Trong
quyển Republic của Plato có một chuyện ngụ ngôn nổi tiếng
về một hang động. Trong hang động có một hàng người, họ
bị xiềng lại với nhau bằng một cách mà họ chỉ có thể
nhìn vào vách hang bên trong. Họ không thể nào quay lưng lại.
Phía sau lưng những người bị xiềng là một ngọn lửa, và
có những hình người nhỏ xếp chung quanh như là đang sinh
hoạt với nhau. Bóng dáng của những hình người giả này
chiếu lên trên vách tường, phía bên trong hang. Những người
bị xiềng chỉ có thể thấy bóng dáng thay đổi của những
hình người giả trên vách hang, nên họ nhận những bóng hình
đó làm một sự thật tuyệt đối. Cho đến một ngày, có
một người trong bọn họ cắt được sợi dây xích và có
thể quay lại được. Anh ta thấy được đống lửa và những
hình người giả, và hiểu rằng những điều anh tin xưa nay
đều là giả tưởng. Bóng hình không phải là sự thật mà
chỉ là những phản ảnh trên vách. Và có lẽ sau khi thoát
ra được khỏi sự xiềng xích, anh đi ra khỏi hang và bước
đi trong tự do dưới ánh sáng mặt trời.
Tình
trạng của chúng ta cũng giống như những người bị xiềng
trong hang. Bóng người trên vách tượng trưng cho những khái
niệm trong cuộc đời mà ta đang sống. Chúng ta bị xiềng
xích bằng những đam mê, nhìn cuộc đời qua ý niệm, thành
kiến có sẵn trong ta, và nhận những khái niệm này làm thực
tại.
Có
nhiều khái niệm mà chúng đã được khắc sâu trong thâm tâm
ta, sâu đến nỗi ta không còn nghi ngờ gì nữa. Một thí dụ
là chúng ta ai cũng có một khái niệm về nơi chốn, quê hương,
quốc gia. Trên trái đất này không có đường nào phân chia
giữa những quốc gia hết. Tâm ta tạo ra những đường ranh
giới nhân tạo này. Mỗi khi bạn có dịp đi ngang qua một
biên giới, bạn sẽ thấy con người đã bỏ ra biết bao nhiêu
công sức để gây dựng cho khái niệm này. Trên thế giới
có biết bao nhiêu vấn đề - chánh trị, kinh tế - phát xuất
từ ý nghĩ "Ðây là quốc gia của tôi, quê hương của tôi".
Nếu hiểu được rằng mọi khái niệm chỉ là kết quả của
tư tưởng, ta sẽ có khả năng tự do ra khỏi những ràng buộc.
Lúc
còn ở Ấn Ðộ, có một cô bạn Hy Lạp kể cho tôi nghe một
câu chuyện thí dụ về khái niệm nơi chốn của ta như sau.
Cô ta tả lại một biên giới giữa hai quốc gia nằm trên
một vùng sa mạc. Giữa một vùng đất cát mênh mông, có một
chiếc cầu sắt bắt ngang qua một lòng sông cạn khô. Chiếc
cầu sắt được sơn nửa xanh, nửa đó. Lòng sông khô cằn
là biên giới của hai nước. Chung quanh chẳng có gì ngoài
cát nóng và một chiếc cầu sắt hai màu. Chính giữa cầu
có một cái cổng bằng sắt, được khóa từ hai bên. Khi có
người nào muốn đi từ một "quốc gia" này sang phía bên kia,
người gác bên đây sẽ gọi người gác bên kia, cả hai đi
đến cánh cổng và mở khóa cùng một lúc. Thế là ta đi ngang
qua biên giới, sang một quốc gia khác.
Khái
niệm về thời gian cũng đã in rất sâu vào tâm khảm ta, những
ý niệm vế quá khứ, tương lai. Cái mà chúng ta gọi thời
gian, thật sự là gì? Trong giờ phút hiện tai ta có một vài
tư tưởng như là kỷ niệm, hồi tưởng. Chúng ta góp những
tư tưởng này lại thành một nhóm và gọi chúng là quá khứ,
và cho rằng chúng đã xảy ra ở một thời điểm xa xôi nào
đó, không có thật trong hiện tại. Cũng vậy, ta chìm đắm
trong những dự định, mơ mộng và dán cho chúng nhản hiệu
thuộc về "tương lai", có nghĩa là chúng chỉ có thật trong
một thực tại chưa xảy ra. Ít khi ta hiểu được rằng, thật
ra "quá khứ" và "tương lai" chỉ là những gì đang xảy ra
trong hiện tại. Tất cả những kinh nghiệm đó chỉ là một
sự thật của hiện tại. Quá khứ và tương lai là hai khái
niệm mà chúng ta đặt ra với một mục đích. Nhưng nếu đi
nhận khái niệm làm một sự thật, quên rằng chúng chỉ là
sản phẩm của một tư tưởng, ta sẽ khổ đau vì những sự
lo lắng, hối tiếc về quá khứ và những mong chờ, hy vọng
cho một thực tại chưa đến. Khi nào ta có thể sống vững
vàng trong giây phút bây giờ, hiểu rằng quá khứ và tương
lai chỉ là những tư tưởng trong hiện tại, ta sẽ có khả
năng tháo gở được sợi dây xích của "thời gian".
Một
khái niệm quan trọng khác mà chúng ta thường dùng đến là
khái niệm về nam và nữ. Khi bạn nhắm mắt lại chú ý đến
hơi thở, cảm giác, âm thanh, tư tưởng của mình - "nam" và
"nữ" ở chỗ nào nếu không chỉ là một khái niệm. Khái
niệm về nam và nữ sẽ ngừng hiện hữu khi tâm ta yên lặng.
Những làn sóng tưởng tượng nổi lên từ nước, rồi chúng
tự phê bình lẫn nhau là cao, thấp, đẹp, xấu. Nói theo lẽ
tương đối thì cũng đúng một phần nào, nhưng chúng quên
rằng mọi làn sóng đều có chung một bản chất là nước
biển. Cũng vậy, một khi ta bị dính mắc vào một khái niệm
về hình dáng, hình thể, tâm ta sẽ khởi sanh những sự so
sánh, phê phán, phân loại. Sự phân biệt này sẽ làm cho sự
chia cách giả tưởng, giữa ta và chung quanh, càng kiên cố
thêm lên. Qua sự tu tập thiền quán ta sẽ dần dà từ bỏ
những ràng buộc của khái niệm và kinh nghiệm được những
yếu tố căn bản tạo dựng nên con người của chúng ta.
Nhưng
có lẽ khái niệm ảnh hưởng ta sâu đậm nhất, khái niệm
có khả năng xiềng xích ta trong hang động, giữ ta lại trong
vòng sanh tử luân hồi, là khái niệm về một cái Ngã, cái
Tôi. Ý niệm rằng phải có một người nào đó đứng phía
sau mọi hành động, mọi ý nghĩ, một cá nhân có thật, trường
cửu, là bản thể của con người chúng ta. Ngã, tôi, của
tôi thật ra chỉ là những ý niệm, khởi lên khi ta cố đi
tìm một định nghĩa cho sự liên hệ giữa thân và tâm. Thuở
ban đầu thì trong ta chưa ai có cái "Ngã", nhưng bởi vì chúng
ta bị dính mắc vào ý niệm này một cách quá sâu đậm, chúng
ta bỏ hết công sức ra để bảo vệ, phô trương và phục
vụ cho cái tôi tưởng tượng này. Thiền quán sẽ giúp ta
thấy được cái Ngã chỉ là một khái niệm, nó không có
một tự thể nào, chỉ là một ý niệm được phóng đại
lên trong giây phút hiện tại.
Ðó
là những khái niệm hằng trói buộc ta - khái niệm về nơi
chốn, thời gian, sở hữu, nam nữ và cái Tôi. Bạn có thể
thấy sức mạnh của những khái niệm này. Cả cuộc đời
của ta bị chúng chi phối. Kalu Rinpoche, một vị thiền sư
Tây Tạng nổi tiếng có viết:
Anh
đang sống trong một thế giới của ảo tưởng, với những
hình dáng bên ngoài của sự vật. Nhưng có một thực tại,
Anh chính là thực tại đó. Hiểu được điều này,anh sẽ
thấy rằng anh chẳng là gì cả. Và cũng nhờ bởi vì không
là gì cả, mà anh lại là tất cả. Chỉ có vậy thôi.
Có
bốn pháp quan trọng được gọi là bốn thực tại tuyệt
đối (ultimate realty). Ta gọi như thế bởi vì chúng có thể
kinh nghiệm được chứ không phải chỉ là ý niệm. Bốn thực
tại tuyệt đối này chứa đựng hết trọn vẹn mọi kinh
nghiệm của chúng ta.
1.-
Thực tại tuyệt đối đầu tiên là Sắc tức tứ đại. Tứ
đại là bốn yếu tố vật chất căn bản cấu tạo nên mọi
vật trong vũ trụ: đất, nước, gió và lửa. Trong thiền quán,
ta sẽ kinh nghiệm được sự hiện diện của tứ đại trong
thân.
a.
Yếu tố đầu tiên là đất. Ðất là một yếu tố thuộc
về tính chất nới rộng. Ta kinh nghiệm được yếu tố này
qua tính chất: cứng, mềm, nặng, nhẹ của sự vật. Khi ta
cảm thấy đau trong thân, nó thuộc về yếu tố đất. Khi
ta đi, chân chạm mặt đất, cảm giác đụng chạm, dính liền
cũng thuộc về yếu tố đất - tất cả mọi cảm giác cứng,
mền hay nới rộng.
b.
Yếu tố lửa là những tính chất nóng, lạnh. Ðôi khi trong
những lúc ngồi thiền yếu tố lửa có thể trở nên thắng
thế, bạn sẽ cảm thấy như bị lửa đốt. Thật ra thì chẳng
có "ai" bị đốt cả, chỉ có yếu tố lửa đang phát hiện
cái tánh tự nhiên của nó, tức cảm giác nóng, lạnh.
c.
Yếu tố gió tức là sự chuyển động. Trong lúc đi kinh hành,
cái mà ta kinh nghiệm được chỉ là một trò chơi của những
yếu tố. Bàn chân và chân chỉ là một ý niệm, một tên
gọi mà chúng ta đặt cho nhận thức về một kinh nghiệm.
Thật ra thì chẳng có bàn chân, thân hay là cái tôi, chỉ có
kinh nghiệm về những động tác và cảm giác đụng chạm
mà thôi.
d.
Yếu tố nước tiêu biểu cho tính chất lưu loát và kết hợp.
Yếu tố này có trách nhiệm giữ cho những sự vật được
liền lại với nhau. Cũng như khi bạn cầm đến bột khô,
chúng rời rạc, lả tả ra. Nhưng khi bạn chế vào một chút
nước, chúng sẽ lập tức dính lại với nhau. Yếu tố nước
rất quan trọng, bởi nó có nhiệm vụ giữ tất cả những
yếu tố vật chất khác lại với nhau.
Cùng
với tứ đại, chúng ta có thêm bốn tính chất phụ thuộc
nữa là : màu sắc, mùi, vị và bổ dưỡng. Cả thế giới
vật chất chung quanh ta, có thể được kinh nghiệm qua những
yếu tố vừa kể. Chúng ta có thể nhận thức được chúng,
mà không cần phải dùng đến tư tưởng. Sàn nhà không có
thật. Sàn nhà chỉ là một ý niệm, một tên gọi. Cái mà
ta kinh nghiệm được là cảm giác cứng, lạnh hoặc màu sắc
khi ta nhìn đến nó. Mắt ta nhìn thấy màu sắc. Mắt ta không
nhìn thấy một tên gọi. Khi chúng ta bước ra ngoài sân, đa
số thấy "cây cỏ", nhưng đó chỉ là một ý niệm về những
đối tượng mà ta nhìn thấy. Cái mà ta thật sự thấy là
hình dáng và màu sắc. Rồi tâm ta dán cho nó một nhản hiệu
là "cây cỏ". "Thân" cũng chỉ là một ý niệm. Khi ta ngồi
thiền, thân biến mất. Lúc ấy ta chỉ kinh nghiệm những cảm
giác nóng, lạnh, đau, nhức, những hoạt động của các yếu
tố, biến chuyển không ngừng, trong sự vô thường. Sự tu
tập thiền quán có khả năng giúp ta ý thức được sự vật
trên một bình diện kinh nghiệm trực tiếp chứ không bằng
ý niệm qua tư tưởng. Cho nên khi ta nhìn một vật gì, ta sẽ
ý thức được màu sắc, hình dạng của chúng. Khi ta đụng
chạm một vật gì, ta sẽ trực tiếp cảm giác về nó mà
không bị dính mắc vào ý niệm, hay là để những thành kiến
của mình xem vào sự nhận xét.
Nghĩ
cũng lạ, ý niệm thì lúc nào cũng giữ y nguyên mà thực tại
thì luôn luôn thay đổi. Ý nghĩa của chữ "thân" thì bao giờ
cũng vậy, nhưng chính thân ta thì mỗi phút một đổi khác.
Những khái niệm về cứng nhắc không thay đổi. Nhưng đến
khi ta kinh nghiệm những việc xảy ra chung quanh, ta sẽ nhận
thấy được sự biến chuyển cùng tính chất vô thưòng của
mọi vật,sự sanh diệt của mọi cảm giác. Kinh nghiệm được
mọi sự trong chánh niệm, sẽ làm lộ chân tướng vô thường
của chúng. Còn khi chúng ta còn mê mờ trong vòng ý niệm, ta
sẽ bị dính mắc trong một ảo tưởng, cho rằng mọi vật
là lâu bền, thường hằng. Chính sự dính mắc này đang trói
buộc ta trong vòng sanh tử luân hồi.
Bước
đầu của sự tu tập thiền quán, phát triển trí tuệ là
kinh nghiệm được hiện thực, chứ không phải chỉ là bóng
dáng của nó. Ðược như vậy tự thể của mọi vật sẽ
tự nhiên hiện rõ ra trước mắt.
2.-
Thực tại tuyệt đối thứ hai là Tâm. Tâm tức là khả năng
hiểu biết, ý thức của mình về một đối tượng nào đó.
Ðôi khi, có người cho rằng trong ta có một tâm thức duy nhất,
hiện diện từ lúc sanh cho đến khi chết. Tâm thức này được
ví như là một quan sát viên, anh ta biết hết mọi chuyện
xảy ra trong cuộc đời chúng ta. Và rồi ý niệm này dẫn
tới cái chấp về một cái Ngã, cái Tôi bất biến, thường
hằng trong mỗi người chúng ta. Ðó cũng bởi vì tâm ta không
tĩnh lặng đủ để quan sát tiến trình của sự hiểu biết.
Tâm thức của ta sanh lên rồi diệt đi trong mỗi giây phút.
Không có một tâm thức duy nhất nào hiện diện từ đầu
cho đến cuối, mỗi phút có một tâm thức mới sinh lên rồi
diệt đi. Cái thức dùng để nghe (nhĩ thức) khác với cái
thức dùng để thấy (nhãn thức), hay để ngửi (tỷ thức),
hay để nếm (thiệt thức), hay để suy nghĩ (ý thức). Mỗi
giây phút có một tâm thức khác nhau thống trị. Sau một thời
gian tu tập, khi nào tâm ta tĩnh lặng, ta sẽ có thể kinh nghiệm
được tiến trình này của tâm. Dùng trí tuệ soi sáng dòng
biến chuyển và vô thường của tâm thức, ta sẽ thấy được
trong ta không có một cá nhân hay một quan sát viên nào cả,
chỉ là một diễn biến liên tục thay đổi trong từng giây
phút. Ðến giai đoạn này, ta sẽ phá vỡ được ảo vọng
về một cái tôi thường hằng có thật.
3.-
Thực tại tuyệt đối thứ ba là Tâm hành hay Tâm sở (mental
factor). Tâm hành là tính chất của tâm quyết định một phương
thức để đối phó với các đối tượng. Mỗi khi trong ta
có một tâm thức nào khởi lên, là có nhiều tâm hành khác
nhau cùng phát sanh theo trong lúc ấy, và chúng cũng diệt theo
khi tâm thức ấy chấm dứt. Tham, sân, si là ba tâm hành căn
bản, là gốc rể những khổ đau của chúng ta. Mọi hành động
xấu đều được xúi dục bởi một trong ba tâm hành này.
Lấy một thí dụ, tâm tham có đặc tính là bám víu vào một
đối tượng. Khi tâm tham nổi lên trong ta, nó có khả năng
khiến cho ta trở nên muốn chiếm hữu, gom góp, bám víu, đeo
đuổi vào bất cứ chuyện gì ta đang làm. Ðó chỉ là tính
cách tự nhiên của tâm tham. Không có người tham, không có
cái Ngã, cái Tôi nào đứng phía sau hết, tất cả chỉ là
kết quả cho một tâm hành đang làm việc.
Sân
cũng là một tâm hành có đặc tính tự nhiên là thù ghét,
chối bỏ đối tượng. Lòng ghen tức, bực mình, giận dữ,
bất an, chối bỏ đều là những trạng thái của tâm sân.
Lòng sân cũng không phải thật là ta hay của ta, nó chỉ là
một tâm hành sanh lên rồi diệt đi.
Si
là một tâm hành có khả năng làm mờ mịt nhận thức, khiến
ta không thể thấy rõ được đối tượng. Ta không ý thức
được những gì đang xảy ra trong giờ phút hiện tại.
Ngược
lại ta cũng có ba tâm hành có khả năng đem lại hạnh phúc
là tâm xả, tâm từ và trí tuệ. Tâm xả có tính chất tự
nhiện là rộng lượng, không hối tiếc, không thu giữ. Tâm
từ là lòng thương yêu người khác, tình bằng hữu. Trí tuệ
là tâm tỉnh thức có khả năng nhìn rõ mọi sự vật. Nó
được ví như một ngọn đèn sáng trong tâm. Khi bạn đi vào
một căn phòng tối, bạn không nhìn thấy được những vật
chung quanh, nên thường bị vấp ngả. Khi bật đèn lên, mọi
vật sẽ trở nên sáng tỏ và phân biệt rõ ràng. Ðấy là
nhiệm vụ của trí tuệ soi sáng tâm, để ta có thể nhận
diện được rõ ràng cả nội dung lẫn tiến trình của thân
và tâm.
Tất
cả những tâm hành vừa kể, đều có chung hai đặc tính là
vô ngã và vô thường. Không có một cá nhân nào tham lam, không
có một người nào sân hận,cũng không có một ai là trí tuệ
hay từ bi. Chỉ có một hiện tượng tâm thức sanh lên, kéo
theo nó một số tâm hành và làm việc theo nhiệm vụ của
nó. Như vậy thì ý niệm về một cái "Tôi" phát xuất từ
đâu? Tại sao chúng ta lại bị chi phối bởi cái "Tôi" này
nhiều đến thế?
Trong
số những tâm hành có một tâm hành gọi là tà kiến. Nhiệm
vụ của tà kiến là nhận những yếu tố thay đổi không
ngừng của thân và tâm này là mình. Bởi thế cho nên, khi
có một tâm thức nào khởi lên và kéo theo tâm hành tà kiến
này, ý niệm về một cái "Tôi" sẽ phát sinh. Nhưng cũng giống
như mọi tâm hành khác, nó vô ngã và vô thường, sinh lên
rồi diệt đi. Một khi ta có chánh niệm trong giờ phút hiện
tại, tà kiến sẽ không thể sinh lên và ta có khả năng thoát
ra khỏi ự trói buộc của những khái niệm về "Tôi, của
tôi". Mỗi giây phút chánh niệm là một giây phút vô ngã và
chân thật.
Một
câu hỏi mà ta thường đặt ra trong những khóa tu như vầy
là: "Như vậy ai là người đang giữ chánh niệm?" Thật ra
thì chánh niệm cũng là một tâm hành. Nhiệm vụ của nó là
nhận diện đối tượng và ý thức được giây phút hiện
tại. Gurdjieff gọi tính chất này là tự niệm (self-remembering).
Không có một cá nhân nào giữ chánh niệm hết, chỉ có sự
làm việc của một tâm hành có nhiệm vụ nhận diện đối
tượng mà không dính mắc, ghét bỏ hay ưa thích. Một khi chánh
niệm được khai triển, ta sẽ thấy rằng mọi hiện tượng
đều chuyển tiếp và không có một cái tôi nào trong đó hết.
Chúng
ta như là một trò chơi ráp hình vĩ đại, gồm những miếng
hình nhỏ rời rạc mà ta phải sắp xếp lại cho thứ tự,
thành một tấm hình lớn có ý nghĩa. Những miếng hình nhỏ
rời rạc ấy là tứ đại, tâm và tâm hành. Khi sắp xếp
những yếu tố ấy lại với nhau theo một thứ tự nào đó,
ta sẽ có được một người "đàn ông", "đàn bà", "cây",
"nhà". Nhưng đó chỉ là một tấm hình lớn làm thành bởi
những miếng nhỏ hơn, một khái niệm mà thôi. Chính những
nguyên tố căn bản của thân và tâm, những năng lượng đứng
phía sau biến đổi chuyển hóa, mới chính là hiện thật kinh
nghiệm của ta.
Thực
tại tuyệt đối thứ tư là Niết bàn. Niết bàn là kinh nghiệm
của một người đã hoàn toàn giải thoát ra khỏi mọi xiềng
xích, bước ra khỏi hang tối và sống tự tại dưới ánh
mặt trời. Một người đã giải thoát ra khỏi mọi sự trói
buộc của thân và tâm.
Tất
cả những thực tại tuyệt đối vừa kể, đều có thể kinh
nghiệm được. Những văn tự mà ta dùng để diễn tả chúng
chỉ là ngón tay dùng để chỉ mặt trăng. Kinh nghiệm của
thiền quán sẽ giúp ta kinh nghiệm được những hiện thực
này, điều ấy hoàn toàn thoát ra khỏi ngoài văn tự. Chúng
ta ai cũng đang ở trên một tiến trình phá tung những xiềng
xích, kềm giữ ta trong một hang tối si mê. Trong sự tu tập
sẽ có những lúc bạn cảm thấy hình như không có một việc
gì xảy ra hết, có chăng chỉ là những đau đớn, khó chịu,
bực dọc và nghi ngờ. Nhưng thật ra mỗi giây ohút chánh niệm,
mỗi giây phút tỉnh thức của bạn, đang làm yếu đi sợi
dây xích trói buộc. Chúng ta đang dần dà tích tụ một năng
lực tỉnh thức, đến khi chánh niệm và định lực khai triển,
tâm ta sẽ trở nên vô cùng vững mạnh và sáng suốt. Chỉ
cần kiên nhẫn, thật kiên nhẫn. Rồi chúng ta sẽ kinh nghiệm
được thế nào là tiến trình của thân tâm, kinh nghiệm thoát
ra ngoài mọi khái niệm, không còn bị vướng mắc vào một
cái "Tôi" nào hết, bước ra khỏi hang tối, tự tại dưới
ánh mặt trời của tự do và an lạc.
Hỏi:
Xin cho biết ta đã đi từ một thực tại tuyệt đối đến
sự suy nghĩ bằng những khái niệm qua cách nào? Làm sao mà
ta lại có thể đi xa một sự thực giản dị như vậy?
Ðáp:
Bạn đừng nghĩ sự việc xảy ra giản dị như là chúng ta
đã rơi từ một trạng thái sáng suốt vào một trạng thái
mê mờ. Không phải như vậy. Tâm tham đắm và si mê là hai
nguyên nhân chánh giữ chúng ta trong vòng sanh tử từ vô thủy
đến giờ, chúng là động lực kéo ta xoay vòng theo bánh xe
luân hồi. Tìm hiểu lý do không ích lợi gì cho bản thân ta
cả. Chúng ta phải chấp nhận rằng, hiện trạng bây giờ
của mình mới chính là vấn đề quan trọng trước mắt, cần
phải được giải quyết. Có một con đường để giải thoát
là diệt tâm sân và si. Con đường ấy là con đường chánh
niệm, tỉnh thức, biết chú ý đến mọi việc đang xảy ra
trên mnột bình diện kinh nghiệm thuần túy.
Hỏi:
Làm sao ta có thể sống trong cuộc đời mà không cần đến
khái niệm được?
Ðáp:
Xin bạn đừng hiểu lầm điều này, chúng ta phải biết dùng
đến khái niệm. Nhưng điều tôi muốn nói là một khi ta kinh
nghiệm chuyện gì vượt ra ngoài khái niệm của mình, là ta
không thể chấp nhận được. Chúng ta phải biết sử dụng
những tiến trình trong tâm thức của mình, để đối phó
với thế giới bên ngoài, với cuộc đời của mình sao cho
hữu hiệu. Chân lý hay sự thật có hai bình diện: một là
sự thật ước định có nghĩa là những sự thật được
diễn tả bằng khái niệm như là nam, nữ, thời gian, không
gian, tôi, anh. Bình diện thứ hai là sự thật tuyệt đối
bao gồm bốn thức tại mà ta đã nói đến. Chúng ta dùng khái
niệm, nhưng đừng nô lệ chúng. Chúng ta phải nhớ rằng chúng
chỉ là nhựng sự thật ước định, và đứng phía sau nó
mới thật là chân lý. Ở Bồ Ðề Ðạo Tràng, nơi chúng tôi
tu học, có một con voi. Những khi chúng tôi đi xuống chợ,
chúng tôi thường gặp con voi này thong thả đi ngược lại
về phía mình. Chúng tôi đi thiền hành trong chánh niệm, chậm
chạp, chú ý đến từng mỗi bước chân. Khi thấy con voi đi
ngược lại, chúng tôi không chỉ đứng im đấy mà niệm "thấy,
thấy", chúng tôi tránh sang chỗ khác. Sử dụng tiến trình
tư tưởng của mình phải đúng chỗ.
Hỏi:
Cảm xúc là gì?
Ðáp:
Cảm xúc là những tâm hành khác nhau. Ghen, giận, thương yêu,
vui, buồn đều là những tâm hành. Tất cả mọi cảm xúc
đều có tính cách vô ngã. Không có ai đứng sau chúng hết.
Không có người nào giận, không có ai đang thương yêu - chỉ
là sự chuyển vận của những tâm hành, theo mỗi cách khác
nhau.
Hỏi:
Những điều kiện nào làm phát sinh chánh niệm?
Ðáp:
Trí tuệ, hay là nhận thức được sự thật về hiện trạng
của mình và thấy đợc con đường giải thoát. Sự tinh tấn,
cố gắng là điều kiện phát sinh chánh niệm. Niềm tin và
sự tự tin cũng là điều kiện phát sinh ra sự cố gắng,
tinh tấn tu tập chánh niệm.