Trong
đạo Lão có một câu chuyện về một thân cây mọc trên rừng.
Cây ấy già và cong queo, các cành đèu cằn cội và đầy những
u bướu. Có người đi ngang qua và phê bình với Trang Tử rằng
cây ấy thật là vô dụng, vì thân và cành đều cong vòng,
khúc khuỷu cho nên không thể dùng vào việc gì được hết.
Trang
Tử đáp:
- Cây
trên núi là tự vời người đến đốn phá. Mỡ chứa lửa
là tự làm cho mình bị thiêu đốt. Cây quế ăn được nên
bị chặt. Cây sơn dùng được nên bị cắt. Người biết
dùng cái dùng được, mà không ai biết dùng cái không dùng
được.
Sự
vô dụng của cây là yếu tố bảo vệ cho nó. Vì không ai
cần nó nên chẳng ai đốn xuống, nhờ vậy mà nó được
yên thân, sống thọ, hưởng trọn kiếp thiên nhiên của mình.
"Không
mấy ai biết dùng cái không dùng được". Vô dụng có nghĩa
là gì? Nó có nghĩa là rỗng không, không nỗ lực để trở
thành một cái gì quan trọng, hay bất cứ một cái gì khác,
giải thoát tâm mình ra khỏi tư tưởng mong cầu. Trở nên
vô dụng có nghĩa là ổn định xuống và để cho tự tính
của mình được phát hiện một cách giản dị và tự nhiên.
Có
một vị sư nổi tiếng ở Thái Lan đã tóm tắt thái độ
này, và có lẽ trọn vẹn cả giáo pháp trong một câu ngắn
gọn. Ông ta nói: "Không có gì để trở thành, không có gì
để làm, không có gì để giữ". Chẳng có gì là quan trọng
hết. Mọi vật đều vô thường và luôn luôn trôi chảy, chuyển
hóa. Nếu chúng ta có thể tự giải thoát ra khỏi nỗ lực
để trở thành một người nào quan trọng, theo một đường
hướng nào đó, hay là để đạt được một điều gì - không
còn ham muốn hành động, trở thành và chiếm hữu - chúng
ta có thể an trú trong sự phô bày của giáo pháp.
Ðạo
Lão thường bàn nhiều về vấn đề trở nên vô hình trong
cuộc đời. Có câu chuyện kể về một vị hoàng tử đi săn
khỉ. Khi ông ta vừa vào đến rừng, thì những con khỉ thấy
bóng dáng ông ta là đã chạy tán loạn đi trốn hết. Nhưng
duy có một con khỉ vẫn cứ ngồi yên trên cành, không có
vẽ gì sợ hãi. Hoàng tử bèn lấp tên vào cung và bắn. Nhanh
như chớp, con khỉ đưa tay ra bắt lấy mũi tên trong khi nó
vẫn còn đang bay tới. Thấy vậy, vị hoàng tử ra lệnh cho
tất cả quân lính của ông lấp tên vào cung bắn một lượt.
Con khỉ bị trúng tên ngã xuống.
Bởi
vì con khỉ ấy đã phô trương tài năng của nó, tự kiêu
một cách vô lối, nên tài năng ấy đã trở thành nguyên nhân
cho sự diệt vong. Tương tự như vậy, khi chúng ta hành động
với một ý khoe khoan, muốn phô trương cái hay cái giỏi của
mình, hay khi những hành động phát xuất từ một sự chấp
ngã, chúng sẽ tạo ra một lực đối kháng lại, gây cho ta
những sự xung đột và mâu thuẩn. Bước đi trong cuộc đời
một cách vô hình có nghĩa là không quá khích quả quyết tài
năng hay đức tính của mình. Không phô trương. Ðây chính
là một thái độ của sự vô ngã, không có một ý niệm tự
quan trọng hay tự nỗ lực nào. Chỉ có mặt trong giờ phút
hiện tại, sống hòa hợp với hoàn cảnh chung quanh.
Một
trong những khám phá quan trọng nhất khi tôi mới bắt đầu
tu thiền, là có biết bao nhiêu hành động bắt nguồn từ
ý muốn tạo nên một hình ảnh về mình: trang sức theo một
lối riêng, đối xử với người chung quanh theo một cách nào
đó. Tất cả đều xoay chung quanh ý niệm về một cái Tôi,
mà tôi đã bỏ công tạo dựng và rồi cố gắng duy trì nó.
Cứ mang vác theo một hình ảnh về mình là một gánh nặng
gây ra một sự mâu thuẩn, đối chọi giữa con người thật
của mình trong giây phút hiện tại với hình ảnh mà mình
mong muốn. Vấn đề không phải là hành động một cách vô
hình, mà là hành động với một sự vô ngã, giúp ta an trú
trong giáo pháp, trong Ðạo lớn. Chẳng có gì đặc biệt để
ta trở thành, chẳng có gì đặc biệt để ta làm, chẳng có
gì đặc biệt để ta giữ. Chúng ta có thể buông bỏ những
hình ảnh về mình, buông bỏ những phóng ảnh, và mọi cố
gắng nỗ lực để duy trì chúng. Hãy an trú trong hiện tại
và để cho nó tự hiển lộ, mà không mảy may có một thành
kiến nào về con người thật của mình hết.
Suzuki
Roshi trong quyển Thiền Tâm, Sơ Tâm có đưa một thí dụ về
sự thư thái và bao la của tâm ấy. Ông nói rằng một cách
hay nhất để kiểm soát một con bò là cho nó một đồng cỏ
thật rộng. Khó mà có thể kiểm soát được một con bò trong
một khoảng không gian nhỏ bé và giới hạn. Nhưng nếu bạn
cho nó một bầu trời bao la, thì khoảng trời rộng lớn ấy
sẽ giữ con bò lại. Cũng vậy, một cách để kiểm soát tâm
mình là để cho nó được thoải mái. Không cần gì phải
nhốt hay kềm hảm nó lại trong một khoảng không gian chật
hẹp. Hãy thư thái và để cho nó tự nhiên hiện hữu, thoát
ra ngoài mọi cố gắng, ý niệm muốn đạt một việc gì.
Hãy cho nó một cánh đồng cỏ bao la và nhìn nó tỏa bày.
Thái độ cố gắng để thực hiện một điều gì, để trở
thành một người nào, đôi khi cũng lan tràng trong lãnh vực
tu hành. Ý niệm tăng tiến, thủ đắc là một chướng ngại
rất lớn cho sự tu tập. Tất cả cũng vì ta không hiểu được
tự thể rỗng không của mọi vật, của Ðạo lớn.
Có
một văn hào tên là Wei Wu Wei đã diễn tả một cách thật
hàm súc về vấn đề an trú trong hiện tại và không cần
nỗ lực. Ông nói: "Cái gì mà ta đang tìm kiếm là cái gì
đang tìm kiếm". Không có cái gì ở bên ngoài ta để cho ta
tìm kiếm, nắm giữ hay là đạt đến. Ông nói: "Chỉ có một
câu hỏi, và hỏi tức là trả lời". Hỏi tức là việc xảy
ra trong giờ phút hiện tại. Và đó cũng là câu trả lời
cho câu hỏi. Câu trả lời không phải là một cái gì "ở
bên ngoài" mà ta cần phải tìm kiếm hay khám phá. Câu trả
lời cho câu hỏi trọng đại "ta là ai", chính là việc nêu
lên nghi vấn ấy.
Ðiều
này giúp ta hiểu được truyền thống thiền của Zen và việc
sử dụng các công án, là những vấn đề không thể giải
quyết được. Chúng ta bắt tâm mình phải suy nghĩ về những
câu hỏi mà không thể nào có một sự giải đáp hữu lý
được, như là: "Hãy nói cho ta nghe về tiếng vỗ của một
bàn tay?" Khi mà ta đi tìm câu trả lời bằng cách cố gắng
giải quyết vấn đề, tức là ta đã không hiểu gì hết.
Câu hỏi mà vấn đề đưa ra, nghi vấn của một công án,
tự chính nó là câu trả lời. Và sự thật thì lời giải
đáp cho một công án, là không có một câu trả lời nhất
định nào hết. Nó chính là khả năng ứng đối hoàn toàn
trong giây phút hiện tại. Thì đây cũng là mục đích cho sự
tu tập của chúng ta: hoàn toàn sống trong giờ phút hiện tại
- trong câu hỏi và trong câu trả lời. Không phải đi tìm giải
đáp bằng cách mong cầu một loại trí thức, hiểu biết hay
kiến thức nào cả, nhưng là kinh nghiệm một cách trọn vẹn
tiến trình xảy ra trong giờ phút hiện tại.
Trở
ngại to tát nhất cho sự ổn định là sự cố chấp vào một
hình ảnh, ý niệm về mình và những mơ tưởng về một nhân
vật mà mình muốn được trở thành. Chúng làm phức tạp
một cách không cần thiết cái kinh nghiệm giản dị của việc
sống trong hiện tại. Thường thường thì những người trên
con đường tu hành thường hay bị chấp kẹt vào một hình
ảnh. Một hình ảnh về một nhà tu, một thiền sư, một đạo
sư mà họ tự tạo nên, rồi cố gắng bó buộc mình phải
hành động, sống theo giống như vậy.
Trong
thời gian tu tập ở Ấn Ðộ, tôi có ba vị thầy khác nhau.
Qua những vị thầy tôi học được một bài học vô cùng
quan trọng: tôi hiểu rằng không có một phương pháp nào là
duy nhất hết. Sự giác ngộ không được diễn tả qua một
cá tính, hay một tác phong duy nhất nào. Mỗi vị thầy đều
có một cá tính riêng, theo một cách thức hoàn toàn khác nhau.
Mỗi ngưòi đều là hiện thân của trí tuệ, tình thương
và sức mạnh, nhưng hoàn toàn không có một ý niệm rằng
hiện thân này phải được biểu hiện bằng một cách này
hay một cách khác.
Wei
Wu Wei nói rằng đức khiêm tốn chính là sự vắng mặt của
một cá nhân kiêu hảnh. Nó không phải là một vị thế của
thân hay của cá tính. Một khiêm tốn thật sự chính là sự
vô ngã. Những vị thầy của tôi biểu lộ sự "vắng mặt"
này theo một lối riêng tự nhiên của họ. Thấy được giáo
pháp có thể biểu lộ qua nhiều cách khác nhau, giúp ta hiểu
rằng không có một đường lối nhất định bắt buộc ta
phải theo cả. Trong sự tinh luyện này, ta không phải đảm
đương hay bắt chước theo một tác phong nào hết. Cứ thoải
mái và để cho những cá tính của ta hiển bày một cách tự
nhiên, hãy để giáo pháp phô bày. Không có việc gì để làm,
không có một ai để trở thành và cũng không có gì để lấy.
Và với thái độ đó ta có thể làm, ta có thể trở thành
và ta có thể lấy, một cách vô cùng tự tại.
Có
một câu chuyện thiền nói về ý niệm chấp có mình và có
người khác. Ngài tổng đốc của Kyoto đến thăm một vị
thiền sư. Ngài tổng đốc sai người hầu đem tấm thiệp
vào đưa vị thiền sư. Trên thiệp có ghi tên ông với hàng
chữ: "Tổng đốc của Kyoto". Vị thiền sư xem xong tấm thiệp,
nói với người hầu:
- Ta
không biết người này là ai cả! Ngươi hãy bảo ông ấy cút
đi cho khuất mắt ta!
Người
hầu ra kể lại với lời xin lỗi.
- Chết!
đó là lỗi của ta.
Ngài
tổng đốc nói rồi lấy bút ra gạch bỏ hàng chữ "Tổng
đốc của Kyoto".
- Xin
anh đem vào trình lại với thiền sư dùm tôi.
Vị
thiền sư đọc xong tấm thiệp rồi la lên:
- À!
té ra là ông ấy! Mời ông vào ngay, ta đang muốn gặp ông
ta đây!
Khi
ông ta tự cho mình là "Tổng đốc của Kyoto", ông đã xa lìa
đạo pháp. Và khi ông tự giới thiệu mình như là trong giờ
phút hiện tại, không hình ảnh, không chức tước, không một
ý niệm, ông chỉ là ông trong giờ phút đó thì ông được
vào gặp vị thiền sư. Một khả năng đối xử với người
khác, không bị gìới hạn trong một hình ảnh nào, giúp cho
ta có được sự tự tại trong những liên hệ với mình. Thói
thường thì ta hay đem tự dồn nhét mình với người khác
vào trong những hộp hay những ngăn tâm lý - "Hắn là như vậy
đó, tôi biết quá mà!" Mối liên hệ của ta đối với người
khác rất là cố định, qua tấm màn thành kiến. Mà sự vật
thì thay đổi trong mỗi giây phút: tâm ta, thân ta, hoàn cảnh
chung quanh ta. Ta phải biết uyển chuyển thoát ra khỏi các
thành kiến về mình hay người khác, để cho những sự thay
đổi này cùng sự hiểu biết của ta được cởi mở và không
bị ngăn ngại.
Cuộc
đời của chúng ta phần nhiều quay chung quanh ý niệm về cái
Tôi của mình, và nỗ lực để bảo vệ và thỏa mãn nó.
Năng lực này, khi mang vào trong sự tu tập thì ngược lại,
trở thành một ý định muốn chiến đấu với cái Tôi ấy,
cho rằng nó là một cái gì cần phải bị tiêu diệt. Nhưng
chiến đấu với cái Tôi tức là ta vẫn chưa hiểu được
tự tánh của sự vật.
Wei
Wu Wei có viết một ngụ ngôn gọi là: "Con vịt trời":
Muốn
diệt cái Ngã ư? Săn nó, đập nó, đánh hơi nó, nói cho ta
nghe nó trốn ở chỗ nào? Vui thú là cái chắc. Nhưng, nó ở
đâu? Có phải ta nên cần tìm thấy nó trước chăng? Hình
như người ta có nói ta phải bắt được con vịt trời trước
cái đã, rồi hãy nói đến chuyện làm thịt nó?
Mà
vấn đề khó khăn ở đây là không có một con vịt trời
nào cả.
Mọi
nỗ lực, mọi công phu, cố gắng để diệt trừ cái ngã...
nhưng nó có hề hiện hữu bao giờ đâu nà để cho ta tiêu
diệt. Không có gì để cho ta ra sức đeo đuổi và cũng không
có gì để loại trừ. Chúng ta cần phải chấm dứt việc
tạo dựng lên một cái Tôi trong mỗi giây phút. Hãy sống
trong giờ phút hiện tại mà không dùng ý niệm, hình ảnh.
Sống một cách giản dị và thư thái. Không có một mảy may
tranh đấu hay khích động trong một cụôc sống vô hình, vô
dụng công ấy.
Có
một bài văn thật đẹp diễn tả về một lối sống này:
Thế
nào là bậc Chân nhân? Bậc chân nhân ngày xưa không nghịch
với ai, dù là thiểu số, không cầu công, không cầu danh.
Người như vậy, mất không tiếc, được không mừng... Bậc
chân nhân ngày xưa ngủ không mộng mị, thức chẳng lo âu,
ăn không cầu ngon, thở hít thì thâm sâu... Bậc chân nhân
ngày xưa không tham sống, không sợ chết. Lúc ra không hăm
hở, lúc vào không do dự. Thản nhiên mà đến, thản nhiên
mà đi. Họ không quên lúc bắt đầu, không cầu lúc sau chót.
Nhậnlãnh cuộc sống thì vui với đó, mà quên đi, khi cái
chết đến, phải trở về. Ðó gọi là không lấy cái "người"
nơi mình mà làm trở ngại lẽ "trời" nơi mình. Thế gọi
là chân nhân. Nhờ được thế mà lòng của họ luôn luôn
vững vàng,, cử chỉ điềm đạm, gương mặt bình thản. Lạnh
như mùa thu mà ấm như mùa xuân. Tất cả luân chuyển như
bốn mùa nên cùng vạn vật hợp nhau, không biết đâu là cùng.
Hỏi:
Làm sao mà ta lại có thể nỗ lực mà không có một sự cố
gắng được?
Ðáp:
Chính nỗ lực của ta là để không còn cố gắng an trú và
có chánh niệm trong hiện tại. Có lẽ một vài bạn đã có
kinh nghiệm, khi chánh niệm tăng trưởng, không còn bị vướng
mắc vào những thành kiến, mơ tưởng của mình. Khi tâm ta
ở trong trạng thái đó, chẳng có gì để làm cả.Khi ta ngồi,
chỉ có ngồi, và ta ý thức được bất cứ một chuyện gì
xảy ra một cách không cố gắng.
Hỏi:
Dường như bây giờ, tình trạng tu của tôi có thể được
diễn tả như là một người mơ ngủ trong thất niệm. Mặc
dù kiên nhẫn, tôi vẫn mong chờ nó qua đi, nhìn vượt qua
giai đoạn này. Dường như là tôi chỉ có thể làm được
bấy nhiêu đó mà thôi...
Ðáp:
Có loại trí tuệ phát xuất từ việc ý thức rằng mình đang
mơ mộng viễn vông. Chỉ cần nhìn thoáng qua được cái tâm
thơ thẩn, lang thang đó cũng đã chứng tỏ khả năng sống
mà không bị lệ thuộc vào những bóng dáng và ý niệm ấy.