sự tịnh tâm, có thể nói là tất cả tôn giáo
có trong đó có một phần của thiền.
Có ba loại cầu nguyện: thỉnh
nguyện ( petitionary) trong đó quí vị xin điều gì; cầu phù
hộ ( prayer of assisstance), quí vị xin giúp đở để có thể
tự làm một điều gì đó thành tựu, chơn nguyện ( absolute
prayer), ở đây quí vị không cầu xin gì mà chỉ mong trở
thành một thể với vị Thần, Phật hay Bồ tát.
Sự khác biệt giữa loại một
và loại hai được minh hoạ bằng một câu chuyện cổ về
ba chàng lãng tử đang tự hỏi làm cách nào họ có được
một con gà tây cho bửa tiệc Giáng sinh. Người thứ nhất
nói "Tại sao ta không cầu Chúa gởi cho ta một con?" người
thứ hai do dự nói," Khi tôi cầu Chúa điều gì, tôi chưa bao
giờ được toại nguyện." Người thứ ba bảo," Phiền một
nỗi là các anh không biết cách cầu nguyện. Chúa luôn luôn
ban cho tôi cái gì tôi cầu xin." Hai người kia ngạc nhiên quay
sang."Thật sao? Hãy bày cho chúng tôi cách cầu nguyện của
anh đi." "À, đừng xin Chúa ban cho ta cái gì cả mà hãy cầu
xin người khiến ta theo đuổi nó. Ðó là cách tôi luôn được
nó."
Người mới thiền cầu xin
Phật ban cho sức mạnh tự loại tham, sân, si để họ có thể
kiên trì theo đuổi tu luyện tâm linh. Tuy nhiên người ta không
thể cầu Phật ban cho sự giác ngộ. Người ta cũng không cầu
để được cứu thoát khỏi nghiệp quả do những hành động
điên rồ của họ, dù qua nguyện cầu người ta có thể đạt
được quyết tâm trong tọa thiền và do đó thay đổi kiểu
nghiệp của đời mình. Ðảnh lễ chư Phật, Bồ tát, và cúng
dường hương hoa lên các ngài là một kiểu "cầu nguyện"
trong thiền.
NGƯỜI HỎI: Xin thầy thứ
lỗi cho câu hỏi vô phép này, cúng dường hương hoa cho chư
Phật, không phải xu nịnh sao?
LÃO SƯ: Những tụng niệm như
vậy diễn tả sự biết ơn đối với Phật, cùng lúc nó biểu
lộ sự tôn kính và tán dương. Tụng niệm giúp ta tạo ra
mối nghiệp duyên với Phật--cọng nghiệp--làm gia tăng niềm
tin vào chân lý và tinh tấn thực hành những lời dạy của
Phật.
NGƯỜI HỎI THỨ HAI: Thầy
định sẽ nói thêm gì về chơn nguyện?
LÃO SƯ: Ðúng, sự cầu nguyện
chơn chánh không có nhân tố thỉnh cầu vì theo ý nghĩa rốt
ráo không có năng-cầu không có sở-cầu. Nhưng lúc thất bại
hay tuyệt vọng, ngồi trước tượng Phật phát ra từ bi và
tuệ giác có thể khai mở Phật lực cho qúi vị, tiếp xúc
với Phật tánh quí vị làm cho phấn khích và dũng mãnh lên.
NGƯỜI HỎI THỨ HAI: Thầy
nói thỉnh nguyện không được thực hành trong thiền. Tại
sao không?
LÃO SƯ: Vì kiểu cầu nguyện
này dể thoái hóa thành sự ngã giá ích kỷ đối với Phật--"
Ban cho con ân huệ này, con hứa sẽ trở thành người tốt."
Cầu nguyện như vậy làm làm tăng cảm giác cái tôi thay vì
làm giảm nó đi và khuyến khích sự lệ thuộc vào một quyền
lực bên ngoài hơn nổ lực của chính mình. Giống như chạy
đến cha mẹ khi quí vị cầu tiền thay vì tự kiếm tiền.
Vẫn còn nhớ như in, cach đây hai mươi lăm năm, có lần tôi
thức suốt đêm trong tu viện, quỳ lạy trước tượng Phật
và cầu nguyện một cách tuyệt vọng," Bạch Ðức Thế Tôn,
hãy ban cho con sự giác ngộ và con sẽ khiêm cung vui lòng cúi
lạy ngài…" Sáng hôm sau tôi vẫn chưa ngộ, đức tin vào
Ðức Phật của tôi bị vỡ vụn. Trong chuyện này, kẻ được
lợi là cái ngã của tôi, nó ngấu nghiến thoả thuê những
thất vọng, u uất, buồn nản của tôi đối với lão sư vì
thầy đã thúc đẩy tôi thức suốt đêm (dù không cầu nguyện).
Và nhiều năm trôi qua trước khi niềm tin đó sống lại.
NGƯỜI HỎI THỨ BA: Nhưng không
phải lúc nào chúng ta cũng mạnh mẽ, phải không? Ta không
cần người khác giúp sao?
LÃO SƯ: Có, chúng ta cần. Ví
dụ, một người gãy chân cần bác sĩ, nhưng nhu cầu thường
xuyên là sự giúp đỡ của gia đình và cặp nạng. Nhưng nếu
anh ta tiếp tục dùng cặp nạng quá thời gian cần thiết,
anh ta sẽ ngày càng yếu đi thay vì mạnh lên. Vấn đề là
ngoài những lúc cần thiết, sự giúp đở không được dùng
như sự thay thế cho nổ lực cá nhân.
NGƯỜI HỎI THỨ TƯ: Tôi đọc
đâu đó "lời nguyện" này của một người theo thuyết bất
khả tri luận :" Lạy Chúa--nếu có Chúa--xin Chúa cứu vớt
linh hồn con--nếu con có linh hồn." Thiền nói gì về Chúa?
[ Lão sư lặng yên]
2 TỪ BI, NHƯ
TÌNH YÊU, KHÔNG LÀ NHỮNG GÌ NGƯỜI TA THƯỜNG GÁN CHO NÓ.
NGƯỜI HỎI: Từ bi hợp với
thiền chổ nào?
LÃO SƯ: Nơi nào trong thiền
nó không hợp?
NGƯỜI HỎI: Thế tại sao từ
bi không được đề cập đến trong khóa hội thảo?
LÃO SƯ: Từ bi, như tình yêu,
không phải là những thứ người ta thường gán cho nó.
NGƯỜI HỎI: Tại sao không?
Tôi không hiểu.
LÃO SƯ: Suy nghĩ về giai thoại
này: Thuở nọ, quan Tri phủ của một vùng bên Trung hoa trải
qua nhiều ngày trên núi với một thiền sư. Lúc tiễn biệt
vị quan xuống núi, sư hỏi," Khi trở lại nhiệm sở, ông
sẽ trị dân như thế nào?"
" Bằng từ bi và trí tuệ,"
Viên Tri phủ đáp.
" Như vậy," sư phê bình," cuối
cùng chính người dân sẽ phải chịu khổ."
NGƯỜI HỎI: Ðiều đó có
nghĩa gì?
LÃO SƯ: Một người rộng lượng
thật sự không khoe khoan về sự rộng lượng của mình người
chân thật không nói về sự liêm khiết của chính mình; những
phẩm chất đó được chôn quá sâu nên trở thành bản năng
thứ hai.
Một người, ví dụ, liên tục
nói với vợ," Anh yêu em, hãy tin anh." Chứng tỏ sự bất lực
với tình yêu của anh ta. Sự lập đi lập lại câu," anh yêu
em" đối với anh ta trở thành một câu thần chú, nhờ vào
thần lực của nó tạo chiếc cầu nối sự chia cách giữa
anh ta và vợ. Tình yêu thật sự là tình yêu không tuyên bố.
Yêu im lặng, tự phát giống như cây hướng về mặt trời.
Người Mỹ chúng ta ca ngợi
tình yêu tới mức làm nó trở thành từ thứ mười trong bức
điện tín hay từ cuối cùng trong một bức thư. Có phải vì
là dân tộc chúng ta chùn bước trước trách nhiệm tình yêu
không? Ở Ấn độ lý tưởng bất bạo động được đề
cao. Có thể là người Ấn ca tụng bất bạo động vì họ
muốn kềm chế cái bạo động mà họ nhận thấy trong chính
họ không? Người Nhật đề cao sự lễ độ tới mức trở
thành ý thức dân tộc. Không có sự quan tâm kỷ luật đến
người khác, tạo cho họ động cơ gần gũi bào mòn lẫn nhau,
trật tự xã hội mà họ chiếm lỉnh sẽ trở nên chao đảo.
NGƯỜI HỎI: Trở lại câu
chuyện. Tôi vẫn không hiểu tại sao thiền sư hỏi quan Tri
phủ như vậy?
LÃO SƯ: Nói qúa nhiều sẽ
phá hủy giá trị câu chuyện như một công án bị lấy đi
cơ hội nghiền ngẫm về nó và đến với sự nhận thức
của chính mình về ý nghĩa sâu hơn của nó.
NGƯỜI HỎI: Ðó là công án
sao?
LÃO SƯ: Ðúng, bây giờ anh
có thể hiểu vì sao anh đã hỏi độc đáo như vậy không?
[Không trả lời]
3 QUÁN THẾ
ÂM, VỊ TỪ BI BỒ TÁT, CÓ THẬT SỰ HIỆN HỮU KHÔNG?
NGƯỜI HỎI: Năm rồi tôi có
dự một khoá giáo lý căn bản về Phật giáo. Trong kinh Pháp
hoa, Phẩm Phổ Môn có nói nếu trên đời này có ai gặp nạn
thuỷ, hỏa, đạo tặc mà niệm danh hiệu của Quán thế âm
thời sẽ được cứu khổ. Thành thật mà nói, tôi thấy không
thể chấp nhận được. Nhưng nếu thầy nói có vị Bồ tát
này, mau chỉ cho tôi nơi mà tôi có thể đến để tìm gặp
ngài.
LÃO SƯ: Ðể có thể trực
tiếp gặp được ngài. Ðiều quan trọng quí vị cần làm
là thể hiện hành động vô ngã. Quán thế âm bồ tát là
hiện thân của chính lòng từ bi của quí vị. Câu nói này
chỉ diễn tả một phần nào sự thật. Hơn nữa, Qúan thế
âm là một thực thể sống, ngài không bao giờ đáp lại những
tiếng gào thét hăng say kêu cứu của người tin ngài. Vì vậy
Quán thế âm bồ tát không phải là con người của huyền
thoại mà là một kiểu mẩu từ bi tối thượng được hiểu
bởi loài người. Ta nên nói về ngài như Voltaire nói về Chúa,
là nếu ngài không tồn tại thì người có lẽ được phát
minh ra.
NGƯỜI HỎI: Quán thế âm sống
tự thời xưa, vậy sao thầy nói là thực tế sống, chắc
thầy đang nói một cách biểu trưng, phải không?
LÃO SƯ: Quán thế âm là một
trong những cao đồ của Ðức Phật. Vì ngài có bản chất
từ bi mạnh mẽ và nhạy cảm sâu sắc với nổi khổ đau.
Phật đã ban cho ngài với cái tên "tầm thinh cứu khổ ." Ngài
tự hiến mình để giúp người trong cảnh hiểm nghèo và bởi
trí tuệ siêu việt và phép thần thông của ngài có thể thực
hiện như vậy bằng những cách bí mật khó thấy. Trong khoa
chân dung Phật giáo, tượng của ngài được vẽ nghìn mắt
nghìn tay, biểu lộ hành động vô giới hạn và không bị
ngăn ngại của ngài.
NGƯỜI HỎI THỨ HAI: Nhưng
mọi chúng sinh hữu hình đều phải chết--thế tại sao thầy
nói về đức Quán thế âm như thể ngài đang còn sống vậy?
LÃO SƯ: Ðịnh luật bảo toàn
năng lượng nói rằng không có năng lượng nào bị biến mất,
vậy sao qúi vị nói rằng ngài đã chết?
Trước khi tôi vào tu viện,
một bạn thiền nói với tôi," Một khi anh đi theo Phật giáo
với nhiệt tâm thành thật, Bồ tát sẽ xuất hiện ở mọi
nơi để giúp anh." Ðó chính xác là những gì xảy ra, và tôi
biết ơn những vị Bồ tát không lời nào tả được. Tôi
gặp ngài ở Nhật, ở Ấn, ở Miến điện và ngay cả trong
đất nước chúng ta. Khi không nhìn thấy ngài đâu cả tôi
biết sự thành thật của tôi bị suy yếu đi, nhiệt tâm của
tôi chùn lại.
Hãy nhớ, lực cảm ứng của
Quán thế âm tỉ lệ trực tiếp với sự cởi mở tấm lòng
của quí vị đối với ngài--đó là sự khiêm cung và vô ngã.
Nếu quí vị niệm danh hiệu Quán thế âm không với mục đích
vị kỷ, tin vào tuệ giác và từ bi của tỉ lệ ngài, thời
chắc chắn có sự cảm ứng mầu nhiệm xãy ra. Vì về cơ
bản, tâm từ bi của ngài và của quí vị giống nhau. Thực
tế là khi quí vị niệm danh hiệu của ngài cũng chính là
lúc ngài đang hướng về quí vị trong tiến trình cầu nguyện--hồi
tưởng mãnh liệt.
NGƯỜI HỎI THỨ HAI: Tôi để
ý thấy là trong gian thờ Quán thế âm bồ tát có ba cái gối
xếp trước tượng. Tại sao người ta ngồi đó thay vì ở
thiền đường?
LÃO SƯ: Vì trong tâm người
bình thường, nói đến từ bi và thông cảm thường được
liên tưởng ngay đến Quán thế âm hơn là với Ðức Phật.
Người trong lúc hiểm nghèo cảm thấy gần gủi với Quán
thế âm. Ở các quốc gia Phật giáo, người ta cho rằng vị
Bồ tát này là một người nữ, vì từ bi dịu dàng được
xem như thuộc tính thường có ở người đàn bà hơn là đàn
ông. Như một nhân vật được sùng mộ, Quan thế âm còn sáng
chói hơn cả Ðức Phật.
NGƯỜI HỎI: Giả sử là ngày
trước quân đội Ðồng minh bao vây Hitler, ông ta niệm danh
hiệu Quán thế âm cầu ngài giúp ông ta thoát khỏi số phận
đen tối đang xảy đến với ông, liệu ngài có giúp cho ông
ta mặc dù ông ta đã gây đau khổ cho hàng triệu con người
không? Và nếu ngài giải thoát cho ông ta, Hitler có thể thoát
khỏi sự trừng phạt của nghiệp, không phải thế là một
sự vô cùng báng bổ công lý, một sự nhạo báng Pháp nghiệp
hay sao?
LÃO SƯ: Ðúng, nó sẽ là một
sự nhạo báng Pháp nghiệp. Nhưng điều đó không thể xảy
ra. Hãy hỏi tôi tại sao?
NGƯỜI HỎI: Vâng, tại sao?
LÃO SƯ: Vì kinh nói chỉ có
niệm danh hiệu Quán thế âm với tín tâm mới có được cảm
ứng, có thể nào một con người tự cao tự đại như Hitler
lại làm thế sao? Kinh Pháp hoa không nói gì về việc làm sạch
nghiệp quá khứ, và chắc chắn là Hitler phải trả món nợ
nghiệp như mọi người khác. Ông ta đã trả một phần nghiệp
bằng cái chết bất đắc kỳ tử của mình. Và người ta
phải run sợ khi nghĩ tới cuộc sống như địa ngục đang
đối diện với ông ta.
NGƯỜI HỎI THỨ BA: Quán thế
âm đáp lại theo một cách thường dường như bí mật lạ
lùng. Giả sử một người vừa phạm tôi ăn trộm đến trước
tượng Quán thế âm cầu nguyện," Ôi Ðấng từ bi, xin ngài
cứu con khỏi bị bắt. Nếu con bị bắt con sẽ phải ngồi
tù và gia đình con sẽ khổ sở." Cùng lúc đó, nạn nhân của
hắn có lẽ cũng đang ngồi trước tượng Quán thế âm nài
xin," Với năng lực nhìn thấy mọi thứ của ngài, xin ngài
hãy giúp cảnh sát bắt tên trộm nhơ bẩn đó đã ăn cắp
những đồng tiền dành dụm khó nhọc của con ". Viên cảnh
sát được phân côn phá án có thể cũng cầu xin," Lạy đức
Quán thế âm, xin hãy giúp con bắt tên trộm đó để con có
thể thăng chức."
Quán thế âm sẽ đáp lại
những câu khẩn cầu trên như thế nào? Bất kể bao lâu hay
bao khó nhọc tên trộm cầu xin Quán thế âm cứu hắn ra khỏi
hậu quả của những hành động của mình, hắn ta phải trả
món nợ nghiệp dưới hình thức đau khổ trong tương lai. Nhưng
sự đau khổ của hắn sẽ bớt và gánh nặng sẽ nhẹ đi
nếu hắn ta bồi hoàn thành thật ăn năn về việc làm sai
trái và quyết tâm tuân theo luật pháp trong tương lai. Vì vậy,
tên trộm có thể tự nhận ra quyết tâm sống lương thiện
trong tương lai. Ðây có thể là lời đáp của Quan thế âm
đối với lời cầu xin của tên trộm. Nạn nhân lúc suy nghĩ
có thể đột nhiên hiểu ra tên trộm là sự trừng phạt của
nghiệp bởi những hàng động xấu của mình ở kiếp trước
và vì vậy có một phần trách nhiệm cho những gì đã xảy
ra. Ðây sẽ là câu trả lời của Quán thế âm với lời cầu
xin của nạn nhân. Người cảnh sát có thể hiểu là lời
cầu xin Quán thế âm giúp anh ta bắt tên kẻ trộm vì sự
vẻ vang cho chính mình là lời xin không tốt lành, anh ta có
thể bây giờ đang nổ lực vì bổn phận của mình. Ðó cũng
sẽ là lời đáp của Quán thế âm.
Như quí vị biết đấy, sự
khác nhau giữa sự cầu xin ân huệ ích kỷ và nhún nhường
tự cởi mở với công việc của lòng từ của ngài là một
sự khác nhau vi diệu.
NGƯỜI HỎI THỨ BA: Có điểm
nào trong Thiền nói ta có thể bỏ qua các tượng cả của
Ðức Phật và Quán thế âm để chỉ toạ thiền hay không?
LÃO SƯ: Ðức Phật, Quán thế
âm-- có thể được xem như những cái bè giúp ta qua sông nhưng
đừng bám vào nó khi ta đã qua sông rồi.
NGƯỜI HỎI THỨ TƯ: Một người
Thiên chúa giáo được khuyên răn là phải thương người hàng
xóm như bản thân mình. Có điều răn nào khuyên Phật tử
phải từ bi không?
LÃO SƯ: Không, không có. Từ
bi thật sự đặt trên nền tảng của sự hiểu biết " Ở
Rochester khi Martha vấp ngón chân, Mike ở Denver cảm thấy đau."
Thế thì làm sao từ bi có thể phát sinh từ sự gượng ép
như một nhiệm vụ đạo đức được?
NGƯỜI HỎI THỨ NĂM: Ðiều
đó có ý nghĩa gì khi thầy nói," Ở Rochester khi …"?
LÃO SƯ: Thôi được, chúng
ta hãy triết lý một chút. Mối tương quan của cả cuộc đời
được minh họa trong kinh như hình ảnh một mạng nhện khổng
lồ trải rộng khắp vũ trụ. Những đường thẳng đứng
biểu diễn thời gian, đường ngang là không gian.
Tưởng tượng ở bất cứ
điểm nào, nơi chổ giao nhau của những sợi ngang dọc có
một hạt trong suốt biểu tượng cho một cuộc sống đơn
độc. Ở mặt sáng của mỗi hạt thuỷ tinh này đang phản
chiếu hình ảnh của những hạt khác trong mạng lưới mênh
mông này, các hạt đồng loạt phản chiếu và những phản
chiếu của những phản chiếu. Sự phản chiếu bất tận này
trong một chừng mực độc lập với mỗi cái khác nhưng đồng
thời chúng kết hợp với nhau thành một khối toàn thể.
Từ việc hiểu sự lệ thuộc
lẫn nhau trên căn bản này, từ bi trong Phật giáo tuôn trào
giống như trăm sông đổ về biển cả. Khi thiếu vắng sự
nhận thức này, sự đơn độc, sợ hải nảy sinh. Cái ôm
cũa Quán thế âm nhẹ nhàng cuốn trôi những trở ngại này,
cho phép từ bi và trí tuệ trôi tự do. Ðây là phép mầu của
Quán thế âm.
NGƯỜI HỎI THỨ SÁU: Tôi nghĩ
người tu Thiền không tin vào những phép mầu.
LÃO SƯ: Nó là phép mầu không
đòi hỏi đình chỉ luật tự nhiên-- chỉ ?đình chỉ sự
không tin.
4 SÁM HỐI
NHỮNG HÀNH VI SAI LẦM VÀ KHÔNG PHÔ TRƯƠNG NHỮNG VIỆC TỐT
CỦA MÌNH
NGƯỜI HỎI: Tôi nghe nói có
sự xin tội trong Thiền Phật giáo, mục đích của nó là gì?
LÃO SƯ: Ðể giúp quét sạch
hậu quả đầy chướng ngại của tội lỗi và những tình
cảm khác mà thường theo sau là cách cư xử tạo ra khổ đau.
Nhưng thú nhận tội lỗi cũng chưa đủ. Ðể có ý nghĩa ,
sự thú nhận (sám hối) phải kèm theo ăn năng và quyết tâm
không tái phạm. Vì những lý do đó, sám hối là những nhân
tố thiết yếu trong tu thiền.
Hầu hết mọi người đều
che dấu hành động xấu ác và khoe khoang cái tốt. Trong Phật
giáo khuyên làm ngược lại. Thú nhận hành động sai trái
và không phô trương những việc tốt của mình. Một pháp
tu được nuôi dưỡng trong Thiền là" mật hạnh", đó là những
việc làm cho người khác mà không nhận sự ca tụng, khen ngợi
về nó.
NGƯỜI HỎI THỨ HAI: Sám hối
có loại bỏ được nghiệp xấu không?
LÃO SƯ: Không, quí vị vẫn
phải trả món nợ nghiệp của mình. Tuy nhiên với sự vui
lòng trả chúng, và không tự gây cái mới, quí vị làm nhẹ
gánh nặng của sự bồi hoàn. Tình huống có thể giống như
trường hợp người bị kết án tù. Thay vì trở nên chua chát
hận thù, anh ta đồng ý với bản án giam cầm, thậm chí còn
thấy biết ơn vì có cơ hội trả nợ xã hội, rồi tự thích
nghi với cuộc sống nhà tù nên ít đau khổ và có triển vọng
được tha sớm hơn.
NGƯỜI HỎI THỨ BA: Thầy vui
lòng giải thích thêm về sám hối? Có nghi thức sám hối không
và nếu có, Trung tâm có thường tổ chức hay không?
LÃO SƯ: Ở trung tâm chúng tôi,
mỗi tháng có một buổi lễ sám hối dành cho mọi người
sống và làm việc ở Trung tâm.
NGƯỜI HỎI THỨ TƯ: Có nhất
thiết phải thú tội không?
LÃO SƯ: Tham dự lễ là lệnh,
nhưng thú nhận chính nó lại không. Dầu vậy, có ai mà không
có gì để sám hối đâu? Cá nhân coi hành vi của mình là
không vết nhơ, thời cần sám hối về tính kiêu mạn của
mình, vì trong tất cả tội lổi, chắc chắn tồi nhất là
không ý thức được nó.
Nội dung của một buổi lễ
như sau:
Sau khi những người tham dự
lễ sám hối ngồi xuống theo hình vòng cung trong đôi ba phút
yên lặng, người chủ lễ đốt một cây nhang cắm vào lọ
nhang, ông ta trao cho người đầu tiên, nếu người đó muốn
thú tội gì thì anh ta làm lúc này, có lẽ nói như sau:
" Một hôm khi một pháp tỷ
hỏi tôi một câu hỏi nghiêm túc tôi trả lời cụt ngũn khiếm
nhã thay vì trả lời đầy đủ lễ độ. Trước đây người
này đã làm như vậy với tôi và bây giờ tôi mang mối hận
với chị ấy. Tôi rất ăn năn về hành vi của mình và quyết
vượt qua những tình cảm tiêu cực để rồi trong tương lai
tôi có thể đáp chị ấy với một tinh thần giúp đở.
Khi người nói chấm dứt, người
chủ lễ hỏi," Ai muốn nói với pháp huynh ( tỷ) này không?
Lúc này ai đó có lẽ chỉ ra điều gì anh ta cảm thấy phải
được thừa nhận, chẳng hạn như " Hôm qua vào giờ ăn, anh
để đồ dùng của anh lên sàn, sau đó một pháp huynh vô ý
bước lên bị đứt chân. Ðúng ra, anh phải cất đồ dùng
cho cẩn thận tránh gây phiền toái cho người khác và cố
tránh đi sự cẩu thả như vậy."
Người thú tội giữ im lặng,
chỉ đáp bằng gật đầu nhẹ. Rồi anh ta chuyển lọ nhang.
Nếu người kế tiếp không muốn thú tội gì, anh ta chỉ cúi
đầu sau khi nhận lọ nhang, đợi xem có ai muốn nói gì với
anh ta không, và tiếp tục chuyền cái lọ.
NGƯỜI HỎI THỨ TƯ: Mục đích
gì trong việc phát lồ tội lổi trước các đồng đạo? Không
phải người ta có khuynh hướng thú nhận những tội lổi
nghiêm trọng một cách riêng tư sao?
LÃO SƯ: Thú nhận và ăn năng
sám hối trước các đồng đạo làm tăng cường sự cương
quyết của người đó không lập lại sự vi phạm. Nhưng sự
thú tội có thể được thực hiện một cách riêng tư với
thầy, bạn, chồng hay vợ mà không cần thiết đặt thông
lệ phải theo. Một số học viên của tôi trải qua sự sám
hối một mình trước tượng Phật hay Quán thế âm.
Qúi vị đã nghe phần đầu
của một buổi lễ. Sau cùng người chủ lễ đọc một bài
kệ để kết thúc buổi sám hối. Rồi tất cả đồng loạt
niệm trong tâm bài kệ này ba lần:
Ðệ tử vốn tạo các vọng
nghiệp
Ðều do vô thỉ tham sân si
Từ thân miệng ý phát sinh
ra
Ðệ tử thảy đều xin sám
hối
NGƯỜI HỎI THỨ TƯ: Tại sao
một lần không đủ?
LÃO SƯ: Sự ăn năn tự nó
nhấn mạnh sâu với mỗi lần lập lại.
Ðiều quan trọng trong việc
sám hối là phải thành thật. Thú nhận ăn năn những gì đè
nặng trong tâm là tẩy xổ và làm sống lại. Hối lổi sâu
sắc, Thorean nói, là sống lại từ đầu.