[03] 28/03/93–03/04/93
tại Chùa Từ Ân, Quận 11
Cách
khởi nghi tình: Khán thoại đầu, chẳng phải tham câu thoại
Kinh
Nikaya thuộc Tiểu thừa, chẳng phải Đại thừạ
Khoa
học đem lại tai họa cho loài người
Nghiệp
chướng: Con đường gai gốc cức sình
Công
đức và phước đức
Thiền
tông ngày nay như sợi tóc treo ngàn cân
Làm
sao biết được sự tu tập đến giai đoạn thành công?
Tham
thiền dùng tâm hay dùng bộ não để tham?
Tánh
giới và giá giới
Câu
chuyện Huỳnh Đình Kiên
Tây
Phương Tịnh độ, Dược Sư Tịnh độ, Đâu Suất Tịnh đô.
Tại
sao Duy Ma Cật nói tham sân si là giải thoát?
Ngoài
nghi tình ra, tất cả đều không biết
Bồ
đề chẳng cấu tịnh
Thiền
định giải thoát chẳng phải Phật pháp
Hỏi:
Xin Sư phụ giảng rõ về cách khởi nghi tình?
Đáp:
Pháp môn tham Tổ Sư Thiền chú trọng chữ NGHI, tình trạng
nghi gọi là nghi tình. Từ nghi đến ngộ, nghi là nhân, ngộ
là quả. Không nghi không ngộ, nên nói bất nghi bất ngộ;
nhân nhỏ quả nhỏ, nên tiểu nghi tiểu ngộ; nhân lớn quả
lớn, nên đại nghi đại ngộ.
Đối
với hai chữ THOẠI ĐẦU, theo sự giải thích của ngài Hư
Vân thì “thoại đầu là chỗ trước khi chưa có câu thoại,”
là đầu tiên của lời nói, tức chưa nổi niệm muốn nói,
mới gọi là thoại đầu, cũng gọi là vô thỉ vô minh, Thiền
tông gọi “Đầu sào trăm thước,” “Đáy thùng sơn đen,”
ngài Nguyệt Khê gọi là “Hầm sâu đen tối,” chứ không
phải là câu thoại, chỉ dùng lời nói để chỉ thị chỗ
trước khi chưa có lời nói, cho nên nói “tham thoại đầu,”
chứ chẳng phải tham câu thoại đó.
Hành
giả tham thiền bất cứ tham câu nào, hễ có dấu hỏi tức
nghi tình, vừa nhìn vừa hỏi, gọi là “khán thoại đầu,”
“chiếu cố thoại đầu.” Phải lấy thoại đầu làm đối
tượng, không được lấy câu thoại làm đối tượng, nếu
ở trong lời nói tức thành thoại vĩ . Tiếc rằng nhiều người
theo tôi mười mấy năm, vẫn còn hiểu sai nghĩa thoại đầu,
chẳng những nỗi niệm, lại còn chấp vào câu thoại, khiến
cách xa thoại đầu, chẳng những không phải thoại vĩ, lại
cách thoại vĩ không biết bao xa!
Phật
Thích Ca truyền pháp môn này, gọi là Giáo ngoại biệt
truyền, là pháp thiền trực tiếp, tức không cho nổi lên
một niệm. Tất cả pháp môn khác, thiền quán khác đều dùng
cái biết để tu, dùng ghi nhớ biết, tìm hiểu biết để
tu. Còn Tổ Sư Thiền thì ngược lại, không cho tìm hiểu,
ghi nhớ và suy nghĩ.
Hỏi:
Thiền tông này do Phật Thích Ca niêm hoa thị chúng, truyền
pháp cho ngài Ca Diếp, nhưng tại sao trong Kinh Nikaya không thấy
ghi nhận?
Đáp:
Kinh Nikaya gồm Trường A hàm, Trung A Hàm, Tăng Nhất A Hàm và
Tạp A Hàm, thuộc pháp Tiểu thừa. Ông đã thọ giới Bồ
tát chưa? Trong Bồ Tát Giới 48 giới khinh dạy: “Nếu mình
tu theo pháp Tiểu thừa, hoặc dạy người khác tu, đều là
phạm giới.” Đã thọ giới Bồ tát, phải học theo Bồ tát
Đại thừa. Nay tạm gác qua pháp xuất thế gian, chỉ nói theo
pháp thế gian:
Tiểu
thừa là tiểu học, Trung thừa là trung học, Đại thừa là
đại học; trong bài của tiểu học làm sao lại có ghi bài
của Đại học? Tiểu học chỉ thích hợp cho căn cơ tiểu
học, người đã vào đại học, chẳng lẽ lại lui sụt trở
về học bài của tiểu học? Nay lại đem bài tiểu học dẫn
chứng bài đại học là sai, như thế có phải phạm giới
không?
Mặc
dù Tiểu học cũng do Phật Thích Ca dạy, nhưng đó chỉ thích
hợp cho căn cơ thấp, khi nào học xong rồi phải lên lớp,
lên trung học, đại học. Người không chịu lên lớp, Phật
quở là “tiêu nha bại chủng,” là “hạt giống cháy.”
Nay lại đem những bài tiểu học ra để dẫn chứng bài đại
học không đúng, chẳng có trong tiểu học, vậy có đáng buồn
cười không?
Cho
nên, học Phật không biết nghĩa chữ Phật, học tham thoại
đầu không biết nghĩa hai chữ “thoại đầu,” đối với
những người mới học không nói làm chi, nhưng những người
đã học lâu năm mà vẫn còn chấp vào câu thoại, Đức Phật
nói là “thật đáng thương xót !”
Hỏi:
Nếu ai ai cũng dùng chánh nghi để quét sạch hồ nghi của
khoa học, thì thế gian dựa vào đâu để sống?
Đáp:
Hồi xưa chưa có khoa học, người ta vẫn sống và còn sống
yên vui hơn bây giờ. Hiện nay, đủ thứ bệnh hoạn, thiên
tai, nhân họa. Ví như ở nước ngoài, đáng lẽ khoa học phát
minh xe hơi để tiện lợi cho sự đi lại, nay do xe hơi quá
nhiều, không đủ đường đi, khiến giao thông cứ bị ách
tắc, đi làm tám tiếng phải tốn thêm bốn tiếng đồng hồ
trên xe. Ai cũng muốn đi nhanh để kịp giờ, nên tai nạn xe
cộ cứ xảy ra mãi. Theo sự thống kê về tai nạn giao thông
ở Mỹ, bình quân mỗi ngày có đến 57 ca tử vong, chưa kể
trường hợp bị thương, ấy là hậu quả của khoa học đem
lại cho loài người.
Tham
thiền là không cho bộ não làm chủ, là muốn tước đoạt
chủ quyền của bộ não, để Phật tánh làm chủ, bộ não
chỉ là đầy tớ do Phật tánh sai khiến, chỉ làm điều lành,
mới đem lại hạnh phúc cho nhân loại.
Hỏi:
Tu theo pháp môn tham thoại đầu, bệnh tâm thần có hết được
không?
Đáp:
Bất cứ bệnh gì đều do nhân quả, sanh lão bệnh tử, là
do nhân của mình gieo, gieo nghiệp nhân phải trả nghiệp quả.
Còn việc tham thiền là muốn đạt đến tự do tự tại vĩnh
viễn, giải thoát tất cả khổ. Hễ tất cả khổ giải thoát
rồi, đâu còn bệnh tâm thần nữa ! Nói theo ngài Lai Quả
là trị bệnh sanh tử, bệnh sanh tử hết thì tất cả bệnh
đều hết.
Bây
giờ, bất kể có bệnh cũng tu, không bệnh cũng tu, có nghiệp
chướng cũng tu, chẳng nghiệp chướng cũng tu. Nói đến nghiệp
chướng, ở Thiền đường nước Mỹ, có một vị kỷ sư
điện toán, học thức rất cao, đến hỏi tôi:
- Con
nghiệp chướng nặng quá, Thầy có cách nào giúp con trừ nghiệp
chướng không?
Tôi
hỏi: Vậy nghiệp chướng của ông sanh khởi từ chỗ nào,
ông có biết không?
Ông
ấy suy nghĩ mãi không ra.
Tôi
nói: Nói nghiệp chướng của ông, ông còn không biết, vậy
chứng tỏ chẳng có nghiệp chướng. Ông biết thế nào là
năng và sở chứ? Cũng như tôi thường thí dụ, tánh thấy
là cái năng thấy, cảnh vật là sở thấy. Cũng thế, cái
gọi “nghiệp chướng”là cái sở biết, sở suy nghĩ của
ông, còn cái tâm năng biết, năng suy nghĩ đó vốn là trong
sạch, không có nghiệp chướng.
Cái
sở thì chẳng phải tâm, nhưng vì tâm vô hình tướng, khó
mà hiểu được. Tôi phải dùng hai chân để thí dụ:
Hai
chân là năng đi, còn con đường có gai gốc cức sình là sở
đi của hai chân. Con đường đó đâu phải của ông? Nếu
hai chân ông không dẫm lên thì đâu có dính mắc mà phải
rửa cho sạch! Cức sình thúi cách mấy, dơ cách mấy, mặc
kệ nó, đâu có dính dáng đến ông?
Tại
ông ham đi, ham dẫm lên chỗ gai gốc cức sình, rồi than dơ
than khổ. Chỉ cần ông đừng đi, hai chân vốn sạch sẽ.
Tâm năng biết, năng suy nghĩ cũng vậy, đừng biết đến cái
sở biết, sở suy nghĩ, thì tâm năng biết vốn thanh tịnh,
chỉ cần không biết tới, không suy nghĩ thì đâu có vướng
mắc? Đâu cần giữ cho sạch, quét cho sạch !
Nay
tham thiền nhờ câu thoại đầu khởi lên nghi tình, mới không
suy nghĩ.
Hỏi:
Thế nào là công đức, thế nào là phước đức? Tại sao
công đức không có hết, mà phước đức lại có hạn trong
Tam giới?
Đáp:
Trong Kinh Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ giải thích: Công đức là
tự tánh sẵn có, chẳng phải ở ngoài, chẳng do tạo tác.
Đã sẵn có thì chẳng có sự bắt đầu, cũng là nghĩa
vô sanh; vô sanh tức vô diệt, nên không hết được. Còn phước
đức do tạo mới thành, có thành ắt có hoại. Phước đức
có số lượng, hưởng dần sẽ hết, công đức không số
lượng, nên không hết. Do đó, Chư Phật chư Tổ chỉ muốn
chúng ta kiến tánh, thì công đức hưởng hoài không hết.
Hỏi:
Tại sao Sư phụ nói pháp Tham Tổ Sư Thiền như một sợi chỉ
treo chuông ngàn cân?
Đáp:
Sở dĩ tôi nói Thiền tông ngày nay như một sợi tóc treo chuông
ngàn cân, có thể đứt bất cứ lúc nào. Vì năm 1992,
khi tôi đi thăm Tổ đình của ngài Lai Quả, thì pháp tử của
ngài là Hòa Thượng Đức Lâm đang trụ trì chùa Cao Mân, lúc
đó đã 79 tuổi. Theo tôi thì sau khi ngài Đức Lâm tịch, sẽ
chẳng còn ai kế thừa.
Trước
kia, chùa Kim Sơn, chùa Cao Mân đều là Thiền đường danh tiếng,
thiền sư Lai Quả kiến tánh ở chùa Kim Sơn, và thiền sư
Hư Vân kiến tánh ở chùa Cao Mân. Nay chỉ có chùa Cao Mân
còn giữ đạo tràng Thiền tông, chùa Kim Sơn đã trở thành
khu du lịch, trong thiền đường chỉ có hai cụ già tham thiền,
kể như một đạo tràng Thiền tông danh tiếng khắp thế giới
của Trung Quốc đã bị chấm dứt. Còn lại Chùa Cao Mân, như
sợi tóc treo chuông ngàn cân, không biết sẽ bị đứt lúc
nào.
Nay
Tăng chúng ở chùa Cao Mân có khoảng chín mươi người, ni
chúng được mười chín người nhưng không ở ngay trong chùa.
Khi tôi hỏi về công phu thì “Khi hỏi câu thoại đầu, nghi
tình nổi lên, rồi sau đó biến mất,” Tôi biết là do không
có khán, tức không nhìn vào thoại đầu, và tôi bảo họ
phải nhìn vào thoại đầu. Một số người thực hành theo
hướng dẫn, nên nghi tình được kéo dài hơn, tập dần như
thế mới giữ được nghi tình kéo dài, còn hỏi là để tăng
cường nghi tình.
Theo
ngài Nguyệt khê, chỉ có nhìn, không hỏi. Tôi xem lịch sử
Thiền tông từ bảy ngàn Tổ, vị nào cũng nói khán thoại
đầu và tham thoại đầu, tức chiếu cố thoại đầu. Nhưng
nay tôi thấy phần nhiều chỉ tham câu thoại chứ không phải
tham thoại đầu; khán câu thoại mà chẳng phải khán thoại
đầu, ấy là sai. Cho nên, tôi muốn hành giả tham thiền phải
thực hành cho đúng, muốn cho nhiều người được kiến tánh
để kế thừa Thiền tông này, khiến không bị chấm dứt.
Hỏi:
Pháp Thiền chúng ta đang tu tập, là vì cá nhân hay vì chúng
sanh?
Đáp:
Vì cá nhân mà cũng vì chúng sanh. Chánh pháp phải phá ngã
chấp, cái ngã này là cá nhân, cũng ở trong chúng sanh, nên
không phân biệt cá nhân hay chúng sanh.
Hỏi:
Một ngày nào đó giải thoát được phiền não trong thế giới
này thì được nhân quả gì?
Đáp:
Nhân quả là ở trong mở mắt chiêm bao, nếu từ mở mắt
chiêm bao thức tỉnh, thì nhân quả đã chẳng dính dáng đến
mình.
Hỏi:
Làm sao mới biết được sự tu tập này đến giai đoạn thành
công?
Đáp:
Việc đó phải hỏi cô; muốn đến đích thì tự cô phải
đi. Phải xem quyết tâm của cô, đi mau thì mau đến, đi chậm
thì chậm đến. Nếu không chịu đi, chỉ đứng một chỗ
mà hỏi tôi chừng nào đến, tôi làm sao biết được?
Hỏi:
Nghi tình dùng tâm để tham hay dùng bộ não để tham?
Đáp:
Phương tiện là dùng bộ não, dùng sự không biết của bộ
não chấm dứt tất cả biết của bộ não. Đến sau cùng nghi
tình bùng nổ, sự biết của bộ não tan rã và sạch hết,
cái biết của Phật tánh hiện ra, gọi là kiến tánh thành
Phật.
Hỏi:
Có một vị Phật tử do điều kiện sức khỏe yếu, có thể
uống bia hoặc sữa không?
Đáp:
Từ ngũ giới, mười giới, đến hai trăm năm mươi giới,
ba trăm bốn mươi tám giới, mặc dù cấm uống rượu, nhưng
có khai, giá, trì, phạm. Thế nào gọi là khai? Trong giới luật
có tánh giới và giá giới, những gì liên quan đến sát, đạo,
dâm, vọng, là tánh giới, có nhân quả. Còn giá giới, giá
là che chở, thì có thể khai, vì không hại đến chúng sanh
khác nên không có nhân quả.
Ví
như uống rượu, đáng lẽ không có lỗi, nhưng nếu uống
say, có thể phạm bốn giới sát, đạo, dâm, vọng, nên Phật
cấm uống rượu. Trường hợp có bệnh, thầy thuốc dùng
rượu làm thuốc, phải công khai báo cáo vì lý do bệnh, nên
phải uống rượu, thì không phạm giới, gọi là khai. Hoặc,
loại rượu đó uống không say, cũng là khai; hoặc muốn uống
nước lại lấy nhằm rượu, hoặc không cho đó là rượu,
như xào thức ăn bỏ rượu vào, cũng không phạm.
Hỏi:
Tham thiền đến khi chết mà chưa kiến tánh, kiếp
sau có tiếp tục không?
Đáp:
Trong lịch sử Thiền tông, có ghi câu chuyện về ông Huỳnh
Đình Kiên đời nhà Đường như sau:
Huỳnh
Đình Kiên, pháp danh Sơn Cốc, làm quan đến chức Thượng
Thư . Lúc ông 26 tuổi, giữ chức Huyện trưởng. Một hôm,
sau khi ăn tiệc sinh nhật của mình, nghỉ trưa tại dinh phủ,
nằm chiêm bao thấy một mình đi theo con đường nhỏ, gặp
một cụ bà mời vào dùng cơm, ăn xong từ giã đi về.
Sau
khi thức giấc, cảm thấy cảnh chiêm bao này sao giống như
có thật, bèn nảy ý đi tìm. Một mình đi ra ngoài, quả nhiên
tìm được con đường trong chiêm bao, đi đến một ngôi làng,
găp ngay cụ bà trong chiêm bao.
Ông
hỏi: Hôm nay nhà cụ có làm lễ gì không?
Cụ
nói: Có, hôm nay là đám giỗ lần thứ 26 của con gái tôi.
Lúc sinh thời, con tôi chỉ lo tu, không lập gia đình, đến
lúc lâm chung, tự biết giờ chết. Con tôi có một cái rương,
tự nó khóa lại và cất giấu chìa khóa, nói rằng “kiếp
sau sẽ tự đến mở khóa.”
Ông
Kiên nghe đến đây, thình lình nhớ lại chuyện xưa, hỏi:
- Chìa khóa cô ấy để ở đâu, cụ có biết không?
- Không.
Ông
kiên nói: Tôi biết.
Bèn
tự mình vào nhà lấy chìa khóa mở rương, trong đó đựng
đầy văn chương, các bài thi đậu tú tài, thi đậu cử nhân
của kiếp này, kiếp trước đã làm sẵn, rồi ông rước
luôn cụ bà về phủ phụng dưỡng . Sau đó, theo Thiền sư
Huỳnh Long tham thiền được kiến tánh.
Sự
tích trên có ghi lại trong lịch sử Thiền tông và Chỉ Nguyệt
Lục, kể cả trong cuốn Từ Hải của Từ điển Trung Quốc.
Hỏi:
Tịnh độ tông trì kinh niệm chú, có công dụng như tham Thiền
không?
Đáp:
Ông đã hiểu lầm, trì chú thuộc Mật tông, chứ không thuộc
về Tịnh độ. Tịnh độ thì niệm Phật, mà nếu niệm hiệu
Phật A Di Đà là thuộc Tây phương Tịnh độ, niệm hiệu
Phật Lưu Ly Quang Như lai là thuộc Dược sư Tịnh độ, (cũng
gọi Đông phương Tịnh độ), còn Đâu Suất Tịnh độ
niệm hiệu Phật Di Lặc, ba Tịnh độ này đều có người
hoằng dương, phổ biến nhất là Tây Phương Tịnh độ, ngoài
ra còn có vô lượng vô biên Tịnh độ.
Hỏi:
Công án của một vị Tăng hỏi Tổ kiến tánh “Phật là
gì?,” Tổ đáp: “Ba cân mè.” Con cho là ý của Tổ muốn
chỉ đó là cái đang dùng của Sư phụ?
Đáp:
Không phải. bây giờ cứ tham đi, không thể giải thích, không
thể cho là. Hai chữ “cho là”xài không được, ấy là kiến
giải. Tham thiền là để chấm dứt tất cả suy nghĩ, tìm
hiểu, ghi nhớ, tất cả hoạt động của bộ não, chẳng thể
qua bộ não suy nghĩ, cho là bất cứ cái gì, cuối cùng cái
không biết của bộ não cũng sạch luôn, Phật tánh mới có
thể hiện ra khắp không gian thời gian.
Hỏi:
Tại sao Duy Ma Cật nói tham sân si là giải thoát?
Đáp:
Tham sân si sanh khởi từ chỗ nào? Nếu không biết tức không
có, đâu cần đối trị? Tham sân si chỉ là sở biết của
tâm, do tâm biết và suy nghĩ, cho là mình có tham sân si, nhưng
tâm năng biết đó vốn là không . Tại tâm ham suy nghĩ, ham
biết, lấy cái sở suy nghĩ cho là của mình. Thật ra đó chỉ
ở ngoài tâm, đâu phải của mình ! Thí dụ hai chân vốn không
có cức sình, tại ham đi con đường đó nên bị dính mắc,
rồi mới cho cức sình đó là của mình, cần phải rửa
cho sạch ! Chỉ cần hai chân không dẫåm lên con đường
đó là được rồi !
Hỏi:
Có tham cũng có nghi tình, không tham cũng có nghi tình, vậy
lấy có tham hay không tham?
Đáp:
Đã tự động có nghi tình, suốt ngày hai mươi bốn giờ không
gián đoạn chưa? Bây giờ chưa phải hoàn toàn không biết,
tức còn biết, lâu lâu xen lẫn giữa biết và không biết,
ấy là thô tâm dụng, chẳng phải không hỏi mà tự động
có nghi tình. Nếu không hỏi tiếp, dễ lọt vào vô ký không
mà tự mình chẳng hay. Nay vẫn phải hỏi tiếp và nhìn, vừa
hỏi vừa nhìn để tăng cường nghi tình.
Hỏi:
Xin Sư phụ giải đáp về cái biết của Lục Tổ: Cái biết
đầu tiên khi ngài nghe câu kinh Kim Cang; kế đó, Ngài không
học hành mà làm được bài kệ, được Ngũ Tổ xác nhận
đã đến Bảo sở; Thứ ba: khi ngài trả lời câu hỏi của
Ngũ Tổ “Gạo đã trắng từ lâu, chỉ thiếu sàng thôi”;
Thứ tư: Khi Ngũ Tổ gõ vào cối ba cái, ngài biết canh ba vào
phòng Tổ để nhận y bát?
Đáp:
Tôi không biết sự thắc mắc của ông ở đâu? Những việc
kể trên chẳng phải bổn phận của hành giả tham thiền.
Bổn phận hành giả tham thiền chỉ đề khởi câu thoại,
vừa nhìn vừa hỏi vào thoại đầu, ngoài ra, những hành vi
của chư Tổ đừng biết tới, sau này ngộ rồi sẽ tự hiểu.
Bây giờ, ông cần giữ nghi tình cho miên mật, nếu cho là
biết cái đó là sai, tốn thì giờ mà chẳng dính dáng đến
sự kiến tánh của mình.
Hỏi:
Tại sao trong trí Bồ đề mà chẳng thấy thanh tịnh?
Đáp:
Bồ đề là tiếng Ấn Độ, dịch nghĩa Đại giác. Phật tánh
bất nhị, chẳng có thanh tịnh hay không thanh tịnh, nên Tâm
Kinh nói “bất cấu bất tịnh.” Nay thấy thanh tịnh hay không
thanh tịnh đều là do bệnh chấp thật, vì có thanh tịnh mới
có không thanh tịnh; thanh tịnh vốn không, làm sao có cái “không
thanh tịnh”!
Thanh
tịnh hay không, ấy là lời nói của thế gian, Bồ đề chẳng
thể dùng lời nói để diễn tả, “Trong trí Bồ đề
thấy không thanh tịnh”cũng thế, là do bệnh chấp vào một
bên. Kinh Lăng Nghiêm nói “do con mắt bệnh nên thấy hoa đốm
trong hư không,” sự thật trong hư không đâu có hoa đốm
!
Hỏi:
Trong cảnh giải thoát sao sanh ra ràng buộc?
Đáp:
Trong Kinh Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ nói với Pháp sư Ấn Tông:”Chỉ
nói kiến tánh, không nói đến Thiền định giải thoát.”
Vì
theo ý Pháp sư Ấn Tông, giảng Kinh thuyết pháp, cần có thiền
định mới đưa đến giải thoát. Tại sao Lục Tổ lại nói
như thế?
Lục
Tổ nói:”Phật pháp là pháp bất nhị, thiền định giải
thoát là nhị pháp.”
Hỏi:
Thế nào là pháp Bất nhị của Phật pháp?
Lục
Tổ nói: Pháp sư giảng Kinh Niết bàn, trong Kinh, Cao Quý Đức
Vương Bồ tát hỏi Phật:
-
Phạm tội ngũ nghịch và nhất xiển đề có đoạn dứt thiện
căn Phật tánh không?
Phật
nói: Thiện và bất thiện là pháp tương đối, Phật tánh
chẳng phải thiện hay bất thiện, nên chẳng thể đoạn dứt.
Tại
sao? Loạn với định là tương đối, vì có tán loạn mới
cần thiền định, nếu chẳng tán loạn, đâu cần thiền định?
Cũng thế, đã không trói buộc, đâu cần giải thoát? Cho nên,
Lục Tổ nói Pháp môn Tổ Sư Thiền là Tối thượng thừa,
khác hơn Giáo môn là vậy.