Mark
Twain có kể câu chuyện về một người được sanh lên thiên
đàng. Khi anh ta đến nơi, người ta ban cho anh một đôi cánh
và một cây thụ cầm. Những ngày đầu, anh dùng đôi cánh
của mình để bay đi đây đó, và mỗi khi muốn nghe nhạc
trên cõi trời, anh chỉ cầm cây thụ cầm của mình lên gảy.
Nhưng sau một thời gian, cả hai thứ ấy trở thành một gánh
nặng cho anh. Cuối cùng anh khám phá ra rằng trên trời mình
không cần đến đôi cánh để đi đây đó, và chỉ cần khởi
ý muốn, là tự nhiên những nhạc công trên trời sẽ hiện
ra và bắt đầu hòa tấu nhạc cho mình nghe. Sau cùng anh ta
bỏ đôi cánh và cây thụ cầm xuống, và anh thật sự bắt
đầu vui chơi.
Cũng
vậy, chúng ta đôi khi tự giới hạn chính mình bằng những
ý niệm về vấn đề trong sạch và hạnh phúc. Chúng ta tự
mang lên trên người những đôi cánh, cây đàn, hào quang không
cần thiết, khi nghĩ rằng hạnh phúc có nghĩa là phải có
một cái gì hay là phải hành động theo một đường lối
đặc biệt nào đó. Khi chúng ta dẹp qua một bên những quan
niệm hẹp hòi của mình, ta sẽ có thể bắt đầu kinh nghiệm
được những niềm vui sâu xa hơn.
Có
nhiều loại hạnh phúc khác nhau, chúng tùy thuộc vào mức
độ trong sạch của mình. Sắc dục hay là thú vui qua các giác
quan là loại hạnh phúc đầu tiên mà ta có thể cảm nhận
được: nhìn những cảnh đẹp, nghe những âm thanh êm tai,
ngữi nếm những mùi vị thơm ngon, có những cảm giác thoải
mái. Là con người, chúng ta ai cũng đã nhiều lần được
hưởng những thú vui này. Mặc dù chúng chỉ tạm bợ, nhung
chúng cũng đã đem lại cho ta một phần nào thú vị, hạnh
phúc thoải mái.
Lại
còn có một loại hạnh phúc sắc dục cao quý hơn được tả
lại trong kinh sách, về những cõi trời, nơi mà mọi vật
đều tuyệt mỹ và tươi mát. Dân chúng ở đây có thân làm
bằng ánh sáng, không bao giờ biết đau đớn hay khó chịu.
Mọi thú vui ham muốn đều được thỏa mãn. Nơi đây có những
lâu đài làm bằng ngọc quý, có những nhạc công thiên thần,
cùng tiên thánh và các hàng bồ tát. Kinh nói rằng đức bồ
tát Di Lặc, vị Phật tương lai, hiện đang ngự trị ở một
cõi trời như vầy và đang thuyết pháp cho dân ở đó nghe.
Hạnh phúc ở cõi thiên thứ thuộc vào loại cao quý hơn.
Con
đường đưa đến hạnh phúc trong sạch trong cõi Dục giới
là những hành động trong sạch,giai đoạn đầu tiên của
sụ tinh luyện. Những hành động trong sạch có nghĩa là thực
hành bố thí, trì giới, không chạy theo tham, sân, si. Những
hành động trong sạch này là nhân sanh những quả tốt lành,
hạnh phúc, để cho ta được hưởng thụ cả trong hai cõi
người và trời.
Có
một loại hạnh phúc cao hơn cả hạnh phúc của cõi trời.
Ðó chính là sự hạnh phúc và an lạc của thiền định. Khi
tâm ta đã phát triển được một định lực cao độ, nó
sẽ có một niềm an lạc siêu diệu, vượt lên trên mọi khoái
lạc về sắc dục. Tâm ta lúc ấy không còn chạy theo những
đối tượng của các giác quan và hoàn toàn bị thu hút vào
một đề mục duy nhất. Hạnh phúc này vững bền hơn những
khoái lạc của các giác quan vì những hạnh phúc của sắc
dục đến và đi rất mau chóng.
Có
những trạng thái của tâm, có thể đạt đến qua sức mạnh
của thiền định, gọi là cõi Phạm, thiên hay cõi của Tứ
Vô Lượng Tâm. Chúng có tên gọi như vậy là vì phẩm chất
của tâm lúc đó tương đương với cõi trời Phạm Thiên,
một thế giới cao tột nhất mà ta có thể kinh nghiệm được.
- Vô
lượng tâm đầu tiên là lòng đại Từ. Từ ở đây không
có nghĩa là lòng thương người vì sự quyến luyến hay vì
chiếm hữu, mà là một tình thương phát xuất ở một lòng
đại từ, muốn cho chúng sanh khắp mọi nơi đều được an
lạc và hạnh phúc. Ở trạng thái này, tâm ta có một định
lực rất mạnh, nó có khả năng phóng tình thương vô tận
của mình đi khắp mọi phương hướng.
- Vô
lượng tâm thứ hai là lòng đại Bi, có nghĩa là lòng thương
xót mọi loại đang bi đau khổ - muốn làm vơi đi những nỗi
khổ của kẻ khác.
- Vô
lượng tâm thứ ba là lòng Hỷ, có nghĩa là chia xẻ nỗi mừng
với hạnh phúc, an lạc của kẻ khác, cảm thấy người khác
được hạnh phúc mà mình cũng cảm thấy được vui lây. So
với thói thường là, ngược lại, người ta thường hay ghen
tức, cạnh trạnh với hạnh phúc của kẻ khác. Một tâm biết
hân hoan với niềm vui của người khác thì sẽ tỏa sáng và
thanh nhẹ.
- Vô
lượng tâm cuối cùng là lòng Xả, có nghĩa là một tâm quân
bình, hoàn toàn không bị chi phối bởi những thăng trầm,
buồn vui của cuộc đời. Một tâm lúc nào cũng giữ được
sự quân bình và an ổn.
Hạnh
phúc của Tứ Vô Lượng Tâm: Từ, Bi, Hỷ, Xã, sẽ xuất hiện
khi định lực của ta được phát triển đầy đủ. Cũng như
là sự trong sạch của phẩm hạnh tùy thuộc vào hành động,
sự trong sạch của tâm tùy thuộc vào định lực của ta.
Nhưng
còn có một niềm hạnh phúc to tát bội phần hơn cả cõi
Phạm Thiên, là của thiền định. Ðó là hạnh phúc của Vipassana,
hạnh phúc của trí tuệ. Tâm thức đó có khả năng quán chiếu,
thẳm thấu vào tự thể của mọi vật, kinh nghiệm được
sự sanh diệt của mọi hiện tượng một cách rõ rệt. Hạnh
phúc của Vipassana bao giờ cũng siêu việt hơn tất cả, vì
trong nhận thức sáng suốt hành giả được nếm mùi vị của
tự do, giải thoát. Không phải chỉ đắm chìm trong những
khoái lạc của sắc dục, cũng không phải chỉ bị thu hút
vào trong một trạng thái an vui của thiền định. Niềm hạnh
phúc ở đây là của trí tuệ, khi tâm ta trở nên rực rỡ
và tri giác tỏa chiếu sự trong sáng của nó. Ðây cũng giống
như khi ta lau chùi một ly thủy tinh cho đến khi nó chiếu sáng
lấp lánh. Bằng sự tu tập chánh niệm, của Vipassana, tâm
ta cũng có thể đạt đến một sự rực rỡ như vậy, và
hưởng được niền an lạc vô biên bắt nguồn từ một trí
tuệ thâm sâu.
Có
một giai đoạn tinh luyện, gọi là quan niệm chân chánh, có
thể làm khởi lên hạnh phúc Vipassana. Quan niệm chân chánh
ở đây có nghĩa là thoát ra khỏi được ý niệm về một
cái Ngã, mê chấp rằng ta có một tự thể riêng biệt. Thật
ra chúng ta chỉ là một quá trình diễn tiến của thân và
tâm, luôn hoạt động và chuyển biến. Có một lần đức
Phật giảng một bài pháp gọi là "Tất cả". Bài kinh có tên
"Tất cả" vì ngài diễn tả mọi hiện tượng trong vỏn vẹn
sáu câu: "Mắt và đối tượng của mắt. Tai và âm thanh. Mũi
và mùi hương. Lưỡi và vị nếm. Thân và cảm giác. Tâm thức
và ý niệm hay những đối tượng của nó".
Tất
cả chỉ có vậy, ngoài những điều ấy không còn gì khác
hơn nữa. Ðức Phật thường hay nói rằng, cả thế giới
này chỉ hiện hữu trong phạm vi tâm thân dài mấy thước
này mà thôi. Hiểu được các giác quan căn bản và những
đối tượng của chúng, là ta hiểu được sự sanh diệt liên
tục của sáu thức: nhản, nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ý thức,
khi đối diện với các đối tượng của chúng là sáu trần.
Cả vũ trụ của ta chỉ là một tập hợp của những chuỗi
liên tục, xảy ra thật lẹ, của các sự nghe, thấy, ngữi,
nếm, cảm giác và kinh nghiệm những ý niệm khác nhau. Chỉ
có sáu đối tượng và sáu thức để nhận biết chúng: chúng
ta chỉ là một tiến trình liên tục này. Những sự kiện
ấy chẳng xảy đến cho một cá nhân nào hết. Không có một
tự thể riêng biệt nào để ta có thể gọi rằng: "cái này
chính là tôi", bởi vì mỗi thức và đối tượng của nó
sanh lên và diệt đi trong từng khoảnh khắc.
Ðức
Phật có diễn lại giáo lý này một cách thật cô đọng như
sau: Trong cái thấy, chỉ có cái bị thấy; trong cái nghe, chỉ
có cái bị nghe; trong cái cảm giác (ngữi, nếm, đụng chạm)
chỉ có cái bị cảm giác; trong cái suy nghĩ chỉ có cái bị
suy nghĩ". Không có gì ngoài những điều đó hết, hoàn toàn
không có một cá nhân nào để cho nó xảy đến.
Nghe,
thấy, ngữi, nếm, cảm giác ở thân, ý thức. Hiện hữu của
ta chỉ là một sự liên tục của sáu tiến trình này. Chúng
ta đặt tên cho sự vật rất nhiều. Có vô số ý niệm để
diễn tả những kinh nghiệm của mình. Nhưng mắt ta chỉ thấy
màu sắc và hình dáng, nó không thấy cái "tên gọi". Chúng
ta chỉ nghe âm thanh. Chúng ta đặt tên cho những âm thanh khác
khau, nhưng thật ra chúng chỉ là sự rung động trong không
khí chạm vào lỗ tai, khiến cho nhĩ thức khởi sanh lên. Một
liên lạc giản dị giữa nhân và quả. Chẳng có ai ở đó.
Sự việc xảy ra quá nhanh chóng, chúng gieo cho ta một ảo giác
là những việc ấy xảy đến cho một người nào. Khi tâm
ta yên lặng, ta sẽ bắt đầu kinh nghiệm được sự tinh luyện
trong nhận thức của mình, ta sẽ thấy rằng cái ta của mình
chỉ là một tiến trình của thức và trần, thoát ra ngoài
ý niệm về một tự thể riêng biệt. VÀ khi sự tinh luyện
được thâm sâu, chúng ta sẽ trở thành là một với dòng
biến chuyển, thay vì u mê đi níu kéo, chấp vào nó. Quan niệm
chân chánh có nghĩa là có một ý thức rõ ràng, nhìn sự vật
bằng chân tướng của nó, một bắt đầu cho cái nhìn biến
thể. Ðây chính là hạnh phúc đầu tiên của mùi vị giải
thoát.
Hiểu
được tự thân của sự vật là cánh cửa đi vào một hạnh
phúc cao tột nhất: niềm vui của Niết bàn, giác ngộ. Nơi
đây có một sự an tĩnh, nghỉ ngơi, tươi mát vượt ra ngoài
tiến trình thân tâm. Và một điều huyền diệu của giáo
pháp nữa là, mọi loại hạnh phúc sẽ xảy đến với ta khi
ta hướng về sự tự do cao tột nhất.
Hỏi:
Ông có thể diễn tả hạnh phúc của Niết bàn được không?
Ðáp:
Niết bàn có ba thứ hạnh phúc: Các hạnh phúc này được
coi như là những niềm vui khác nhau, phát xuất từ sự hoàn
toàn chấm dứt khổ đau.
Khi
tôi còn ở Ấn Ðộ, chúng tôi sống trên đỉnh một ngọn
núi, và cách đó một khoảng chừng nửa tiếng đi bộ, phía
dưới một dốc núi khá cao, là một khu chợ trời. Ở đây
đa số hàng hóa đều được chuyên chở bằng cách mang vác
trên lưng. Có một số các bà lão người Tây Tạng, mang trên
lưng những thân cây thật to, leo lên núi mỗi ngày. Họ lê
từng bước, uốn cong người xuống, vác gánh nặng trên lưng
đi lên dốc. Bạn hãy tưởng tượng đến sự nhẹ nhàng,
thoải mái của họ khi lên đến nơi và bỏ gánh nặng xuống!
Một cảm giác thư thái vô cùng, khi ta có thể trút bỏ đi
gánh nặng ấy.
Hạnh
phúc của Niết bàn là trút bỏ được gánh nặng của khổ
đau. Ðây là một hạnh phúc cao tột nhất. Hiểu được con
đường phải đi và kinh nghiệm giác ngộ ra sao, có lẽ ta
cũng nên biết qua về những hạnh phúc khác nhau của Niết
bàn và các hoạt động của chúng.
- Hạnh
phúc đầu tiên hết là hạnh phúc do sự tích lũy của trí
tuệ và chánh kiến, được gọi là con đường Tâm thức.
Ðây mới chỉ là một cái nhìn thoáng qua, một kinh nghiệm
đầu tiên của Niết bàn. Con đường tâm thức này có công
dụng nhổ tung hết mọi gốc rễ của khổ đau như sấm sét.
Ở đây ta không đè nén khổ đau như trong khi thiền định,
nhưng là nhổ bứng tận gốc rễ, bức tung mọi xiềng xích
trong tâm. Trong giai đoạn này ta diệt trừ được ba sợi dây
xiềng xích hằng trói buộc ta vào vòng sanh tử luân hồi từ
bấy lâu nay. Chúng là sự hoài nghi, mê tín vào những hình
thức, lễ nghi (như là một phưong tiện dẫn đến giác ngộ)
và chấp Ngã. Ba chướng ngại này sẽ bị loại trừ ra khỏi
tâm ta một cách chớp nhoáng, bằng con đường Tâm thức với
đối tượng là Niết bàn.
- Ngay
tiếp sau đó là loại hạnh phúc Niết bàn thứ hai, được
gọi là Quả Tâm thức. Ta kinh nghiệm quả trái của con đường
tu, mà đối tượng cũng là Niết bàn. Trong giai đoạn kết
quả, không có gì để ta nhổ bứng, những việc ấy đã được
hoàn tất trong giai đoạn thứ nhất. Giai đoạn kết quả này
là lúc mà ta kinh nghiệm được sự an lạc của Niết bàn.
Những ai có một định lực kiên cố, có thể đi vào trạng
thái quả Niết bàn này bất cứ khi nào họ muốn. Họ ngồi
xuống và có thể tự ý đi vào trong trạng thái này, hay trụ
ở đây trong vòng nửa tiếng, một tiếng hay một vài ngày.
Kinh nói rằng người ta có thể trụ trong sự an lạc của
Niết bàn trong thời gian tối đa là bảy ngày mỗi lần. Yên
lặng, tươi mát, xả bỏ, tự do. Một khi ta ra khỏi trạng
thái quả trái ấy, vì tâm vẫn còn vướng víu những sự
bất thiện khác, ta vẫn phải tiếp tục đi theo con đường
thiền quán. Cũng giống như những gì chúng ta đang làm bây
giờ đây, sự thực hành được tiếp tục. Bạn thấy được
sự sanh diệt của mọi hiện tượng, bạn đi qua những trạng
thái khác nhau. Bạn kinh nghiệm được giai đoạn tâm thức
thứ hai, nó diệt thêm một số điều bất thiện trong tâm.
Có tất cả bốn giai đoạn tâm thức, mỗi giai đoạn sẽ
lần lượt thay phiên nhau cắt đứt những sợi dây xiềng
xích, hằng trói buộc ta vào bánh xe sanh tử luân hồi.
- Niết
bàn cao tột nhất được gọi là Ðại Niết bàn (Parinirvana),
trạng thái của một người đã hoàn toàn giác ngộ đi đến
sau khi chết. Sẽ không còn luân hồi, không còn nhiên liệu,
không còn ái dục để tái sanh. Nó cũng giống như một ngọn
lửa đang bừng bừng cháy, giờ đã hoàn toàn bi dập tắt.
Ngọn lửa thiêu đốt đã tắt, giờ chỉ còn một trạng thái
an lạc, yên lặng, và tươi mát. Một hạnh phúc cao tột nhất.
Ðôi khi có người lại sợ đi đến Niết bàn sớm quá, họ
muốn được coi thêm vài cuốn phim nữa, được hưởng thêm
một chút sắc dục nữa, hay là được ở trên cõi trời lâu
thêm một chút. Nhưng nếu bạn nhắm mục tiêu vào một hạnh
phúc cao thượng nhất, thì mọi thứ hạnh phúc khác tự nhiên
cũng sẽ đến.
Hỏi:
Có thể nào chúng ta đang làm người rồi kiếp sau bị sanh
làm thú vật hay không? Có cách nào sinh trở lại làm người
được không?
Ðáp:
Lý do kiếp người vô cùng quý giá là bởi vì khi ta bị sanh
vào một cõi thấp, sẽ rất khó để sanh trở lại vào một
kiếp cao hơn. Vấn đề không phải là không thể được, nhưng
thời gian sẽ rát là lâu. Ðức Phật có kể một thí dụ
như sau để cho ta thấy khoảng thời gian ấy. Giả sử như
có một con rùa mù mắt, sống ở dưới đáy một đại dương.
Trên mặt đại dương, đâu đó có một chiếc vòng bằng gổ
nổi trôi bấp bênh đây đó theo chiều gió. Cứ mỗi một
trăm năm con rùa ấy trồi lên mặt nước một lần. Cơ hội
để con rùa áy có thể đút đầu vào chiếc vòng bằng gổ,
nhiều hơn là cơ hội ta có thể được tái sinh làm người.
Ðây là lý do vì sao được sanh làm người là một điều
vô cùng quý giá, vì vậy ta không nên hoang phí nó đi.
Hỏi:
Tôi thấy rất khó có thể hiểu được làm cách nào mà ta
có thể biết được những gì xảy ra trước khi sanh và sau
khi chết?
Ðáp:
Có hai cách để hiểu điều này. Một cách mà ta có thể dễ
dàng liên nghĩ tới được là hiểu rõ tiến trình hoạt động
của các hiện tượng trong mỗi giây phút. Sự sanh ra và hoại
đi đang xảy ra liên tục, tâm thức của ta đang khởi lên
và diệt đi không ngừng. Sự hoại diệt của tâm thức chính
là cái chết. Không có một cái gì của tâm thức đó được
đem qua giai đoạn kế tiếp hết. Qua kinh nghiệm của trí tuệ,
bằng thiền quán,ta có thể đạt được một kinh nghiệm nhứt
thời của sanh tử. Nó sẽ giúp cho ta có được một trực
nhận về sự sanh diệt của tâm thức xảy ra giống y hệt
như thế. Trong khi tu tập thiền định, với một định lực
mãnh liệt ta có thể làm phát triển một số thần thông.
Có nhiều đạo sĩ trong các tôn giáo khác đã tu luyện được
những thần thông này. Một trong những thần thông ấy là
không những ta có khả năng nhìn thấy được những cõi khác,
mà còn thấy được những sinh linh đang sanh tử luân hồi.
Có người có được loạithiên nhản này. Vị thầy của tôi,
khi bàn về vấn đề này, thường đi vào chi tiết, diễn tả
những cõi trời khác nhau, và những thần thông phép lạ mà
người ta có thể làm được. Nhưng bao giờ ông cũng kết
luận bằng câu: "Các ông không cần phải tin tôi. Sự thật
là như vậy đó, nhưng không ai bắt buộc các ông phải tin".
Không một tín ngưỡng nào cần phải được chấp nhận trên
con đường thiền quán để tự hiểu mình. Trí tuệ đến
bằng một phưong pháp giản dị là biết ý thức được sự
vật một cách chính xác và thâm sâu, thoát ra khỏi mọi thành
kiến và ý niệm có sẵn.
Bài
Đọc Thêm:
Giới
Thiệu về Thiền Vipassana
Thực
tập Thiền Minh Sát
Những
Bài Giảng Tóm Tắt của Khóa Thiền Minh Sát Mười Ngày
Bốn
Sự Thật Nhiệm Mầu, Joseph Goldstein-Nguyễn Duy Nhiên dịch
Tứ
Như ý Túc, Joseph Goldstein-Nguyễn Duy Nhiên dịch