Mở
đầu cho mỗi kỳ tu học là truyền thống quy y Tam bảo cho
mỗi thiền sinh. Quy y có nghĩa là trở về nương tựa. Tam
bảo có nghĩa là Phật, Pháp và Tăng. Quy y Phật có nghĩa là
nhìn nhận rằng trong chúng ta ai cũng có hạt giống giải thoát,
tỉnh thức. Nó cũng có nghĩa là trở về nương tựa nơi những
đức tính cao thượng của đức Phật như vô úy, trí tuệ,
từ bi. Trở về nương tựa Pháp có nghĩa là sống trong giáo
pháp của đức Phật, chân lý của mọi vật; tức là nhìn
nhận sự trở về với sự thật, để giáo pháp của đức
Phật được biểu hiện nơi tâm mình. Trở về nương tựa
Tăng có nghĩa là dựa vào sự nuôi dưỡng về tinh thần lẫn
vật chất của những người có cùng một chí hướng, cùng
giúp đở, hướng dẫn nhau trên con đường tỉnh thức và
giải thoát.
Một
nền tảng tối cần thiết cho việc tu tập thiền quán là
giữ gìn một số giới luật. Giới luật là một phương thức
để duy trì sự trong sạch căn bản cho thân thể, lời nói
và ý nghĩ. Năm giới luật mà hành giả phải cố gắng giữ
là: không sát hại, có nghĩa là không được giết hại bất
cứ một sinh mạng nào, ngay cả con muỗi hay con kiến; không
trộm cắp, có nghĩa là không được lấy những gì không phải
là của mình; không tà dâm, ở đây trong khóa tu này thì nó
có nghĩa là giữ cho mình được trong sạch; không nói láo
hay nói những lời mà mình không biết chắc, không được
nói những lời ác độc, gây chia rẽ; không uống rượu và
sử dụng các chất ma túy. Năm giới luật này sẽ giúp cho
ta có được một nền móng vững chắc để phát triển định
lực, và từ đó sẽ phát sinh trí tuệ.
Chúng
ta có cơ hội ngồi chung với nhau hôm nay, để quán chiếu
lại chính mình trong một khung cảnh yên lặng và tĩnh mịch
này, là một điều vô cùng quý báu. Thật là hiếm mà có
một dịp để bỏ ra trọn một tháng để hành thiền, để
tìm lại con người của mình, tìm hiểu coi mình là ai. Ðể
giúp cho sự tu tập của mình được quân bình và nghiêm trang,
hành giả nên có một số những đức tánh sau đây.
Ðiều
thứ nhất là đức kiên nhẫn. Sẽ có những lúc mà ngày tháng
dường như dài bất tận, và hành giả sẽ tự hỏi mình,
nhất là vào những lúc bốn giờ rưỡi sáng trong ngày lạnh
trời: ta làm gì ở chốn này đây! Trên con đường tu tập
thiền quán sẽ có rất nhiều thăng trầm. Có những khi hành
giả sẽ cảm thấy nhẹ nhàng, an lạc, tươi mát và sáng suốt.
Rồi cũng có những lúc hành giả chỉ cảm thấy sự nhàm
chán, đau đớn, bất an và nghi ngờ. Ðức kiên nhẫn sẽ giúp
hành giả giữ cho tâm mình được quân bình khi trải qua những
kinh nghiệm này. Có người hỏi Trungpa Rinpoche rằng: "Trong
đạo Phật, thần sủng (grace) nằm ở chỗ nào?". Ông trả
lời "thần sủng" chính là đức kiên nhẫn. Nếu chúng ta có
một tâm kiên nhẫn, chân như của mọi vật sẽ tuần tự
phơi bày trong ta một cách tự nhiên và có tầng lớp. Kiên
nhẫn có nghĩa là giữ một tâm quân bình cho dù bất cứ chuyện
gì xảy ra, một tâm thoải mái, nhẹ nhàng và có ý thức.
Milarepa,
vị Du già Tây Tạng nổi tiếng, khuyên các đệ tử của ngài
phải "vội vã một cách chậm chạp". Vội vã ở đây có nghĩa
là cố gắng một cách liên tục, không suy chuyển. Nhưng phải
biết cố gắng với một tâm thức trầm tỉnh và cân bằng.
Hãy kiên trì và cố gắng nhưng bao giờ cũng phải giữ cho
mình được thoải mái và thăng bằng.
Một
yếu tố khác có thể giúp cho sự thiền quán của hành giả
được thâm sâu là giữ thinh lặng. Chúng ta thường không
bao giờ có dịp quán sát những gì đang xảy ra trong tâm của
mình vì hay nói chuyện. Nói chuyện thường làm xao lãng sự
chú ý và tiêu hao năng lực của mình. Những năng lực mà
ta bảo tồn được bằng cách giữ im lặng, có thể được
dùng để khai triển sự tỉnh thức và chánh niệm của mình.
Cũng giống như phương pháp hành thiền, sự thinh lặng phải
được thực hành một cách tự nhiên và thoải mái. Nhưng
đó không có nghĩa là ta muốn nói chuyện lúc nào cũng được,
mà là phải biết sống một ngày ý thức trong thinh lặng.
Nếu ta giữ được sự thinh lặng, mọi hoạt động, thay đổi
về tâm lý, vật lý trong ta sẽ trở nên vô cùng rõ rệt.
Sự thinh lặng trong ngôn ngữ sẽ dẫn đến sự thinh lặng
trong tâm hồn.
Mọi
sự giao thiệp, đụng chạm giữa bạn bè hay vợ chồng đều
nên giới hạn. Ta hãy tạo cho mình một ý niệm cô độc.
Muốn được như thế, ta hãy tạm bỏ qua một bên những dự
tưởng của mình về chính mình, về sự liên hệ với chung
quanh, về những người khác. Ta hãy dùng thời gian này để
kinh nghiệm lấy chính mình cho thật sâu sắc.
Mỗi
người chúng ta, ai rồi cũng sẽ từ giã cuộc đời này một
mình. Cho nên ta hãy tập đối diện với sự cô đơn căn bản
ấy ngay từ bây giờ, hãy làm bạn với nó. Với sự hiểu
biết ấy, tâm ta sẽ trở nên vững chãi và an lạc. Khả năng
này có thể giúp cho ta sống hòa đồng, an vui với những người
chung quanh ta. Một khi ta có thể tự hiểu được mình, sự
liên hệ với thế giới bên ngoài sẽ trở nên dễ dàng hơn
và có đầy ý nghĩa.
Nhưng
để cho khóa thiền này được lợi ích, bạn không nên đem
pha trộn nhiều phương pháp thiền khác vào đây. Trong số
ở đây chắc có nhiều bạn đã thực hành nhiều phương pháp
của các trường phái khác nhau. Nhưng trong khóa thiền này
tôi xin bạn hãy chỉ tập trung tâm ý mình vào sự tu tập
Vipassana, hay thiền Minh Sát Tuệ. Chính nhờ sự luyện tập
chánh niệm mà trí tuệ phát sinh. Nội trong một tháng này,
bạn tập trung hết mọi cố gắng của mình vào công việc
thực tập chánh niệm trong mỗi giây phút, có được nhự
vậy sự tu tập của bạn sẽ khỏi bị nông cạn. Nếu mọi
cố gắng của bạn đều nhằm về một hướng, tâm của bạn
sẽ trở nên vô cùng mãnh liệt và thẳm thấu.
Hãy
từ tốn và chậm chạp lại. Ðiều này có một giá trị rất
lớn lao. Không có gì đáng để vội vã cả, không có một
chốn nào để tới, cũng chẳng có một việc gì khác để
làm, chỉ cần thong thả sống trong giờ phút hiện tại. Trong
phạm vi hoạt động hằng ngày, ta hãy giữ cho mình có một
tâm ý thật tỉnh thức, cẩn thận chú ý đến mọi cử động
của mình. Duy trì tâm ý thỉnh thức liên tục trong một thời
gian, sẽ giúp cho công phu thiền quán của ta càng ngày càng
thêm được thâm sâu.
Chúng
ta sẽ bắt đầu phương pháp ngồi thiền bằng cách đặt
chú ý của mình vào một đối tượng thiền quán giản dị:
quán niệm hơi thở. Hãy chọn một thế ngồi cho được thoải
mái, dễ chịu, giữ cho lưng được tương đối thẳng, nhưng
cũng không nên cố gắng quá. Nếu tư thế ngồi của ta bị
tù túng hay không ngay thẳng, chúng ta sẽ dễ dàng trở nên
khó chịu. Bạn cũng có thể ngồi trên một chiếc ghế nếu
bạn muốn. Ðiều quan trọng là đừng nên nhúc nhích nhiều
qua. Mắt nên nhắm, trừ khi bạn đã tập ngồi thiền mà mắt
hơi mở, và bạn muốn chọn cách ấy. Mắt mở cũng chỉ là
một phương cách để đặt ánh mắt vào một điểm nào đó,
rồi quên nó đi. Theo tôi thấy thì nhắm mắt lại một cách
thoải mái là dễ hơn hết. Nhưng bạn muốn sao cũng được.
Quán
niệm hơi thở có thể được thực hành bằng hai phương pháp.
Khi ta thở vào, bụng ta tự nhiên sẽ phồng lên và khi ta thở
ra nó sẽ xẹp xuống. Bạn hãy giữ sự chú ý của mình vào
cử động của bụng, không phải tưởng tượng cũng phải
hình ảnh hóa một cái gì hết, chỉ kinh nghiệm lấy cảm
giác của cử động lên xuống. Ðừng cố gắng kiểm soát
hơi thở bằng bất cứ một cách nào, chỉ giản dị giữ
sự chú ý của mình vào sự lên xuống của bụng.
Một
cách khác là chú ý đến hơi thở ra vào nơi mũi, giữ tâm
ý vào khoảng đầu mũi hay môi trên. Chú ý vào hơi thở như
một người giữ cổng đứng ngay cửa, biết đến sự ra vào
có mặt của mọi người. Ðừng theo hay dẫn hơi thở đi vào
trong người hay ra ngoài, cũng đừng kiểm soát hay ép buộc
hơi thở. Chỉ giản dị chú ý đến sự ra vào của hơi thở
khi nó đi ngang qua mũi. Trong giai đoạn đầu bạn nên niệm
nói thầm trong tâm "phồng, xẹp" hay "ra, vào". Phương cách
niệm này giúp tâm ý của ta ở với đối tượng thiền quán
của mình.
Trong
vài phút thực tập đầu bạn hãy thử coi đối tượng nào
rõ ràng đối với bạn nhất, sự lên xuống nơi bụng hay
sự ra vào của hơi thở nơi mũi. Rồi bạn hãy chọn lấy
một đối tượng và quyết định duy trì nó mãi, đừng thay
đổi tới lui. Có những lúc đối tượng của bạn sẽ trở
nên mù mờ khó phân biệt, bạn cũng đừng thay đổi và hy
vọng rằng đối tượng kia sẽ dễ dàng hơn. Một khi đã
quyết định chọn một đối tượng để thực hành thiền
quán rồi, bạn hãy duy trì và giữ nó cho đến cùng. Có những
lúc nó sẽ rõ ràng, có những lúc lờ mờ, có những lúc sâu
sắc, có những lúc nông cạn, có những lúc dài, có những
lúc ngắn. Nhưng bạn nên nhớ, đây không phải là một phương
pháp để tập thở; nó chính là bài thực tập đầu tiên
của chánh niệm.
Phương
pháp thiền hành được thực hiện bằng cách chú ý đến
các động tác dở lên, bước qua và đạp xuống của bàn
chân, trong mỗi bước. Bạn nên hoàn tất mỗi bước chân
một, trước khi bắt đầu dở bước kế tiếp. "Dở, bước,
đạp, dở, bước, đạp". Thật giản dị. Cũng vậy, đây
không phải là một bài tập thể dục. Ðây chính là một
bài thực tập chánh niệm. Hãy sử dụng những động tác
để phát triển một tâm ý tỉnh thức. Trong một ngày, bạn
nên nhớ rằng sẽ có những thay đổi. Ðôi khi bạn cảm thấy
muốn bước nhanh hơn, lại có lúc bạn thích đi thật chậm.
Bạn có thể niệm mỗi bước chân theo từng đơn vị một
như "bước, bước". Hay bạn có thể bắt đầu đi thiền hành
hơi nhanh, nhưng dần dần chậm lại, cho đến khi bạn có thể
chia từng bước ra thành ba động tác dở, bước, đạp. Hãy
thí nghiệm. Ðiều chủ yếu là có chánh niệm, ý thức rõ
ràng được những gì đang xảy ra.
Khi
đi kinh hành hai tay nên giữ yên ở phía trước, sau lưng hoặc
hai bên mình. Mắt nên nhìn về phía trước một chút, không
nên nhìn xuống dưới chân, điều này tránh cho bạn khỏi
bị lôi cuốn vào ý niệm "bước chân" khi đi kinh hành. Tất
cả mọi chú ý phải được tập trung vào kinh nghiệm của
từng cử động, nhận thức được cảm giác của mỗi động
tác dở, bước, đạp.
Ðây
là tờ chương trình để cho bạn có một khái niệm về sự
tiến hành của mỗi ngày.
04:30
- 05:00 = thức dậy.
05:00
- 06:30 = kinh hành, ngồi thiền.
06:30
- 07:30 = ăn sáng.
07:30
- 08:00 = kinh hành.
08:00
- 09:00 = ngồi thiền chung.
09:00
- 09:45 = kinh hành.
09:45
- 10:45 = ngồi thiền chung.
10:45
- 11:30 = kinh hành.
11:30
- 01:15 = ăn trưa và nghỉ ngơi.
01:15
- 02:00 = ngồi thiền chung.
02:00
- 02:45 = kinh hành.
02:45
- 03:45 = ngồi thiền chung.
03:45
- 05:00 = kinh hành, ngồi thiền.
05:00
- 05:30 = uống trà.
05:30
- 06:00 = kinh hành.
06:00
- 07:00 = ngồi thiền chung.
07:00
- 08:00 = pháp thoại.
08:00
- 08:45 = kinh hành.
08:45
- 09:45 = ngồi thiền chung.
09:45
- 10:00 = uống trà.
10:00
- 04:30 = ngủ.
Chương
trình sẽ được công bố. Trong những ngày hay tuần đầu,
bạn hãy cố gắng theo chương trình càng sát càng tốt. Dần
dà khi bạn đã quen với công phu tu tập liên tục, bạn sẽ
khám phá ra một nhịp độ thích hợp với mình. Hãy cố đi
kinh hành và ngồi thiền cho liên tục. Ăn trưa, uống trà và
mọi công việc khác đều phải được làm trong chánh niệm,
có ý thức. Sau một thời gian bạn có thể thích đi kinh hành
lâu hơn, một tiếng hay một tiếng rưỡi, rồi mới bắt đầu
ngồi. Có người lại thấy thích ngồi lâu hơn, có khi hai,
ba tiếng; lại có người thích công phu vào những giờ khuya.
Trong những thời gian tu tập ở Ấn Ðộ, tôi thường công
phu trong những giờ thật khuya khoắc: khoảng thời gian từ
nửa đêm cho đến ba giờ sáng, tôi cảm thấy rất im lặng
và thanh tịnh, rất thích hợp cho việc tu tập. Khi sức thiền
định mạnh ta sẽ thấy ít cần đến giấc ngủ. Chỉ đi
ngủ khi nào bạn cảm thấy mệt, chứ đừng vì thói quen đúng
giờ. Có thể đến một lúc, khi sức tu tập tiến triển đúng
mức, bạn sẽ không còn cảm thấy mệt mỏi và có khả năng
công phu ngày đêm. Hãy cảm lấy những gì hợp với sức bạn,
cố gắng tu tập nhưng nhớ đừng bao giờ gượng ép hay bó
buộc quá.
Thánh
Francis de Sales có viết:
Hãy
kiên nhẫn với tất cả mọi người, nhưng trên hơn hết,
là với chính anh. Tôi muốn nói là anh đừng có thối chí,
nản lòng về sự bất toàn của mình. Lúc nào cũng phải đứng
dậy với lòng can đảm mới. Tôi rất mừng là anh bắt đầu
mỗi ngày mới tinh. Bởi vì không có phương cách nào giúp
cho anh đạt đạo tốt hơn là biết khởi sự lại từ đầu,
và không bao giờ tự cho rằng mình đã làm quá đủ. Làm sao
anh có thể tha thứ lỗi của người láng giềng, nếu anh không
tha thứ lỗi cho chính anh. Người nào cứ mãi bứt rứt về
lỗi lầm của mình sẽ không bao giờ sửa nó được. Tất
cả những sự sửa sai có ích đều đến từ một tâm hồn
bình thản, an lạc.
Bài
Đọc Thêm:
Giới
Thiệu về Thiền Vipassana
Thực
tập Thiền Minh Sát
Những
Bài Giảng Tóm Tắt của Khóa Thiền Minh Sát Mười Ngày
Bốn
Sự Thật Nhiệm Mầu, Joseph Goldstein-Nguyễn Duy Nhiên dịch
Tứ
Như ý Túc, Joseph Goldstein-Nguyễn Duy Nhiên dịch