II LÁ THƯ
VÀ LỜI ÐÁP
"THIỀN LÀM TÔI MẤT KHÍ
THẾ"
Lão sư thân mến, lá thư này
là kết quả của nhiều tháng lo âu về vấn đề mà tôi cho
là tự nó sẽ biến mất đi hay tôi có thể giải quyết nó
bằng một cách nào đó. Nhưng dường như không có gì xảy
ra, vì vậy tôi viết thư này với hi vọng là thầy có thể
giúp tôi hiểu rõ về vấn đề này.
Vấn đề căn bản của tôi
là khiá cạnh " tôn giáo" của Thiền làm tôi mất khí thế.
Tôi không hiểu rõ về Phật, Bồ tát, thiên đàng và địa
ngục theo vũ trụ quan của Phật giáo, sáu cõi và các khái
niệm hoa mỹ của kinh điển có liên quan gì đến công việc
đơn giản trong sáng tìm ra ta là ai.
Thiền thu hút tôi từ đầu
vì nó quá giản đơn , trực tiếp, cắt qua những trừu tượng
và ảo tưởng để có một cái nhìn rõ về chân lý. Không
nhảm nhí, chỉ toạ thiền. Nhưng từ khi tôi đến Trung tâm,
ở đó ngày càng nhiều nghi lễ và tụng niệm mà tôi hoàn
toàn không thể quen được.
Toàn bộ thời gian tôi đều
tham gia việc cúng kính hay tụng niệm nên khó tiếp tục toạ
thiền. Tôi cảm thấy dường như mình đang ở trong một cuốn
phim nói về một khuynh hướng tôn giáo xa lạ nào đó. Tôi
cho rằng nhiều người khác cũng có một tưởng chung như vậy,
và điều đó tạo cho tôi cái loại cảm giác ngượng ngập
gò bó đối với những cuộc lễ.
Có lẽ những vấn đề của
tôi bắt nguồn từ đức tin hồi bé vào Thiên chúa giáo chính
thống. Suốt nhiều năm về trước tôi là một con chiên ngoan
đạo và có đức tin đa cảm trước khi những nghi ngờ của
tuổi thanh niên phơi bày sự đạo đức giả và trống rỗng
thô thiển của giáo hội chúng tôi. Tôi phải thừa nhận là
đôi khi Bát nhã tâm kinh làm tôi xúc động đến phát khóc
và điều này làm tôi giận vì tình cảm của tôi phản lại
tôi trước đây. Cúi lạy trước Phật trong thiền đường
cũng làm tôi bối rối. Ðiều này chỉ có ý nghĩa với tôi
khi cúi lạy thầy, người mà tôi cảm thất biết ơn và kính
trọng sâu sắc. Vái chào các đồng đạo của mình sau mỗi
buổi toạ thiền cũng là một điều hay. Nhưng tôi không cảm
thấy có mối quan hệ gần gũi trực tiếp với những bức
tượng mạ vàng trên bàn thờ, nó không như cái cảm giác
của tôi đối với thầy và tăng chúng. Ðiã bánh trái để
trước tượng Phật làm tôi muốn bật cười. Ai hưởng nó?
Nếu tất cả chúng ta là Phật, tại sao không chuyền nó khắp
thiền đường? Nếu mọi thứ là Phật, tại sao không chỉ
vái chào nhau hay vái chào một bông hoa, thay vì vái chào một
tượng (đất) nào đó. Ðiều này chắc chắn phát sinh tình
cảm sùng bái hình tượng?
Mong thầy không cho rằng những
tình cảm này là hời hợt và ngắn ngủi. Chúng thấm sâu
vào tôi và dường như tạo ra vấn đề chính đối với tôi
trong lúc tập thiền ở Trung tâm. Có lần, một người bạn
tôi nhận xét về sức thu hút của Thiền Phật giáo là," Ta
có thể chấp nhận thiền nhưng không theo Phật giáo." Ở đây,
tại Trung tâm ít nhất nó không như vậy. Tại sao" Thiền tôn
giáo " là điều cần thiết? Làm cách nào tôi có thể thôi
nhìn nó như một sự gây xao lãng và phiền toái và sử dụng
nó để phát hiện ra tôi là ai?
Thân mến
Carol.
THƯ TRẢ LỜI.
Carol thân mế?, lá thư thành
thật và thẳng thắn của cô đã khiến tôi ngồi thẳng lưng
để suy nghĩ về những điều nằm phía sau khía cạnh tụng
niệm của Thiền, và về những lý do mà trước đây tôi tự
nguyện để làm những điều bây giờ trở thành tự nhiên
như ăn khi đói, nghỉ khi mệt. Tình cảm cô diễn tả về"
Thiền tôn giáo" cũng đã được tôi viết hai lăm năm về
trước, vì vậy tôi thông cảm với cô
Trước khi tôi đến Nhật để
tu Thiền, tôi đã đọc và nghiên cứu con đường triết lý
đến với thiền của Tiến sĩ Suzuki và của những học giả
khác. Tôi bị sốc và ngạc nhiên quá đổi, sau khi thật sự
đặt chân vào một thiền viện, nhận ra mình bị bao quanh
bởi những tượng Phật, Bồ tát, lọt thỏm vào những tụng
niệm và các nghi lễ khác, tất cả gây cho tôi ấn tượng
là nó kỳ lạ và không giống thiền. Giống như cô, tôi tự
nhủ," Những nghi thức này có liên quan gì đến chân lý của
con người tôi? Cần gì phải có những bông hoa, trái cây trên
bàn thờ khi toạ thiền?
Tôi hãy còn nhớ rõ mồn một
lần đầu tiên tôi đến trước thầy tôi ở buổi độc tham,
cô biết đấy, có thói quen qùi lạy trước lão sư như dấu
hiệu của sự kính trọng và khiêm cung. Nhưng thật là trái
với ý muốn tự nhiên của tôi và vô cùng miễn cưỡng! Tại
sao tôi phải cúi lạy một người khác? Không phải chúng ta
đều bình đẳng được phú cho Phật tánh hay sao? Tại sao
ông ta không cuối lạy tôi? Dù sao đi nữa tất cả điều
đó có liên quan gì đến Thiền?
Thầy tôi biết rõ những ý
nghĩ đó trong tôi, không nói gì, nhìn cách tôi quì lạy khó
khăn ở mỗi buổi độc tham với nụ cười thích thú. Rồi
một hôm khi tôi lại vụn về hơn trong khi cố gắng để quì
lạy bình thường, ông đột nhiên nói với tôi," Này Kapleau,
khi anh quì lạy trong buổi độc tham, anh không quì lạy tôi
mà đang quì lạy chính Phật tánh của anh."
"À! Vậy là tôi không lạy
ông ta, tôi lạy chính tôi! Thật khác thường." Kể từ đó
về sau việc lạy trở nên dễ dàng hơn, nhưng nhiều năm trôi
qua--những năm tháng quỳ lạy trước Phật-- chướng ngại
cuối cùng của tôi và Phật biến mất.
Không lâu sau khi được khai
thị ở cuối buổi độc tham, tôi có gặp một vị sư thông
tuệ, người mà tôi có thể đàm luận thoải mái những vấn
đề mà tôi không thể nói với bổn sư của tôi. Tôi đưa
chuyện này ra hỏi ông ta.
" Ý chỉ của việc cúng dường
và lạy Phật là gì? Những thứ mà tôi đọc và nghiên cứu
về Thiền không hề nói đến chuyện các thiền sư Trung hoa
nào làm như vậy."
" Anh có biết thiền sư Huỳnh
Bá (Huang Po) không?"
"Dĩ nhiên là có."
" MỖi khi cúng dường Phật
xong, ngài đãnh lễ rất khẩn thiết, đầu đập xuống sàn,
và nó tạo ra một dấu đỏ vĩnh viễn trên trán. Ðiều này
không có trong những dịch bản tiếng Anh về Thiền, nhưng
nếu anh đi tới bất cứ thiền viện nào và đưa ra mối nghi
này về việc đãnh lễ thì sẽ được kể cho nghe câu chuyện
này.
Carol thân mến, cô hỏi trong
thiền, khía cạnh nào của tụng niệm có liên quan đến" công
việc đơn giản trong sáng tìm ra ta là ai." Thật ra, trong cách
lạy toàn tâm như vậy, Huỳnh Bá đang hùng hồn tuyên bố
mình là ai, khẳng định thiết tánh (essential nature) của mình
và Phật không hai. Ngay lúc quì lạy Ðức Phật, ông cúng dường
kết quả tọa thiền của mình với tấm lòng biết ơn vì
sự từ bi của Ðức Phật mà khiến cho việc tu tập có hiệu
quả. Nếu ông chiêm ngưỡng tượng Phật như một bức tượng
điêu khắc hợp thời, thẩm mỹ, sự qui phục đó mới có
thể thật sự gọi là sùng bái thánh tượng, vì như thế,
hẳn là ông chỉ tỏ lòng tôn kính một phần nhỏ --sắc tướng--
của cái tổng thể. Hơn nữa, lạy trong vô niệm nghĩa là
thổi một luồng sinh khí vào cho tượng Phật. Cái mà trước
đây chỉ là một ảnh tượng, bây giờ trở thành một thực
thể sống động phi thường xoá đi trong ông cái nhận thức
Ta và Phật lúc qùy lạy. Chừng nào chúng ta nhận ra rằng
Chơn Phật là Tự Phật, thì người lạy và kẻ được lạy
không phải là hai, hành động này không phải là hành động
sùng bái thánh tượng.
Sự tụng niệm của Huỳnh
Bá được thực hiện với nhận thức sâu do ngộ mà có. Lễ
lạy một cách thành tâm là nguồn nuôi dưỡng tinh thần mà
mọi người ngộ hay chưa ngộ có thể khai thác. Khi việc tu
tập của cô trở nên thuần tục, cảm giác kính trọng, biết
ơn, và khiêm cung với Phật, giáo lý của ngài, và những ai
thực hành giáo lý đó, sẽ trở nên mạnh hơn và tìm cách
diễn đạt tự nhiên. Chính niềm mong muốn và nhu cầu này
đã làm" cánh buồm của ngã nằm ngang" trong hành động vô
ngã khi lễ lạy.
Vậy, hoa là Phật, cô Carol
ơi, nhưng có bao giờ cô thử thường xuyên cúi lạy một chậu
hoa không? Chẳng bao lâu hành động ấy thoái hóa và biế tướng
để chỉ trở thành một bài tập thể dục thẩm mỹ, và
nghịch lý thay, có ảnh hưởng làm ta quan tâm đến cái ngã
nhiều hơn thay vì ít đi. Hơn nữa, cúi lạy một cách vô ngã
trước tượng Phật giúp ta hướng tới sự hiểu biết trực
tiếp và cảm kích cái tâm cao quí của chư Phật. Ðiều này
tạo nên thiện duyên với chư Phật, một mối dây ràng buộc
với Phật-nghiệp thúc đẩy ta tinh tấn tu tập.
Sự bối rối và khó chịu
của cô về việc làm thức ăn cúng dường trên bàn thờ cũng
là ý nghĩa chung của những người mới bước chân vào cửa
thiền, đặc biệt là những người có tâm ưa biện luận
văn chương. Nhưng không phải vấn đề đã nằm sẵn trong
ý tưởng đó hay sao? Có gì cho là không tự nhiên khi chúng
ta diễn tả lòng biết ơn? Biểu lộ lòng biết ơn không chỉ
bằng ý nghĩ hay lời nói mà có thể với những gì cụ thể
như hương, đăng, hoa, quả. Diễn tả những tình cảm cụ
thể như vậy--tất cả đều có ý nghĩa. Những nghi thức,
lễ lạc có nội dung thâm thuý đàng sau nó, cho phép ta duyên
dáng bày tỏ những tình cảm như vậy; làm khác đi chúng ta
sẽ thất bại.
Cô hỏi," Ai ăn những thức
cúng?" làm tôi nhớ đến một câu chuyện có liên quan. Một
người Hoa và một người Cáp-ca, cả hai, đồng đến viếng
mộ người thân nằm kế nhau trong nghĩa trang. Khi người Cáp-ca
đặt bó hoa lên nắm mộ nơi anh ta đứng, anh ta nhìn sang bên
người Hoa đang cúng kế bên, không phải hoa mà là cơm và
bánh. Người Cáp-ca quay sang với nụ cười châm chọc hỏi,"
Khi nào người thân của ông lên ăn những thứ đó?" người
Hoa đáp lể," Khi nào người thân của ông lên ngửi hoa kia?"
Hãy nhận ra tầm quan trọng
của chính tượng Phật; nó không chỉ là biểu tượng bằng
gỗ hay kim loại. Tất cả tượng Phật nguyên thủy là sự
biểu lộ chân tánh sống động của chúng ta, tỏa ra sự cân
đối và thư thái, nhạy cảm và từ bi, dũng mãnh và nhất
quán sẵn có trong mỗi chúng ta. Trong tác phẩm "Nhật ký du
hành của một triết gia" Bá tước Keyserling nhận xét," Tôi
không biế? trong cỏi đời này có gì lớn hơn tượng phật;
nó là hiện thân hoàn hảo tuyệt đối, với tính tôn giáo
thiêng liêng trong lĩnh vực hữu hình."
Tượng Phật nguyên thủy là
tác phẩm của cầu nguyện và thiền định. Nhiệm vụ của
người tạo tượng là thể hiện những đường nét tiêu biểu
của người khổng lồ trong vóc dáng của những người bình
thường. Ðể thành công trong việc tạo ra một tác phẩm như
vậy, nhà điêu khắc phải bám chặc vào đời sống tôn giáo,
ít nhất là trong thời gian làm tượng. Chỉ có thông qua tham
thiền sâu, ông ta mới có được cái tâm thanh tịnh sáng suốt
mà công việc đòi hỏi. Tượng được tạo bởi một con người
như vậy chắc chắn sẽ hấp thu những rung động hiếm có
của ông ta và sau đó sẽ truyền lại những rung động đó
cho những ai có tấm lòng kính tín trước tượng.
Chất lượng của tượng Phật
về căn bản không phải là vấn đề thẩm mỹ mà là sự
tôn nghiêm. Những tượng nguyên thủy chẳng may lọt vào bàn
tay cẩu thả của người mua bán tranh tượng, sẽ bị mất
đi thần lực của nó. Cũng không tốt hơn bao nhiêu khi được
lưu trữ ở viện bảo tàng, dù có sự chăm sóc cẩn thận,
vì nó không được sùng bái về mặt tâm linh. Nhưng khi tượng
" đã sống" một thời gian trong tu viện, đền, chùa hay trung
tâm Phật giáo, được nuôi dưỡng bởi Thiền vị thì nó
có một sự tỉnh lặng sâu và hào quang sáng chói, đó là
chưa kể đến giá trị mỹ học của nó. Ðược phú cho năng
lực to lớn gợi hứng cho những ai tiếp nhận nó, tượng
sẽ trực tiếp nói với họ một cách uy lực. Có lẽ nó không
là một bảo vật nghệ thuật nhưng nếu nó được trân trọng
gìn giữ và thánh hóa như một biểu tượng tôn giáo, thì
gía trị của nó không thể đo lường được.
Ngoài tượng Phật ra còn có
tượng của các Bồ tát và các phẩm vật cúng dường, tất
cả biểu lộ một cách sinh động và rõ ràng giáo lý căn
bản của Ðức Phật. Không, vô thường, nhất quán, từ bi--những
phẩm chất này có tất cả ở đó.
Theo chân đế thì các tượng
Phật quá ư là xằng bậy, vì nó ngụ ý miêu tả cái vượt
lên trên tất cả các sắc tướng. Thế còn tất cả tranh
in, tranh vẻ, tranh tường, tranh khắc về Phật thì sao? Thiền
sư Bạch ẩn nói," Trong thực tế, chư Phật và Bồ tát không
có sắc tướng, nên con người với tâm duy vật không thể
nhận biết được. Các ngài được hình tượng hoá là vì
nhu cầu của chúng sinh. Ðể nhận dạng chư Phật con người
chúng ta cần phải làm như thế thông qua sắc tướng, hình
dạng cụ thể. Không có những biểu tượng như vậy, tâm
Phật của ta, đối với nhiều người, sẽ là một cái gì
đó xa xôi, lạnh lẽo, trừu tượng--hoàn toàn không thể nắm
bắt được.
Ước gì hôm lễ Tạ ơn vừa
rồi cô có thể đến dự ở Tự Dạ ( Temple Night), Carol ạ.
Cũng như mọi năm, đây là một dịp để vân tập tất cả
thánh tượng về Phật đường để cho đại chúng chiêm bái
như họ muốn trong một khung cảnh không nghi thức. Thật là
một dịp quần tụ! Trên bàn thờ chính là Ðấng toàn năng,
Ðại Nhật Như Lai.Như một ngọn hải đăng đang toả sáng
đẩy lùi bóng tối vô minh, tượng của ngài ngồi điềm tỉnh
nhưng toả ra một sự rung động diệu kỳ, mắt nhìn xuống
với tia nhìn rực rỡ như vượt lên trên niềm hỷ lạc, lên
trên cái-biết và cái-không-biết. Cách đó không xa là tượng
Bồ Ðề Ðạt Ma sừng sửng như núi, đôi mắt mở to nhìn
trừng trừng một cách đáng sợ, tia mắt biểu lộ một sự
cương quyết. Hẳn ngài cũng ngửi thấy mùi nhang thơm đang
cháy. Và dĩ nhiên có tượng của vị cổ Phật Quán Thế Âm
trong dáng điệu dịu dàng, từ bi đang dang tay ra với đại
chúng đang cúi lạy dâng cúng hoa quả trước ngài.
Bầu không khí tịch tịnh đầy
sinh lực lan toả khắp Phật đường và dường như ánh sáng.
Thứ ánh sáng này hoà với lời tụng niệm du dương trầm
lắng tạo ra một nhất thể ánh sáng-âm thanh-con người. Rồi
đột nhiên bốn lời thệ nguyện vang lên như thúc dục, nghiêm
trang, âm thanh dường như phát ra từ những bức tường và
trần nhà: Chúng sinh vô biên thề nguyện độ …" chầm chậm
tập trung sức lực và xung lực. Tiếp theo là Tâm kinh với
phần kết thúc thúc "Yết đế, yết đế…" rồi đồng loạt,
như được dẫn dắt bởi một lực vô hình, đại chúng nhất
tề đứng dậy và đi nhiễu quanh, ngoằn ngoèo từ góc này
đến góc kia của Phật đường giống như những đốt xương
của một cột sống duy nhất. "OM MUNI-MUNI- MAHA-MUNI-SHAKYA-MUNI-SVAHA!
OM MUNI MUNI…" lập đi lập lại--lời tụng dường như phát
ra từ mặt đất--cái âm thanh vô thanh thay vì làm vỡ tan sự
tỉnh lặng lại tăng cường thêm cho nó" OM MUNI-MUNI…" Nó
thống nhất những người tụng trong một làn sóng nhận thức
vượt lên trên niệm-xúc. Âm thanh thần chú trau chuốt tâm,
mài nhọn tâm và làm nó trở về với chính nó. Về sau, có
người kể lại rằng ông ta vô cùng xúc động bởi âm thanh
này, và lần đầu tiên ông nhận ra sức mạnh của tụng niệm,
nó khiển con người vượt qua tất cả niệm tưởng để đi
vào cảnh giới vô niệm. Những người khác thuật lại tương
tự như vậy.
Cô Carol thân mến, còn có rất
nhiều điều kể về chư Phật, Bồ tát, sáu cõi, kinh điển,
nhưng như vầy có lẽ đã đủ. Tôi đã viết qúa dài vì cô
là hội viên thường trực đáng quí.
Thân ái
P.K