Trong
sách của Carlos Castenada, Don Juan nói mỗi người chúng ta cần
phải sống như một dũng sĩ. Hình ảnh một người dũng sĩ
rung động sâu xa với kinh nghiệm thiền quán. Người dũng
sĩ đối diện với mọi hoàn cảnh của cuộc đời như là
những thử thách, anh ta đối phó một cách vẹn toàn mà không
bao giờ than van hay hối hận. Theo đa số chúng ta thì giá trị
của mỗi người tùy thuộc vào sự phê phán, chấp nhận của
những người chung quanh; đối với người dũng sĩ, giá trị
nằm ở sự toàn thiện của chính mình. Toàn thiện có nghĩa
là sống trong chánh niệm một cách trọn vẹn và tinh mật.
Những gì ta đang cố thực hiện ở đây là tự tìm hiểu
mình, một điều cao quý nhất mà một người có thể làm
được. Công việc này khó, hiếm hoi và đòi hỏi một sự
toàn thiện. Nhưng ta không cần phải bỏ nơi này để đi đến
một sa mạc hoang vu hay một hang động nào đó trên dãy Hy
mã lạp sơn. Ta chỉ cần trau dồi những đức tánh tốt nào
có khả năng đem lại cho ta một sự thức tỉnh trọn vẹn
trong từng giây từng phút.
Trong
câu chuyện Siddhartha, Herman Hesse có kể lại một hình ảnh
rất đẹp của một người dũng sĩ, hơi khác hình ảnh của
Carlos và Don Juan. Trong chuyện này, Siddhartha kể rằng sự luyện
tập giúp cho anh có được ba quyền năng: anh có thể suy nghĩ,
anh có thể chờ đợi và anh có thể nhịn ăn. Ba đặc tính
của tâm, ba đức tính của một dũng dĩ. Khả năng suy nghĩ
ở đây có nghĩa là sáng suốt, tỉnh táo, không hoang mang,
bối rối về việc đang xảy đến với ta. Trên phương diện
thân thể - nó có nghĩa là ý thức được oai nghi, hơi thở
của mình, thấy được những động tác của các hiện tượng
vật lý, biết điều độ trong sự ăn uống, ngủ nghỉ của
mình. Duy trì sự cân bằng giữa các năng lực trong thân. Trên
phương diện tâm thức - nó có nghĩa là ý thức được tình
cảm, tư tưởng và những trạng thái khác nhau trong tâm. Không
bị lôi cuốn theo cơn lốc xoáy của tư tưởng, lúc nào cũng
giữ được sự an tĩnh, cân bằng trong tâm mình.
Khả
năng suy nghĩ của Siddhartha cũng bao giờ gồm cả lòng can đảm:
không bị nô lệ vào thành kiến và những cố chấp của mình.
Can đảm đủ để cởi mở quan niệm của mình ra để chấp
nhận những điều có thể được khác. Siddhartha không bao
giờ tin mù quáng vào một điều gì hết. Anh ta không tin ở
bạn bè, ở cha mẹ mình, ở các vị thầy hay ngay chính cả
nơi đức Phật. Anh muốn phải tự chính mình chứng nghiệm
được chân lý, và nhờ động lực này mà anh đã can đảm
mở rộng tư tưởng của mình ra khám nghiệm tất cả. Siddhartha
đã bỏ vào rừng trong vòng ba năm trời, để tu theo lối khổ
hạnh, ép xác, rồi anh ta lại vui sống với Kamala một cô
gái giang hồ hạng sang, hoặc tham gia vào chốn thương trường
bon chen, lừa lọc. Anh ta lúc nào cũng sẵn sàng và có đủ
can đảm để chấp nhận thử thách và bằng lòng với mọi
hậu quả. Anh không để những sự phân biệt nhỏ nhoi làm
nãn chí mình. Khả năng suy nghĩ bao gồm sự sáng suốt và
lòng cam đảm dùng để trực tiếp kinh nghiệm, thăm dò và
quán sát những sự việc đang xảy ra.
Lòng
can đảm của một dũng sĩ là một điều cần thiết, cũng
như nó sẽ được khai triển trên con đường thiền quán.
Ngồi với cơn đau của mình mà không tránh né hay trốn chạy,
đòi hỏi một sự can đảm, dám thẳng mặt đối diện với
nó để vượt qua nỗi sợ hãi của chính mình. Sự quán chiếu
này cần một sự can đảm không nhỏ, nhưng nhờ vậy ta mới
có thể khám phá, hiểu được những sự thật sâu xa của
thân và tâm mình. Lúc đầu nó sẽ rất là động loạn, vì
những thói quen thường ngày của ta bị xáo trộn. Phải can
đảm lắm ta mới có thể buông bỏ tất cả những gì mà
ta hằng nắm giữ cho sự an ninh của mình. Hãy xả bỏ, để
kinh nghiệm được dòng vô thường. Phải có can đảm ta mới
dám đối diện và đương đầu với nỗi bất an căn bản
và cố hữu của tiến trình thân tâm. Ðể đối diện với
sự thật, là chúng ta đang tàn hoại trong mỗi giây phút, không
có một nơi nào để ẩn náo. Phải có can đảm mới chết
được. Kinh nghiệm về sự chết của cái Ngã; kinh nghiệm
được cái chết trong khi mình vẫn còn sống, cần một lòng
cam đảm, vô úy của một đại dũng sĩ.
Siddhartha
có thể suy nghĩ, chờ đợi và nhịn ăn. Chờ đợi có nghĩa
là kiên nhẫn và thinh lặng. Nó có nghĩa là không bị lôi
cuốn vào hành động chỉ vì lòng ái dục. Nếu chúng ta không
có khả năng chờ đợi, mỗi khi ham muốn khởi lên, nó sẽ
dẫn đến hành động. Và rồi ta lại bị trôi lăn theo vòng
bánh xe của ái dục. Ðôi khi người ta thường lầm lẫn chờ
đợi với lại bất động, không làm gì cả. Hoàn toàn không
phải như vậy. Trang Tử có viết:
Sự
bất động của người trí không phải là không làm gì hết.
Mà có nghĩa là không tính toán. Nó không bị lay chuyển bởi
bất cứ một việc gì. Bậc thánh nhân an tĩnh vì họ không
động, chứ không phải vì họ cố ý làm an tĩnh. Nước lặng
giống như gương... một mặt phẳng hoàn toàn. Nếu nước
thật trong và thật phẳng, thì tâm của bậc thánh nhân cũng
thế. Tâm của người trí luôn luôn thanh thản, nó là tấm
gương của trời đất, vạn vật. Vắng lặng, an tĩnh, thanh
thản... thinh lặng, bất động - đây là lãnh vực của trời
đất. Nó chính là Ðạo. Bậc trí tìm nơi đây chỗ an nghỉ
cho họ. Khi an nghỉ, họ sống vắng lặng.
Chờ
đợi có nghĩa là sự tĩnh lặng của tâm, trong bất kỳ một
hoạt động nào. Nếu chúng ta cứ lo bận rộn đi "hoằng pháp",
ta sẽ không có được một cái nhìn rõ ràng, ta sẽ không
thể nhận được rằng sức mạnh và sự hiểu biết phát
sinh từ sự thinh lặng, và nhất là ta sẽ không ngừng được
sự đối thoại trong nội tâm của mình, ta sẽ trở thành
tù nhân của mớ văn tự, chữ nghĩa. Chúng ngăn chận không
cho ta liên lạc với thế giới chung quanh một cách cởi mở
và tự nhiên. Thế giới chung quanh khác biệt với những khái
niệm và thành kiến của ta nhiều lắm. Chấm dứt những đối
thoại trong nội tâm của mình là khả năng chờ đợi và lắng
nghe.
Chính
vì nhờ lắng nghe con tim mình, mà Siddhartha đã rời cha mình
để đi vào con đường khổ hạnh, và rồi từ giả rừng
sâu để trở về với thế giới trần tục của thương mại
và tình yêu. Nhưng dần dà sự lắng nghe của anh ta bị trở
nên mờ ám vì những đam mê, khoái lạc của sắc dục. Cho
đến một lúc anh không còn nghe gì được nữa. Trong sự tuyệt
vọng cùng cực, anh ta lê chân đến bên một dòng sông, định
tự trầm mình. Lúc ấy anh bỗng nghe từ dưới dòng sông,
từ đáy hồn anh, âm thanh "AUM" vang dội. Anh quyết định ở
lại với dòng sông. Vài năm sau, anh lại bắt đầu biết lắng
nghe và biết đợi chờ.
Siddhartha
lắng nghe. Chàng bắt đầu chú tâm lắng nghe, miệt mài trong
thinh lặng. Chàng hấp thụ tất cả. Chàng cảm thấy rằng,
bây giờ mình đã hoàn toàn học được nghệ thuật lắng
nghe. Những âm thanh này chàng đã nghe chúng từ xưa, những
tiếng gọi khác nhau của dòng sông. Nhưng hôm nay chúng mang
một vẻ khác biệt. Chàng không còn có thể phân biệt giữa
những tiếng gọi khác nhau được nữa, tiếng vui ca với tiếng
than thở, tiếng trẻ thơ với lại tiếng trưởng thành. Tất
cả đều lệ thuộc vào nhau. Tiếng than vãn của nhưng ai sầu
khổ, tiếng cười vang của người trí tuệ, tiếng khóc la
của kẻ phẩn uất và tiếng rên rĩ của người đang hấp
hối. Tất cả đều dựa vào nhau, dính chặt, quấn quýt, đan
dệt vào nhau trong ngàn đường lối. Tất cả những tiếng
gọi, những mục đích, những lời than, những muộn phiền,
những niềm vui, mọi điều ác và thiện, tất cả đều hòa
hợp lại trong thế gian này, trong dòng biến cố và âm nhạc
của cuộc sống. Siddartha miệt mài lắng nghe dòng sông, theo
bài ca muôn ngàn tiếng hát, khi chàng không chỉ lắng nghe theo
tiếng khóc hay tiếng cười, chàng không chỉ lắng nghe một
âm thanh duy nhất nào, nhưng là lắng nghe tất cả, một thực
thể đồng nhất - khi bài ca của ngàn tiếng hát tụ hội
lại trong một chữ - trọn vẹn.
Quyền
năng thứ ba của Siddhartha là nhịn ăn. Nhịn ăn ở đây có
nghĩa là buông xả, từ bỏ, nhân nhượng. Nó cũng có nghĩa
là năng lực, tinh tấn và sức mạnh. Sự từ bỏ đem lại
cho tâm ta một sức mạnh và sự thanh nhẹ. Phần đông thường
cho rằng sự buông bỏ hay nhịn ăn là nguồn gốc của khổ
đau, mà quên đi sự an lạc, đơn giản mà nó có thể đem
lại cho tâm hồn. Vì lúc ấy ta không còn bị ràng buộc, chi
phối bởi những ái dục không cần thiết. Chúng ta đâu cần
đến một cố gắng siêu phàm nào mới có thể thực hành
được sự từ bỏ. Ta chỉ cần cố gắng vượt qua những
lôi cuốn và thói quen thường ngày mà thôi. Khi ta thực hành
được điều này, ta sẽ kinh nghiệm được sự thênh thang,
tươi mát của tâm hồn mình vì đã từ bỏ được những
dính mắc và quyến luyến.
Nhịn
ăn cũng có nghĩa là sự đơn giản. Một trong những niềm
vui khi tôi còn tu tập ở Ấn Ðộ - mặc dù gặp nhiều khó
khăn trong các vấn đề sức khỏe, thực phẩm và tiện nghi
- là sự giản dị trong cuộc sống của mình. Nó không bị
ngăn trở bởi nhiều việc làm ta nhức đầu như ở Hoa Kỳ.
Những khách du lịch đi ngang qua thường thắc mắc, không hiểu
nổi làm sao mà chúng tôi lại có thể "từ bỏ" được nhiều
nhu cầu đến thế - điện, nước nóng, tiện nghi, vì họ
không hiểu được sự thoải mái của một đời sống đời
sống giản dị. Từ ở sự đơn giản trong cuộc sống của
mình, vì không còn chiếm hữu nhiều, dẫn ta đến một sự
toại nguyện và an lạc.
Nhịn
ăn, từ bỏ. Chúng ta có thể kinh nghiệm được sự buông
bỏ trong cuộc sống của mình qua hành động bố thí, qua việc
giữ giới luật, qua sự lìa xa những gì đã hằng trói buộc
ta. Vấn đề từ bỏ xảy ra trên nhiều lãnh vực, không chỉ
riêng trong sự liên hệ của mình với những người khác hay
những vật chung quanh. Ðạo Lão có danh từ "trai tâm" để
diễn tả một hoàn toàn trong sự từ bỏ của nội tâm. Trang
Tử viết:
Hãy
chuyên tâm nhất chí. Ðừng nghe bằng tai, mà nghe bằng lòng.
Ðừng nghe bằng lòng, mà nghe bằng khí. Ðiều gì mình nghe,
hãy để nó dừng ở ngoài tai, còn lòng thì hợp nhất nó
lại. Khí, là cái Hư không để mà tiếp nhận sự vật. Chỉ
có sự trống không mới nhận được Ðạo mà thôi. Sự trai
tâm có nghĩa là làm trống không mọi quan năng, tự do, không
còn bị giới hạn và bận tâm. Trai tâm sanh nên sự chuyên
tâm nhất chí và tự do.
Siddhartha
có khả năng suy nghĩ. Anh ta có thể chờ đợi. Anh ta có thể
nhịn ăn. Ðây là những đặc tính mà một dũng sĩ sẽ khai
triển, khi anh ta ý thức được một cách toàn vẹn con người
của chính mình. Khi bạn ngồi, khi bạn đi, khi bạn luôn luôn
hoàn toàn có ý thức trong một ngày, đây là những đặc tính
của sự giác ngộ.
Hỏi:
Don Juan có nói về quyền năng của cá nhân. Ðiều này có
liên hệ gì đến sự tu tập?
Ðáp:
Sức mạnh của tâm chính là quyền năng. Không phải một quyền
lực dùng để sai xử một cái gì bên ngoài, mà là quyền
lực của trí tuệ thông suốt, của sự hiểu biết. Do Juan
có nói rằng dù cho nếu anh có được nói cho nghe bí mật
của vũ trụ này, nó cũng sẽ là rỗng tuếch đối với anh,
cho đến khi nào anh có được đầy đủ quyền năng của mình.
Quyền năng ở đây có nghĩa là sức mạnh, sự kiên trì điều
đặn, khả năng quán chiếu và thấy được chân tướng của
sự vật. Quyền năng này sẽ khai triển khi định lực của
ta gia tăng. Khả năng quán chiếu sẽ đem đến trí tuệ. Với
sức mạnh của tâm linh, một chữ thôi cũng có thể mở ra
cho ta một trình độ hiểu biết mới. Trong những khóa tu như
vầy thì chính sự thực hành đều đặn, liên tục sẽ làm
phát triển loại quyền năng cá nhân đó.
Hỏi:
Có dấu hiệu nào trên con đường tu tập giúp ta phân biệt
được trực giác, trí tuệ với lại sự tưởng tượng không?
Ðáp:
Trực giác phát xuất từ một nội tâm tinh lặng, còn tưởng
tượng là thuộc về những khái niệm. Hai cái đó khác biệt
nhau nhiều lắm. Ðó là lý do vì sao mà sự phát triển trí
tuệ không bao giờ đến bằng sự suy nghĩ về sự vật. Nó
chỉ đến bằng sự tu tập một nội tâm im lặng, để từ
đó mà một cái nhìn, một cái thấy sáng tỏ có thể xảy
ra. Tất cả mọi phát triển của trí tuệ, của sự hiểu
biết chỉ xuất hiện vào những khi tâm ta im lặng. Rồi bất
ngờ: "À, thì ra sự thật là như vậy!" Trong truyền thống
Zen của thiền sư Hoàng phố, ông có nói về giác ngộ như
là một sự hiểu biết đột ngột, thoát ra khỏi mọi ngôn
từ. Những trực nhận ấy có một giá trị đặc biệt, vì
nó không phải là sản phẩm của óc suy nghĩ hay tưởng tượng
mà là một sự vỡ lẽ bất ngờ, đột nhiên thấy được
chân tướng của sự vật.
Hỏi:
Trong sự tu tập, việc sử dụng tâm để thăm dò, quan sát
một đối tượng và việc ý thức mà không cần chọn lựa
một đối tượng nào, liên hệ với nhau ra sao?
Ðáp:
Có nhiều phương pháp phát triển trí tuệ bằng cách chọn
một ý thức có đề mục. Chúng ta có thể tập trung sự chú
ý vào các mặt khác nhau của tiến trình, như là oai nghi của
thân thể, cảm thọ nơi thân hay tâm thức của mình. Chọn
đối tượng như là một phương tiện để khám sát một lãnh
vực đặc biệt nào đó, thì rồi nó cũng trở thành một
ý thức không có sự chọn lựa. Khi ấy hành giả chỉ ngồi
yên quan sát và ghi nhận những gì đang xảy ra mà hoàn toàn
không phê phán, quyến luyến hay ghét bỏ. Ðôi khi hành giả
quá tĩ mĩ trong sự tu tập, cứ luôn tìm kiếm một quy luật
để theo, sợ thực hành sai. Trí tuệ phát xuất từ sự chánh
niệm và tỉnh thức, cho dù ta có ý thức được điều ấy
hay không. Không bao giờ có chuyện chánh niệm "sai" hết. Hãy
đào luyện tâm mình, đào luyện đức tánh quan sát khám phá
này. Hãy nhìn cho thật sâu xa, để thấy được tư tưởng
của mình sinh lên từ chỗ trống không rồi tàn hoại vào
chỗ trống không. Còn khi quán sát cái đau, phải dám trực
diện nó. Thực tập với một thái độ vô úy, không sợ hãi,
không suy nghĩ về một điều gì, chỉ bằng một ý thức im
lặng. Tâm ta có thể uốn nắn được rất dễ dàng. Cũng
như một miếng đất sét dùng để làm chén bát, nó rất mềm
dẻo và nhồi nắn được. Khi ý thức và định lực của
ta phát triển, tâm ta sẽ có được tính cách uyển chuyển
và dễ vận dụng như thế. Hãy thám hiểm tất cả mọi khía
cạnh của tiến trình thân tâm. Khi tôi còn ở Ấn Ðộ, tôi
sống tên tầng thứ hai của một tu viện. Mỗi ngày tôi thường
đi lên xuống thang lầu nhiều lần, những khi ấy tôi hay quan
sát cử động máy móc của động tác bước lên từng bực
thang, đầu gối tôi chuyển động ra sao, sức nặng của tôi
dời đổi như thế nào. Nó là một tiến trình rất ngộ nghỉnh.
Mọi sinh hoạt khác của ta cũng cần phải được chú tâm
theo dõi kỹ càng như vậy. Và cũng có những lúc ta ngồi lại
và không làm gì hết, ý thức mà không cần chọn lựa một
đối tượng nào, quan sát những biến chuyển tự nhiên.
Hỏi:
Cái tiến trình thân và tâm này, nó bắt đầu từ lúc nào?
Ðáp:
Có một câu chuyện về người bị bắn một mũi tên có tẩm
thuốc độc. Bạn anh ta gọi một vị thầy thuốc đến để
nhổ mũi tên ra và chữa trị cho anh. Nhưng anh lại nói: "Khoan
đã, ông đừng lấy nó ra vội. Tôi muốn biết ai đã bắn
mũi tên này, người ấy từ đâu đến, mũi tên ấy làm bằng
thân cây gì, đuôi của nó là lông của loài chim nào, màu
sắc ra sao..." Lẽ dĩ nhiên người ấy sẽ chết trước khi
anh ta được trả lời thoả mãn cho những thắc mắc ấy.
Cũng vậy, đức Phật cho rằng những câu hỏi triết học
về nguồn gốc vũ trụ, của thế giới, vì sao nó lại bắt
đầu... thì cũng giống như những câu hỏi của người bị
tên độc kia. Chúng ta đang bị kẹt trong một tình thế bất
an, tình thế của ta là một hiện tượng thâm tâm luôn bị
chi phối bởi những tham, sân, si và đau khổ. Phận sự của
ta là nhổ đi mũi tên độc ấy, giải thoát tâm mình ra khỏi
những tính chất khổ đau kia. Những câu hỏi có giá trị
là những câu hỏi có thể áp dụng vào những gì ta đang kinh
nghiệm ngay trong giờ phút này.
Hỏi:
Tại sao tham dục lại khởi lên
Ðáp:
Khi chúng ta tiếp xúc với những vật gì vừa ý, ta muốn bắt
giữ, mà không hiểu rõ tính chất vô thường của chúng. Vừa
khi chúng ta có chánh niệm, chú ý đến những gì đang xảy
ra, thấy được sự sanh diệt của mọi vật, thì lòng tham
dục, nắm bắt sẽ giảm đi. Chẳng có gì để ta nắm giữ
hết. Tất cả chỉ là bong bóng nước. Kinh nghiệm được
lý vô thường, sự tàn hoại của mọi vật, sẽ đưa ta đến
sự buông bỏ, một trạng thái không dính mắc. Tất cả đều
có được nhờ ở chánh niệm, nhờ ở sự toàn vẹn của
chính ta.
Trở
thành một dũng sĩ là một chuyện vô cùng cao thượng. Chẳng
một ai có thể làm công việc ấy dùm cho ta được. Mỗi người
tự mình làm công việc ấy. Hãy ý thức trong mỗi giây phút,
chú ý đến những gì đang xảy ra một cách trọn vẹn. Không
có gì là huyền bí cả, phương pháp tu tập thật là đơn
giản, trực tiếp và ngay thật, nhưng nó đòi hỏi sự thực
tập. Thiền quán chỉ có nghĩa là vậy thôi.
Bài
Đọc Thêm:
Giới
Thiệu về Thiền Vipassana
Thực
tập Thiền Minh Sát
Những
Bài Giảng Tóm Tắt của Khóa Thiền Minh Sát Mười Ngày
Bốn
Sự Thật Nhiệm Mầu, Joseph Goldstein-Nguyễn Duy Nhiên dịch
Tứ
Như ý Túc, Joseph Goldstein-Nguyễn Duy Nhiên dịch