19 NGỘ LÀ GÌ?
NGƯỜI HỎI : Ngộ là gì?
LÃO SƯ: Khi một thiền sư được
hỏi " Phật giáo là gì?" ông đáp, " Tôi không hiểu Phật
giáo."
Phần tôi, tôi không hiểu về
ngộ.
NGƯỜI HỎI : Nếu thầy không
hiểu thì ai hiểu?
LÃO SƯ: Tại sao anh không hỏi
người nào nói " Tôi đã đắc ngộ"?
20 THẦY ÐẮC NGỘ CHƯA?
NGƯỜI HỎI : Thầy đắc ngộ
chưa?
LÃO SƯ: Nếu tôi nói "rồi,
tôi đã đắc ngộ," nhiều người trong qúi vị biết sẽ bước
ra khỏi đây khinh bỉ. Nếu tôi nói " chưa, tôi chưa đắc
ngộ," những người trong qúi vị hiểu lầm sẽ bước ra thất
vọng.
Vậy…
21 CÓ THỂ ÐẮC NGỘ MÀ
KHÔNG CẦN TU LUYỆN HAY KHÔNG?
NGƯỜI HỎI : Lão sư, không
phải có trường hợp ngộ đến thình lình tự phát sao? Cái
gì thúc đẩy nó và nó khác với ngộ thiền như thế nào?
LÃO SƯ: Nói đúng ra, mỗi loại
ngộ thình lình theo nghĩa nó xảy ra đột ngột như nước
sôi; cái "dần dần" là được huấn luyện lâu dài thường
đi trước nó. Từ " tự phát" anh muốn nói có nghĩa là ngộ
mà không cần tu tập, phải không?
NGƯỜI HỎI : Ðúng.
LÃO SƯ: Những cái gọi là
ngộ thì thật sự như thế nào? Trong mười hai năm qua tôi
đã thử hàng chục người tuyên bố là đắc ngộ và nhận
ra chỉ một người tôi cảm thấy thật ngộ không được
huấn luyện trước. Tuy nhiên, do không huấn luyện, cuộc sống
của người đó sẽ không biến đổi đáng kể, vì người
ấy không thể vận dụng sự ngộ đó và đến một lúc nào
đó nó sẽ trở nên chỉ là ký ức được ấp ủ.
Nếu nghiên cứu những trường
hợp của các người đã ngộ thật sự và sâu, qúi vị sẽ
thấy hầu như mỗi trường hợp ngộ đến sau khi lắm sự
xem xét nội tâm, thúc dục bởi những sự không thỏa mãn
dày vò cuộc sống hay bởi những ray rức cá nhân lớn lên
từ một kinh nghiệm tình cảm đau thương.
NGƯỜI HỎI : Tại sao một
số người ngộ nhanh còn số khác phải mất nhiều năm?
LÃO SƯ: Ai có thể nói, trừ
phi là nghiệp lực giải thoát nơi người này mạnh hơn một
số khác; những thiền sư đã nói," Cách nhanh nhất để đắc
ngộ là đấu tranh với một' khối nghi ngờ'." Khối hoài nghi
là vấn đề căn bản gây bối rối không cho phép ta nghỉ
ngơi, chẳng hạn, "Nếu, như Ðức Phật và các thiền sư đã
nói, thế giới vốn thiện và không ô uế, thì tại sao ta
thấy qúa nhiều điều xấu xa đau khổ quanh ta?" Rõ ràng nếu
qúi vị có đức tin tuyệt đối, các bậc thầy nói đúng,
qúi vị sẽ bị lái đến chổ giải quyết mâu thuẫn giữa
cái gì qúi vị tin, như một vấn đề đức tin và sự hiển
nhiên của các giác quan. Tuỳ thuộc vào độ sâu và mức kiên
trì, sự bối rối này tóm lấy qúi vị và qúi vị tìm được
câu trả lời một cách thoải mái như thế nào mới có thể
phán đoán ngộ chiếm thời gian ngắn hay dài hơn.
Sự chất vấn như vậy là
tọa thiền. Và qúi vị kiên trì tưởng như cuộc đời qúi
vị lệ thuộc vào việc tìm câu trả lời, quí vị sẽ không
cần làm điều gì khác. "Ðể đắc ngộ viên mãn," như một
thiền sư nói," Anh phải hành động như một người rơi xuống
một cái hố sâu-trăm-thước. Hàng ngàn, hàng chục ngàn tư
niệm của anh ta rút lại còn một suy nghĩ duy nhất' làm cách
nào để ra khỏi cái hố này?' anh ta giữ nó từ sáng đến
tối và từ tối đến sáng hôm sau mà không có tư niệm nào
khác." Nhưng có bao nhiêu người bị dồn ép như thế này?
Rất ít.
Huấn luyện thiền chính thức
cơ bản không gì hơn cố gắng của người thầy kích thích
điều chất vấn căng thẳng, kích thích khối nghi ngờ này,
khi nó không nảy sinh tự phát. Tiên đề thiết yếu của những
tra vấn như vậy, tuy nhiên, là sự xác tín không lay động,
là người ta có thể xóa tan khối nghi ngờ và quyết tâm làm
một cách nghiêm túc. Một học viên thật sự khát khao tự
ngộ, thường được giao một công án. Nếu anh ta vật lộn
với nó một cách nghiêm túc--và sự lội cuốn của anh ta
tùy thuộc vào cường độ mà anh ta cảm nhận nổi đau của
cuộc sống và sự thúc dục, sự khao khát thoát ra khỏi nó.--rồi
anh ta sẽ ngộ. Hơn nữa, sự ngộ của anh ta sẽ rất nhanh
với một công án, nhanh hơn bất cứ kiểu thực hành khác,
gợi nhớ và xoáy vào khối nghi ngờ.
NGƯỜI HỎI THỨ HAI: Ở trường
đại học tôi có nghiên cứu khoa tâm lý để tìm ra những
cái đầu vĩ đại nhất có suy nghĩ gì về sự hiện hữu
của loài người và vì tôi muốn biết ý nghĩa cuộc đời
của chính tôi. Sự nghiên cứu này không những không dẫn
tới ngộ, nó cũng không thỏa mãn tôi về mặt lý trí.
LÃO SƯ: Loài người tồn tại
như thế nào ư? Anh hỏi điều đó với sự tò mò, hay với
những trăn trở của tất cả con tim và khối óc? Câu hỏi
lý trí nhận được một câu trả lời lý trí; chúng không
thể biến đổi đời bạn. Chỉ khi bạn bị thúc ép bằng
quyết tâm " Tôi phải, tôi sẽ tìm ra!" câu hỏi của bạn
sẽ được trã lời. Vì nó sẽ là ngộ, vì theo nghĩa sâu
sắc nhất, hỏi và trả lời không phải là hai; chúng chỉ
có vẻ như vậy, vì trí phân biệt của bạn, phân chia các
thiết yếu không thể phân chia được.
Ðể tôi kể cho qúi vị nghe
một trường hợp ngộ tự phát của một người thợ ống
nước ở Brooklyn, Nữu-ước. Anh ta không được học hành
đầy đủ mà chỉ học hết bậc tiểu học, không có khuynh
hướng tâm linh hay tín ngưỡng. Trong thế chiến thứ hai, anh
đóng quân ở Thái bình dương, nơi anh ta chứng kiến rất
nhiều trận đánh, đến cuối trận chiến thì hoàn toàn kiệt
sức và mệt mỏi.
Khi trở lại Brooklyn anh ta không
thể, theo chính cách nói của anh ta," làm việc, giải trí hay
làm tình. Mọi thứ có vẻ vô ích. Một câu hỏi đeo đuổi
làm tôi khó chịu: Thực tại là gì? Tôi chưa bao giờ học
triết và không có đạo. Tôi không biết câu hỏi đến từ
đâu nhưng nó không rời tôi. Nếu tôi đang đi trên đường
và điều duy nhất trong đầu tôi là,'Thực tại là gì?' thỉnh
thoảng tôi đụng phải người hay tòa nhà, tôi qúa ngạc nhiên
bởi câu hỏi. Ngay cả buổi tối câu hỏi cũng không rời
tôi. Tôi nhớ thỉnh thoảng thức dậy lúc hai, ba giờ sáng,
không thể ngủ lại và điều trước tiên hiện ra trong đầu
là ,'Thực tại là gì?'
" Ðiều này xảy ra suốt sáu
tháng. Rồi một hôm sự bùng nổ xảy ra trong tôi làm tôi
tràn ngập niềm vui mà tôi chưa từng có trong đời, câu hỏi
vừa tan biến vào hư không và tôi có thể làm việc trở lại
một cách bình thường như mọi người khác.
" Sự phấn chấn này--đôi
khi tôi nghĩ như tôi có thể nhảy qua tường cao mười mét--kéo
dài bốn tháng. Một câu hỏi mới dai dẳng làm tiêu tan trạng
thái đó:'Ðiều gì xảy đến với mày? Tất cả niềm vui
và khoan khoái này không bình thường đối với mày!' tôi bắt
đầu cảm thấy xấu chỉ vì tôi cảm thấy qúa tốt.
"Gia đình tôi và bạn tôi nói,'Anh
phải khám bác sĩ tâm thần. Anh trải qua kinh nghiệm của cuộc
chiến tranh khá tàn bạo và cảm giác đó có lẽ là triệu
chứng đầu tiên của điều tồi tệ hơn.'
" Bác sĩ tâm thần ở bệnh
viện cựu chiến binh rất quan tâm đến trường hợp của
tôi. Họ đặt tôi vào những kiểm tra thường lệ, cho tôi
dùng một ít thuốc, và bắt đầu hỏi tôi mỗi ngày, hỏi
chi tiết về kinh nghiệm chiến tranh của tôi và về cuộc
sống tôi sau khi trở lại Mỹ. Tôi có một phòng riêng, và
không giống nhiều bệnh nhân khác, được tự do rời bệnh
viện. Cách điều trị này tốt trong khoảng một tháng. Nhưng
rồi tôi trở nên bồn chồn, mệt mỏi về mọi thủ tục
rườm rà, nên đã nói với một bác sĩ thần kinh của tôi,'
Xem này, tôi phải ở đây bao lâu nữa? Chừng nào ông sẽ
quyết định tôi bệnh gì?'
" Ngày mai chúng tôi có một
cuộc hội chẩn về trường hợp của anh và tôi sẻ báo tin
sau khi tôi có đủ tất cả dữ liệu,' ông ta nói. Vài ngày
sau tôi nhận được tin,' Anh đã trải qua sự biến đổi'
Tôi không biết tôi đã biến đổi từ đâu và trở thành
cái gì, nhưng tôi qúa lo âu, bèn rời bệnh viện nên tôi không
hỏi sự chuẩn đoán của họ và để nó trôi đi ở đó.
" Phải mười năm sau, sau khi
một người bạn cho tôi mượn cuốn Ba trụ thiền, cuối
cùng tôi hiểu những gì đã xảy ra trong tôi, tôi đã có kinh
nghiệm kiến tánh hay ngộ."
NGƯỜI HỎI THỨ NHẤT: Lão
sư, thầy có cho là anh ta ngộ thật sự không?
LÃO SƯ: Trước khi anh ta đến
Rochester, anh ta đã viết cho tôi một bức thư dài trong đó
kể lại tất cả những điều qúi vị vừa nghe. Ðáp lại
chúng tôi khuyên anh ta đến dự một buổi họ? thảo, lúc
đó anh ta có thể nói tất cả về trường hợp mình, nếu
muốn kiểm tra về sự chính xác kinh nghiệm của anh ta. Sau
buổi hội thảo chúng tôi ôn lại tất cả sự việc, đặc
biệt sự việc gần, dẫn đến "sự bùng nổ" và điều anh
ta đã chứng kiến, cảm nhận trong biến đổi đột ngột
của mình.
Khi anh ta làm sống lại những
sự kiện của kinh nghiệm đó, mắt anh ta ngời sáng, điều
nổi bật mà trước đó đã thiếu vắng trong suốt buổi hội
thảo, vì tôi quan sát vẻ mặt và cử chỉ của anh ta một
cách cẩn thận.
" Nói cho tôi biết, thực tại
là gì? "Tôi hỏi anh ta.
Anh do dự, mĩm cười và đáp,"
cả cuộc đời tôi."
Anh nói "lúc sự bùng nổ xảy
ra câu hỏi biến mất. Cái gì thay thế nó?"
" Tôi không nhớ. Không gì cả,
tôi đoán thế. Tất cả tôi có thể kể cho thầy là tôi chưa
bao giờ cảm thấy tốt hơn trong đời tôi. Nó giống như được
tái sinh--tôi cảm thấy như một đứa bé. Mọi câu hỏi và
vấn đề rơi mất, và lần đầu tiên từ khi tôi vào quân
đội tôi có nhiều năng lượng và động cơ."
" Sau đó cái gì xảy ra?"
" Chậm chậm cảm giác thoải
mái và an lạc phai đi và năng lượng phi thường đó cạn
dần. Bây giờ tôi đọc được sách của thầy và đến buổi
hội thảo này, tôi biết sự quan trọng của tọa thiền. Nhưng
liệu tọa thiền có mang lại niềm vui kỳ diệu đó không?
" Hãy quên niềm vui," tôi bảo
với anh ta," tọa thiền thường xuyên, lưu tâm và dấn thân
đầy đủ vào công việc hàng ngày, anh sẽ có được cảm
giác trong sáng đầy sinh khí và lòng biết ơn sâu sắc. Ðiều
đó sẽ ảnh hưởng đời bạn một cách tích cực hơn sự
lâng lâng khoái cảm bạn đã trải qua."
NGƯỜI HỎI THỨ HAI: Lão sư,
thầy có thỏa mãn với những câu trả lời của anh ta không?
LÃO SƯ: Không, tôi thấy là
những gì xảy ra với anh ta đủ thật, nhưng nó xảy ra nhiều
năm về trước và bây giờ nó không còn hoạt động trong
cuộc sống anh anh ta nữa; nó bây giờ chỉ là một nổi nhớ
về hạnh phúc, một kỷ niệm đã tàn phai. Nếu lúc đó anh
ta thực hành để duy trì và đào sâu nó hơn, anh ta đã trả
lời câu hỏi tôi một cách khác.
NGƯỜI HỎI THỨ NHẤT: Niềm
vui của ngộ kéo dài không?
LÃO SƯ: Không. Nếu anh muốn
duy trì nó ở mãi mãi trên chín tầng mây, thì đâu có gì
sai. Với ngộ thật, nhận thức không hề phai đi. Anh cần
tọa thiền--định lực phát ra từ đó--nếu anh có thể sống
theo thị kiến của anh, vì nghiệp lực qúa khứ luôn luôn
kéo bạn trở lại kiểu cũ.
Qúi vị, ai đã đọc Ba trụ
thiền hẵn còn nhớ bài thuyết pháp dẫn nhập câu chuyện
phúng dụ về Vajradatta, một người nữa điên nữa tỉnh.
Ông ta không thích gì hơn ngoài việc ngắm nhìn trong gương.
Một hôm ông ta không thấy đầu của mình trong gương nên
hốt hoảng chạy quanh, thét lên ầm ĩ," Tôi bị mất đầu
rồi! Tôi mất đầu rồi! Nó có thể ở đâu?" và thật là
vui sướng, sau khi bị đập vào đầu khóc lên vì đau, ông
ta nói," Ðầu ta đây," và hiểu ra ông ta luôn có nó. Cái đầu
trong chuyện phúng dụ này là chân tánh và sự khám phá của
nó là ngộ. Không có gì kỳ lạ là vì qúa vui khi khám phá
cái mà ta chưa có.Vấn đề là sau khi ngộ ta không thể sống
cuộc sống tự nhiên chừng nào ta còn bám víu vào sự phấn
chấn cực kỳ này.
NGƯỜI HỎI THỨ NHẤT: Giả
sử có người giống như anh chàng thợ ống nước này đã
có kinh nghiệm chiến tranh đau thương một cách sâu sắc và
sau đó tọa thiền, liệu những kinh nghiệm đó có thật sự
giúp anh ta đến ngộ, sâu và nhanh hơn người khác không?
LÃO SƯ: Sự kết hợp giữa
kinh nghiệm đau thương và hành thiền đầy đủ có lẽ rất
tốt cho sự ngộ sâu và kéo dài. Tôi biết có một bác sĩ
người Nhật, thành viên của một nhóm tọa thiền ở Nhật.
Một lần tôi hỏi ông ta," Cái gì đưa ông đến thiền?" Và
đây là câu chuyện mà ông ta kể.
" Vào thời kỳ cuối chiến
tranh thế giới lần thứ hai, tôi cũng vừa học xong y khoa
và được tuyển vào quân đội. Người Nhật chúng tôi đang
đánh nhau một trận khủng khiếp , người chúng tôi chết
như rạ và không đủ bác sĩ để cứu họ. Cùng với những
bác sĩ khác, tôi làm việc suốt ngày đêm với những người
bị thương và hấp hối. Có lần tôi làm việc suốt tuần
không ngủ một chút nào để chăm sóc những người bị thương.
" Sau chiến tranh tôi không thể
trở lại ngành y. Tôi thường tự hỏi' Tại sao ta phải hành
nghề y và cố gắng cứu mạng người khác? Dù sao họ cũng
phải chết .' Lúc đó một người bạn thúc tôi thử thiền
và tôi trở thành đồ đệ của lão sư Bạch vân. Ông hứa
với tôi, nếu tôi tập luyện chăm chỉ và kiến tánh, cuộc
sống tôi sẽ quay ngược 180 độ và tôi không chỉ muốn giúp
người như một bác sĩ thuần tuý mà còn có lòng từ và yêu
thương mọi người.
" Vì thế ba năm sau đấy tôi
tọa thiền rất nhiệt thành và sùng mộ, thúc đẩy bởi những
lời khuyến khích của lão sư và chính sự rối loạn không
chịu được của mình. Tôi dự nhiều khóa nhiếp tâm. Rồi
nó xảy đến: Bùng nổ nội tâm hủy diệt tất cả mọi suy
nghĩ về sống chết--và mọi thứ khác. Tôi nhận ra bề ngoài
không có gì sống chết nhưng cùng lúc trong chân tâm không
có sanh và tử.
" Câu hỏi day rứt,' Tại sao
tôi phải hành nghề thuốc?' được trả lời rồi phải không?"
tôi hỏi.
" Vâng. Câu trả lời đơn giản,
với ngộ,' vì tôi là bác sĩ!'"
22 CÓ SỰ KHÁC NHAU GIỮA
NỘI KIẾN SIÊU HÌNH VÀ NGỘ HAY KHÔNG?
NGƯỜI HỎI: Có sự khác nhau
giữa nội kiến siêu hình và ngộ hay không?
LÃO SƯ: Chúng phát xuất từ
cùng một nguồn--đó là Tâm. Mọi người, không ngoại lệ,
có tâm như quyền thừa kế. Nhưng người ngộ đã đánh thức
nó còn người có năng lực siêu nhiên thì không. Sự khác
nhau quan trọng ở mức độ nhận thức hay tri kiến. Người
có năng lưc?siêu nhiên quan hệ đến lãnh vực tâm không thể
đến được với ý thức bình thường; người ngộ nhìn vào
bản tâm. Vì tâm ngộ viên mãn nhận thức khía cạnh không
giới hạn của ý thức, nó tự nhiên bao gồm nhận thức siêu
hình.
NGƯỜI HỎI THỨ HAI: Về Edgar
Cayce thì sao? Không phải anh ta đắc ngộ sao?
LÃO SƯ : Cayce có năng lực
phi thường, nhưng anh ta đắc ngộ là một điều nghi ngờ
lớn.
NGƯỜI HỎI THỨ BA: Nói về
Cayce, tôi có nghe ông ta tiên đoán rằng trong bốn mươi năm
nữa California sẽ bị hũy diệt bởi động đất hay lụt lội.
Thầy có tin những lời tiên tri đó không?
LÃO SƯ: Trừ phi một người
có năng lực siêu nhân có thể đưa ra thời gian chính xác
của sự việc sẽ xảy ra trong tương lai-- đó là xác định
rõ ngày, giờ, năm, tháng-- tôi đặt rất ít niềm tin vào
sự tiên đoán đó. Ðiều đó không có nghĩa là phủ nhận
tài năng của ông ta nhưng năng lực của ông ta có giới hạn.
Cho dù người có khả năng
siêu nhiên có thể tiếp xúc với lãnh vực đặc biệt mà
người bình thường không thể đến được, nhưng anh ta không
thật sự hiểu nguồn gốc sức mạnh này. Hơn nữa," thiên
tài" của ông ta không ảnh hưởng đến việc bào mòn cái
ngã hay biến đổi nhân cách. Anh ta vẫn bị thống trị bởi
khái niệm'cái tôi' này chống lại những 'cái tôi khác'. Trái
lại, ngộ thật sự khái niệm cái ngã--tôi bị đẩy lùi
và sự phân biệt nhị nguyên của 'tôi' và 'không phải tôi'
bị vượt qua. Các hệ qủa của điều này rất lớn.
NGƯỜI HỎI THỨ HAI: Từ quan
điểm thiền, những kinh nghiệm siêu nhiên không có giá trị?
LÃO SƯ: Những nhận thức siêu
nhiên nào đó gở bỏ những nghi ngờ về tái sinh và giá trị
của nghiệp, quả là có giá trị. Anh có thể tưởng tượng
ai đó có thể hoàn nguyên đời trước, và giữ lại ký ức
của họ, ai sẽ không bị thuyết phục bởi bóng tối nghi
ngờ về cái vòng lẫn quẫn của cuộc đời? Sự thuyết phục
này giải thoát người ta khỏi sự sợ hãi về " ta chỉ sống
một lần, vì vậy ăn, uống và vui chơi đi" mà người ta tìm
cách tận hưởng các thú vui để quên đi nổi lo sợ về cái
chết mỗi lúc một gần kề.
Ngộ, bắt nguồn từ việc
nhớ lại những kiếp quá khứ, rằng chết cũng như sống,
là một điểm dừng tạm thời, cái trước và cái sau đều
ảnh hưởng sâu sắc đến hành vi của con người trong kiếp
này. Ai không phải là kẻ ngốc hay điên, ai là người thích
hũy diệt cuộc sống nếu hắn ta biết rõ rằng có nghiệp
báo dưới hình thức một cuộc sống như địa ngục sẽ theo
sau kiếp này hay kiếp sau? Ai cũng sẽ ăn năng về những lỗi
lầm của mình trong kiếp trước nếu như hiểu được rằng
chết không phải là một sự kết thúc mà chỉ là sự tiếp
tục, và một bước nhảy vô ý của mình anh ta chắc chắn
sẽ phải trả giá với người chơi đàn, nếu không bây giờ
thì kiếp sau?
Hãy để tôi kể một câu chuyện
chứng minh sự khác nhau giữa khả năng huyền thuật và sự
tự ngộ. Một giáo sư người Mỹ gặp tôi ở Nhật kể lại
chuyện ông ta đến Ấn độ để tìm một bậc thầy đắc
ngộ. Một hôm trong khi đang đi tìm kiếm người thầy khó
tìm ấy, ông gặp một đám đông tại một ngôi làng nhỏ.
Lách mình vào giữa, ông thấy một người Ấn thi triển các
phép lạ. Nhìn thấy người Mỹ này, người ấy bước tới
gần kể về cuộc đời ông, vợ con ông một cách rõ ràng
chi tiết mặc dù người này trước đây không hề gặp họ.
Ðó là kinh nghiệm trực tiếp đầu tiên của giáo sư về
ngoại cảm nên ông vô cùng sửng sốt. Ðiều là lùng là người
này không nhận tiền thù lao của vị giáo sư như ông ta vẫn
thường nhận của người khác mỗi khi ông ta đoán số.
Sau khi biểu diễn, người này
gọi giáo sư đến bên cạnh và nói:
" Không phải ngài đến Ấn
độ để tìm ngộ sao?"
" Vâng."
" Ngài không giống những người
nước ngoài mà tôi gặp ở Ấn độ, nên tôi thành thực khuyên
ngài. Có lẽ ngài bị ấn tượng bởi khả năng nhìn thấy
qúa khứ và vị lai của tôi, nhưng đối với tôi nó là điều
không đáng kể. Tôi có khả năng huyền bí này từ lúc còn
nhỏ, cha tôi có nó trước tôi. Khi tôi còn là một thanh niên
tôi cũng có ý nguyện tôn giáo sâu như ngài. Nhưng vì người
ta bao quanh tôi để nhờ tôi đoán số mệnh của họ-- và
cha tôi khuyến khích tôi dùng khả năng đặc biệt của mình
để giúp ông nuôi dưỡng gia đình vốn đã nghèo mà lại
đông con. Thế là sự khao khát giải thoát tâm linh bị bỏ
qua một bên. Bây giờ tôi đã già và trực giác siêu nhiên
của tôi không còn giống như sự tự ngộ của bốn mươi
năm về trước.
" Ở Ấn độ này ngài sẽ
gặp nhiều nhiều người có năng lực siêu nhiên đóng vai
thánh nhân giác ngộ, nhưng ngài đứng để họ lừa. Những
người có năng lực siêu nhiên chỉ biết liên hệ với những
hiện thân huyền ảo về sự hiện diện của Thượng đế.
Thánh nhân tự nhìn thấy Thượng đế. Có một cách để phân
biệt chân sư với kẻ giả hiệu: một chân sư sẽ không cho
phép đệ tử quan tâm hay phô bày phép thuật."
NGƯỜI HỎI THỨ BA: Có nguy
hiểm gì không khi cố gắng luyện pháp thuật?
LÃO SƯ: Câu chuyện anh vừa
nghe đã chứng minh rằng sự bận rộn phát triển năng lực
kỳ bí gây chướng ngại cho sự tự ngộ. Không những thế
còn có những nguy hiểm khác. Người cố gắng phát triển
khả năng kỳ bí thường hành động để được trả giá
không xứng đáng với nhân cách thực của họ. Họ trở nên
một chiều và giả dối, kiêu căng tự phụ vì khả năng hiếm
có và đặc biệt của mình. Thần thông cũng có sức quyến
rủ-- ta càng dấn thân vào, ta càng khó thoát ra, cuối cùng
như cá mắc lưới.
Bất cứ ai tọa thiền nghiêm
túc sẽ có lúc phát triển những khả năng kỳ bí. Ðức Phật
có những cảm nhận kỳ bí như nhớ lại tiền kiếp, thấy
được tương lai, và đọc được ý nghĩ của người khác
nhưng không bao giờ Ngài khuyến khích những đồ đệ dùng
thần thông như phương tiện để giác ngộ, hoặc phô trương
những gì họ đã đạt tới.
Có một giai thoại nữa minh
họa giá trị của thiền đối với vấn đề phép thuật.
Một hôm một thiền sư nổi tiếng của Trung hoa cổ đang đi
hành hương, khi đến bờ một con sông rộng, ngài còn lưỡng
lự đứng đó, bổng có một người lạ xuất hiện không
biết từ đâu đến, bảo," Nào, chúng ta cùng qua sông nhé."
Cảm thấy không cần phải vội, sư đáp," Ðạo huynh, nếu
muốn thì huynh cứ sang bên ấy thì đi một mình đi." Vị tăng
bước lên mặt nước như đi trên đất liền, và quay đầu
dục ," nhanh lên." Vị sư mắng," Khoe khoang, nếu ta biết ngươi
làm thế , ta đã đập ngươi què chân!"
23 KHÔNG VÀO HANG HÙM SAO BẮT
ÐƯỢC CỌP
NGƯỜI HỎI: Trước buổi hội
thảo này tôi chưa hề tọa thiền và cũng không biết gì về
nó, thật lạ là không mấy dễ chịu. Và tôi tưởng chừng
như đợt ngồi thiền thứ hai sẽ không bao giờ chấm dứt!
Tại sao cần phải chịu đựng sự khó chịu như vậy để
làm trong sạch tinh thần?
LÃO SƯ: Qua suy nghĩ sai lầm
và lười biếng, chúng ta cho phép tâm mình bị chi phối bởi
những vọng tưởng vu vơ. Suốt ngày tư niệm lười biếng
lượn qua lượn lại như những con ong vờn quanh tổ của nó.
Tuy nhiên những tư niệm tồi tệ nhất, những kẻ thống trị
vĩnh viễn, là những kiến chấp. Kiến chấp bắt rễ sâu
trong tâm, giúp cái ngã cũng cố vị trí thống trị của nó.
Kiến chấp giống như những
vết bẩn khó tẩy sạch. Vì chúng mà tâm ta trở nên một
bãi rác khổng lồ với bao nhiêu năm tích luỷ những ý niệm
đúng sai yêu ghét hy vọng, u sầu. Vì thế cần tập trung sức
mạnh với sự bền bỉ mới có thể dọn sạch những rác
rưởi trong tâm.
NGƯỜI HỎI THỨ HAI: Tôi thấy
mình trở nên bồn chồn không yên vì không quen với việc
ngồi bất động.
LÃO SƯ: Ít người bị như
thế. Buổi hội thảo tôi vừa thực hiện ở Chicago, có một
trong số những người tham gia, vị giáo sư, động đậy không
ngừng trong buổi ngồi thiền. Mặc dầu mọi người được
dạy cách ngồi đầu gối chạm chiếu, một vị trí thiết
lập sự ổn định củatâm thân. Vì lý do nào đó, người
này ngồi với đầu gối nâng cao. Vị trí vụn về này tạo
sự căng thẳng lên tâm-thân khiến ông ta động đậy liên
tục. Sau khi nhắc nhở ông nhiều lần phải ngưng động đậy
vì nó cản trở sự tập trung của chính ông và làm ảnh hưởng
đến người khác. Tôi ở phiá sau lưng ông ta và cầm cái
roi đi lê chân để cho ông biết rằng tôi đang ở đó. Ông
ta cố gắng ngồi yên đến cuối buổi, nhưng rồi hầu như
không thể đứng dậy. Khập khiểng đến với tôi, ông ta
rên rĩ nói," Ðây là công việc khó khăn nhất đời tôi. Tồi
tệ nhất là tôi đã khám phá ra rằng tôi không thể liên
tục đếm hơi thở hơn số hai. Nhưng tôi cám ơn thầy không
tỏ ra dể dãi với tôi. Trong hai mươi phút ngồi khổ sở
đó tôi đã biết được nhiều về tôi hơn qua bất cứ điều
gì khác."
Lý do mà nhiều người cảm
thấy khó chịu khi ngồi yên là vì họ quen phát năng lượng
của họ ra trong những hoạt động vô ích để tránh đương
đầu với những khó khăn trong cuộc sống. Toạ thiền không
những hạn chế tiêu hao năng lượng mà còn buộc họ nhìn
vào trong và đương đầu trực diện với chính nó--đối đầu
với những vấn đề họ đang cố tình lẫn tránh.Và vì tọa
thiền phơi bày những vấn đề làm họ bực tức, họ bực
tức thầy, người mà họ cho là chịu trách nhiệm trong việc
gây ra tình trạng khó khăn mà họ đang chịu đựng. Vì vậy
việc ngồi yên lặng trở nên một sự khổ sở.
Tuy nhiên, nơi đây là một
ngã ba đường, là lúc quyết tâm của con người được kiểm
nghiệm. Liệu bạn sẽ tiếp tục đi theo lối sống cũ--dể
dải và hoang phí--hay đi theo con đường giải thoát? Nếu qúi
vị thật sự hiểu rằng cho đến giây phút bây giờ cuộc
sống của qúi vị đang đang dẫn quí vị đến một ngõ cụt,
và niềm tin vào chân thực vào chân tánh của qúi vị đủ
mạnh , thì quyết tâm của qúy vị để có được tự do sẽ
ngang bằng với công việc toạ thiền. Và nếu bạn kiên trì
đấu tranh, đánh bại tất cả những cám dổ, bạn sẽ có
được sự hiểu biết sâu sắc và có được một sự bình
yên trong sáng đầy sinh khí.
NGƯỜI HỎI THỨ HAI:Mất bao
lâu trước khi người ta có thể ngồi theo một trong các thế
kiết già mà không đau đớn?
LÃO SƯ: Nó lệ thuộc vào sự
uyển chuyển của tâm và những dây chằng. Dù vậy, tâm là
trên hết. Tâm nhanh chóng thích nghi-- không ươn ngạnh hay bướng
bỉnh--tạo ra một cơ thể dễ thích nghi. Những bài tập duỗi
chân đơn giản vẫn có ích. Một khi có một sự mềm dẽo
nào đó qúi vị sẽ thoải mái trong những tư thế đó và
cảm nhận sâu cái cảm giác tràn đầy nhựa sống. Về nhà
sau một ngày làm việc, ngồi trên trường kỷ ở tư thế
bán già tạo ra một sự thư giản hiệu quả hơn so với ở
những tư thế khác. Khi học hay đọc sách, sự tập trung của
người ấy mạnh hơn khi ngồi thế kiết già.
NGƯỜI HỎI THỨ HAI: Tại sao
như vậy?
LÃO SƯ: Kéo hai cực về trung
tâm như trong tư thế này, là thống nhất và thu tâm lại,
rồi thực hiện với thế cân bằng nhất điểm. Ðừng thất
vọng nếu lúc đầu bạn cảm thấy khó chịu, vì học tọa
thiền cũng giống như học những môn học có giá trị khác,
nó đòi hỏi sự kiên trì. Nên nhớ rằng từ bấy lâu nay
chúng ta không sử dụng đúng tâm thân; thay vì ngồi hay đứng
một cách thẳng thớm, chẳng hạn, chúng ta lại khòm xuống
hoặc nghiêng ngã tạo sức căng lên toàn thể các cơ quan và
làm hỏng hơi thở. Ngoài việc học đi, đứng, nằm, ngồi
cho đúng cách; ta phải luyện tâm thực hiện chức năng hướng
tâm-- hướng nội-- cũng như ly tâm. Thoạt đầu, có một sức
căng ngược với tiến trình cố hữu này, nhưng nếu bạn
kiên trì tọa thiền bạn sẽ bắt đầu trải qua sự trong
sáng, khoan khoái và có năng lựơng nhiều hơn trong cuộc sống
hàng ngày của bạn.
NGƯỜI HỎI THỨ BA: Ðó có
phải là chứng tình dục biến thái hay không ? nếu không,
tại sao ta lại phải chịu đau đớn trong khi có thể tránh
được?
LÃO SƯ: Phật dạy đời là
bể khổ và nếu ta cố né tránh nó có nghiã là tự kết án
mình có một cuộc sống hời hợt, vì khổ và lạc là hai
mặt của một vấn đề. Khổ đau hiện diện khắp mọi nơi,
phải không? Sinh tự nó là đau khổ, đối với người mẹ
cũng như với đứ bé. Bệnh bao hàm cái đau, cũng như sự
suy nhược của tuổi già. Nó đi theo những người không thích
đau đớn; nó rời bỏ những người xem hạnh phúc và đau
khổ như nhau. Thế còn những đau khổ của các dân tộc phải
sống trong sự khốn khổ và gần như chết đói thì sao? Ðiều
gì làm con người suy tư không đồng ý rằng cuộc sống của
chúng ta chứa nhiều lo âu đau khổ hơn về niềm vui và hạnh
phúc?
NGƯỜI HỎI THỨ TƯ: Thế thì
tại sao lại thêm đau đớn nữa bằng cách ngồi kiết già?
LÃO SƯ: Những thế ngồi kiết
già không phải là những tư thế duy nhất để tọa thiền.
Có nhiều tư thế khác được mô tả trong Ba trụ thiền.
Ðau khổ nói chung có thể tránh được chỉ với một cuộc
sống phong phú đa dạng, chủ động nắm bắt lấy đau khổ
không phải là điều khôn ngoan sao? Nếu không tóm lấy nó,
đau khổ mãi mãi đối đầu với bạn. Ở trong những tu viện,
thiền viện, những nơi ẩn tu hạng nhất mà tôi đã từng
ở tại Á châu, người ta nói,"không vào hang hùm sao bắt được
cọp."
NGƯỜI HỎI THỨ TƯ: Nhưng
làm cách nào để biết là mình tóm bắt được cái đau?
LÃO SƯ: Trong tu tập thiền
định, qúi vị sẽ được dạy nhiều phương pháp để giải
quyết cái đau. Sau đây là một cách được sử dụng ở một
số thiền viện bên Nhật-- vào lúc thời tiết ấm áp khi
muỗi nhiều dầy đặc nhất vào lúc sáng sớm và lúc hoàng
hôn; các trưởng tăng thường đặt nhang muỗi giữa hai người
ngồi. Tuy nhiên thỉnh thoảng nhang này không hoạt động và
muỗi giống như một đoàn quân xâm lược hung dữ, lao vào
đánh chén. Bạn không dám đưa tay đuổi vì các trưởng tăng
đứng phía sau để canh chừng không cho bạn động đậy. Tất
cả mọi tư niệm tấn công vào tâm bạn. Bạn đột nhiên
nhớ ra rằng trong sách nói muỗi truyền bệnh sốt rét và
nếu chúng cắn bạn với một số lượng lớn bạn có thể
bị nhiểm bệnh này. Thật ra, cái đau mà bạn cảm thấy phát
xuất từ ý niệm lo sợ về những gì có thể xảy ra với
bạn hơn là bị chúng cắn. Nhưng không có cách nào thoát khỏi
những con muỗi đói và sau một lúc quằn quại bạn thường
làm những gì mà các trưởng tăng thúc đẩy bạn phải thực
hiện-- nhập thành một với việc cắn. Rồi ồ! Một phép
mầu xảy ra! Bạn không còn cảm thấy nó nữa. Chúng đang
cắn nhưng không còn người bị cắn. Bạn biến mất--không
còn gì để cắn!
Từ đó bạn biết rằng không
có một thứ gì có thể đe dọa tâm bạn, nếu bạn trở nên
là một với nó. Vào lúc bạn trở nên ít quyến luyến với
thân hơn khi sự thật chìm xuống, càng theo đuổi đeo bám
víu vào sự thoả mãn những thú vui của các giác quan, cuối
cùng bạn phải chịu đựng càng nhiều đau khổ.
NGƯỜI HỎI THỨ TƯ: Cho rằng
chúng ta cần thiết học cách đối phó với cái đau, nhưng
không còn cách nào khác để tránh nguy hại cho sức khỏe sao?
LÃO SƯ: " Phương pháp muỗi"
chỉ là một trong nhiều cách. Nếu bản thân bạn tiếp xúc,
va chạm với nổi đau bằng ý chí khổ hạnh để làm mình
chai đi khiến bạn sẽ mạnh mẽ hơn những người khác, hay
thực hành khổ hạnh vì một động lực khác, sự đau đớn
trở nên vô nghĩa. Nhưng nếu mục tiêu của bạn cao thượng
hơn, trong sáng hơn nhưng không có cách nào khác để đạt
những mục tiêu ấy ngoài việc trải qua đau đớn, tất nhiên
bạn phải chấp nhận đau khổ.
NGƯỜI HỎI THỨ TƯ: Lão sư,
thầy không cảm thấy bực tức khi các lão tăng đã gây ra
đau đớn cho thầy lúc tu ở Nhật sao?
LÃO SƯ: Ðau đớn là một điều
kỳ diệu. Những vị thầy mà bạn luôn nhớ tới với tấm
lòng biết ơn không phải là những vị thầy dễ dãi với
bạn, mà là người mỗi lúc mỗi tạo sự khó khăn đau đớn
cho bạn. Sau hai mươi lăm năm, tôi vẫn còn biết ơn một vị
trưởng tăng, người thức suốt đêm trong một buổi nhiếp
tâm khuyến khích tôi bằng gậy. Thức-bảng là một miếng
gỗ dẹp dài khoản sáu đến chín tấc, được dùng trong các
thiền viện Trung hoa và Nhật từ nhiều thế kỷ qua để kích
động năng lực của người ngồi toạ thiền, buộc người
ấy phải hết sức tập trung tinh thần. Mỗi bên vai bị đánh
hai lần ở huyệt nhằm kích thích năng lực vô hình. Tôi đã
ở tu viện suốt sáu tháng và đó là đêm cuối cùng của
tháng thứ sáu--tột điểm--của khóa nhiếp tâm. Sau buổi
tọa thiền chính thức lúc chín giờ tối. Tôi tìm một cái
ghế ọp ẹp để đa tọa ( ngồi đêm cuối cùng) trong nhà
tắm. Tôi gần như ngồi chưa yên thì ngọn roi quất cạch
mạnh vào vai tôi. Vị trưởng tăng đã đứng trên tôi tự
lúc nào, ông là người coi sóc tôi từ khi tôi mới bước
chân vào tu viện, người mà tôi cảm thấy đặc biệt gần
gũi. Mặc dù rất bận rộn vì nhu cầu công việc, ông cũng
giống như những trưởng tăng khác thường đi ngủ lúc mười
hay mười một giờ đêm, nhưng hôm nay vì lòng từ bi sâu sắc
nhất ông bỏ cả ngủ để thúc tôi bằng roi. Giờ đầu tiên
trôi qua, rồi giờ thứ hai, nhưng ông ta không ngớt đánh.
Khi đêm tàn dần ông bám theo tôi làm việc không mệt mỏi;
khi cái đau ở chân, do ôm quanh những chân ghế bén cạnh,
trở nên tồi tệ hơn cái đau ở vai và lưng. Cuối cùng tôi
cũng đã vượt qua tất cả bằng sự mệt mỏi kiệt sức
và tôi bất tỉnh. Khi mở mắt ra có một vị sư đứng cạnh
tôi, thay vì cầm roi, là một bát trứng tươi; tôi uống sạch.
" Ngày kế tiếp sẽ bắt đầu
trong nữa giờ nữa," ông nói, " anh có thể nghỉ ngơi cho đến
lúc đó," chúng tôi nhìn nhau và ôm nhau yên lặng.
Sau khóa nhiếp tâm tôi hỏi
vị trưởng tăng, " Nếu tôi bị yếu tim và chết từ trận
thử thách bằng gậy suốt đêm đó thì sao! Ông không xem những
báo nước ngoài đăng tải," Một người Mỹ trung niên bị
đánh chết ở thiền viện Nhật bản hay sao? Thiền ở phương
Tây có lẽ đã chậm lại năm mươi năm, không kể tiếng vang
từ Nhật bản. Không phải ông đang quá mạo hiểm hay sao?
Ông ta tươi cười," Kapleau, anh mạnh mẽ hơn tôi tưởng."
Ðó là tất cả những gì ông nói.
Còn một điều khác mà vị
trưởng tăng này đã làm vẫn còn in nguyên trong trí nhớ của
tôi. Trong khóa nhiếp tâm ông thường làm phiên dịch tiếng
Anh cho lão sư. Nghi thức dành cho buổi tiếp xúc riêng với
lão sư ( độc tham) được qui định như sau: theo hiệu lệnh
phát ra, học viên xếp hàng ở ngoài phòng trong tư thế ngồi
xổm. Khi lão sư ở phòng trong run chuông đuổi người học
viên đã tiếp xúc xong ra, người kế tiếp đánh vào cái chuông
ở phía trước mình bằng cái búa gỗ và đi vào phòng.
Khi đến phiên tôi, vị tăng
phiên dịch đó vẫn đợi ở phi? sau tôi, tôi đánh chuông
theo sự ra dấu của lão sư, đặt cái búa xuống và đứng
dậy đi đến trước lão sư. Lúc đó vị tăng không báo trước
đánh mạnh vào phía sau tai tôi bằng nguyên mu bàn tay. Vì đau
và giận-- cái bản ngã--tôi quay lại vung tay đánh ông ta.
Ông ấy né rồi nắm cổ tay tôi, xoay và đẩy tôi về hướng
phòng độc tham. Khi tôi đứng trước lão sư, ông la lên:"
Tốt! Tốt!"-- đấy là những lời bằng lòng đầu tiên của
ông từ khi tôi đến tu viện. Cách tôi đối đáp ở buổi
độc tham trước đó thường là ngập ngừng hay trả lời
câu hỏi một cách thông thái. Nhưng bây giờ tôi thấy mình
trả lời một cách vô tâm--từ trong lòng chứ không phải
từ cái đầu--và rõ ràng là lão sư bằng lòng. Giai đoạn
này có lợi ích kéo dài. Tôi nhận ra mình hoạt động ở
mức năng lực cao hơn, và ở những buổi độc tham tôi không
còn sợ lão sư nữa. Ở những tình huống khác nữa, tôi có
thể trả lời với nhận thức sắc bén hơn.
Có nhiều giai đoạn đau đớn
khác giúp tôi rất nhiều nhưng tôi không làm qúi vị nặng
trỉu vì chúng.
NGƯỜI HỎI THỨ NĂM: NHư vậy,
nếu không trải qua tất cả cái đau như thế, ắt hẳn thầy
đã không thể làm được việc gì phải không?
LÃO SƯ: Trước khi đến với
thiền, tôi là người bê tha tự đại. Tôi làm những gì tôi
thích, theo đuổi những thú vui của mình, dửng dưng với những
hệ quả của nó trên cuộc đời những kẻ khác. Thay vì làm
chủ cuộc sống của mình, tôi là nô lệ của nó mà không
hề biết. Nhưng thầy dạy thiền biết điều đó, có những
phán đoán sắc sảo về cá tính như thật, họ đối xử tôi
đúng như tôi mong muốn. Ngoài việc làm cho tôi hiểu về mình
điều mà trước đây tôi chưa hề biết, cách đối xử này
ban cho tôi hạnh khiêm cung cần thiết. Hơn hết, cái đau có
thể làm điều đó cho bạn miễn là bạn không bực tức nó.
NGƯỜI HỎI THỨ SÁU:Lão sư,
thầy có muốn làm lại điều ấy không?
LÃO SƯ: Anh nên hiểu rằng
mọi cái do nghiệp, nếu không có nghiệp cần thiết cho tôi
đi Nhật thì tôi đã không đi, tôi cũng không ở lại lâu
như tôi đã làm. Và các bạn cũng không có mặt ở đây hôm
nay. Nếu đó không là nghiệp của qúi vị--và của tôi nữa.
Cũng giống như vậy, bây giờ và trước tôi cũng hiểu rằng
đau khổ cần thiết cho sự trưởng thành và phát triển, tất
cả qúi vị phải thấy điều đó cần thiết trong việc tu
tập thiền định.
NGƯỜI HỎI THỨ SÁU: Lão sư,
thầy có bao giờ được giới thiệu đi Nhật để nghiên cứu
thiền hay không?
LÃO SƯ: Ở đất ta ngày nay
có nhiều thầy dạy thiền có năng lực và những trung tâm
huấn luyện thiền tốt. Năm 1953, khi tôi ra đi, tôi không biết
đến những nơi như vậy ở phương Tây.
MỘT GIỌNG NÓI: Hẳn là thầy
có một nghiệp khá xấu nên cần phải đi đến Nhật để
nhận lãnh tất cả nổi đau đó.
MỘT GIỌNG NÓI: Có nghiệp
hay không có nghiệp, tôi sẽ không bao giờ đi và chịu đựng
đau khổ như thế.
LÃO SƯ: Vì tôi đã đi rồi
nên không ai trong qúi vị cần phải đi.
24 TÁNH KHÔNG LÀ GÌ?
NGƯỜI HỎI: Tánh không trong
Phật giáo là gì? Theo sách nói nó là trống không, và chỉ
thế thôi. Vậy câu " Sắc tức thị không, không tức thị
sắc" có ý nghĩa gì?
LÃO SƯ: Giả sử anh là một
nghệ nhân đồ bạc, và anh muốn làm một tượng Phật nhỏ.
Khi bạc của anh bị nấu chảy, nó có khả năng trở thành
một vật gì đó. Ðó là tính không. Rồi anh rót kim loại
nóng chảy vào khuôn và nó cứng lại--đó là sắc. Nhưng bây
giờ sau khi anh hình thành tượng Phật, anh lại không thỏa
mãn với nó, nên muốn làm một cái gì khác cũng từ số bạc
đó. Vì vậy, anh nấu chảy tượng và bạc trở thành vô (sắc)
dạng. Chính yếu là tánh không này không khác với sắc.
Ðừng quên, tất cả những
điều đó chỉ là một kiểu quan niệm, không phải là một
vật thật. Vậy hãy cho tôi biết làm cách nào bạn nắm được
tánh không như một cái gì cụ thể? Ði tới phiá trước và
chỉ cho tôi thấy đi!
NGƯỜI HỎI[đi đến lão sư]:
Cách này [ nắm vào hư không]
LÃO SƯ: Không phải thế, như
thế này này. [chỉ bằng tay]
NGƯỜI HỎI : Ôi cha!
LÃO SƯ: Tánh không, dù sao cũng
chỉ là sắc, phải không?