[04] 27/04/93–03/05/93
tại Chùa Từ Ân, Quận 11
Nhất
niệm vô minh và vô thỉ vô minh
Có
thể niệm một câu thoại lần một hạt chuỗi ?
Tu
sĩ không tin tự tâm, không tin Phật là Nhất-xiển-đề
Tụng
kinh, bái sám chẳng phải việc cần của Tu sĩ
Thoại
đầu đề không khởi
Tham
thiền có phải vọng tưởng không?
Thế
nào “Thế giới rộng một trượng thì gương xưa rộng một
trượng?
Bát
nhã vô tri
Chí
đạo vô nan, duy hiềm giản trạch
Phát
chơn nghi
Tam
giới duy tâm, vạn pháp duy thức, tức tâm tức Phật
Bổn
lai vốn chẳng vô nhất vật
Bắt
đầu tham thiền là nhập Hạ, đến khi kiến tánh mới giải
Hạ.
Các
Phật sự cứ làm, chỉ đừng quên tham thoại đầu
Kiến
tánh rồi đi về đâu
Sao
người kiến tánh chỉ gọi là Tổ, không gọi là Phật?
Tham
thiền có cần tụng giới không?
Tội
Ba La Di bằng tội tử hình của thế gian
Tánh
giới và giá giới: Tội nhân quả chẳng thể sám hối diệt
tội
Thiền
tông tại sao chú trọng chuyển ngữ?
Ngôi
học còn dính bụi
Tịnh
khẩu có lợi ích gì?
Giới
luật: Người chưa thọ giới không được cử tội người
phạm giới Ba-la-di
Tự
tánh tùy dụng lập danh
Sự
dụng của chư Phật với chúng sanh chẳng khác
Dùng
hương bảng đánh người có tội không?
Hỏi:
Hành giả tham Thiền rất mong có một nơi yên ổn để tu mà
không xen lẩn Tịnh Độ. Nay có người muốn hiến mảnh đất
nhỏ để tạm lập Thiền đường cho chúng về tu trong khi
chờ đợi Sư phụ xây thiền đường, vậy có được không?
Đáp:
Được thì được, nhưng nếu hành giả có ý nghĩ như thế
thì không được. Sự tu phải ở trong hoàn cảnh khó khăn
mà tu được mới mau kiến tánh, tu trong cảnh thuận lại khó
hơn. Cho nên, người tu chỉ sợ cảnh thuận, không sợ cảnh
nghịch; cảnh thuận tự mê lúc nào không hay, cảnh nghịch
mới khuyến khích cho sự tu. Tục ngữ có câu “phú quí học
đạo nan,” người giàu sang học đạo càng khó hơn.
Nay
có nhiều nơi muốn hiến đất, hiến chùa cho tôi, tôi không
chịu nhận, nhiều người lại muốn tự lập chùa tư của
mình. Chánh pháp phải phá ngã chấp, điều kiện trước tiên
của pháp môn Tổ Sư Thiền là vô sở cầu, vô sở đắc,
vô sở sợ, nay nổi ý muốn cầu một chỗ yên ổn để không
bị quấy nhiễu cũng chẳng dễ, vì nếu không phá được
ngã chấp thì chỗ nào cũng khó, đã có sẵn ngã chấp như
thế làm sao kiến tánh? Chớ nói là ở chỗ đông người,
chỉ có hai người là đã có tranh chấp rồi. nếu là người
chơn tu thì bất cứ hoàn cảnh nào, khó khăn nào cũng tu được.
Hỏi:
Đối với những nơi bận rộn thì nói không thể tu, tại
sao đối với những nơi chẳng bận rộn cũng không thể
tu? Ấy có phải chính mình lừa gạt mình không?
Đáp:
Bây giờ hãy cùng nhau nghiên cứu chữ TU, tu là tu cái gì?
Nếu nói theo tự tánh thì vô tu vô chứng. Tại sao? Tôi hỏi
quí vị:
Phật
tánh có thể gián đoạn không?
Không.
Phật
tánh có thể giảm bớt không?
Không.
Khi
tôi hỏi thì quí vị đều biết trả lời như thế, vậy đã
sẵn sàng rồi, đâu phải do tu mới đầy đủ Phật tánh !
Đã đầy đu,û không giảm bớt, gián đoạn, đang hiện hành
đây, cho nên, đến cuối cùng mới biết chẳng phải do tu
chứng. Vì thế, trong Đại Thừa Tuyệt Đối Luận nói “Vô
thượng Bồ đề là qui vô sở đắc.”
Nhưng
cuộc sống hằng ngày của chúng ta lại nghịch với Phật
tánh của mình, cho nên mới có ý niệm cần tìm một nơi vắng
lặng để tu, ấy là cái vọng. Phật tánh bất cứ ở nơi
nào cũng chẳng thêm bớt, tức yên ổn rồi, đâu phải do
tu mới được như thế !
Hỏi:
Phật tánh không thêm bớt, nhưng chính trong lòng chúng con có
tăng giảm thì sao?
Đáp:
Đó là do mình ham suy nghĩ tìm hiểu, Phật tánh đâu cần suy
nghĩ tìm hiểu? Những suy nghĩ tìm hiểu đó chẳng phải Phật
tánh, trong Phật tánh chẳng có những thứ đó. Cũng như tôi
thí dụ hai chân vốn không có cức sình, tại ham đi con đường
cức sình nên bị dính mắc, rồi cho cức sình đó là
của mình, cần phải rửa sạch ! Chỉ cần hai chân
không dẫm lên con đường đó là được rồi !
Cũng
có người nói “nếu không đi lên con đường đó, đâu còn
đường để đi?”
Phật
dạy tám mươi bốn ngàn pháp môn là tám mươi bốn ngàn con
đường, tại sao không chịu đi? Lại đổ thừa rằng “Sao
chẳng giúp cho tôi phương tiện để không dính mắc cức sình.”
Tại ham đi mới bị dính mắc, chứ đâu có phương tiện gì
!
Chơn
tâm của mình luôn trong sạch, chẳng phiền não vọng tưởng,
cũng chẳng có nghiệp chướng, do tâm suy nghĩ mới
có phiền não nghiệp chướng. Chữ TU của con người là vì
đi trên con đường có cức sình, nhưng chỗ có chỗ không,
chẳng phải đầy khắp con đường, nên phải tránh chỗ có,
đi chỗ sạch, rồi nói “tránh cức sình là tu,” hoặc vừa
đi vừa rửa, đi một đoạn rồi dừng lại rửa … Thôi thì
bỏ con đường đó, đi con đường khác, khỏi cần rửa, khỏi
cần tu, đâu cần đi một đoạn dừng lại rửa !
Hỏi:
Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, chỉ do một niệm vô
minh bất giác thành chúng sanh, vậy tu để làm gì?
Đáp:
Trong Bát Nhã Tâm Kinh nói “vô lão tử diệc vô lão tử tận,”
vốn chẳng già chết, do sự cảm giác sai lầm cho là có sanh
tử, nên phải tu để giải thoát sanh tử, gọi là Niết bàn.
Thật ra, như Kinh Viên Giác nói “Tất cả chúng sanh đều
đã thành Phật,” Ngoài ra, Đức Phật còn dẫn chứng
thêm với thí dụ quặng vàng:
-
Trong quặng, vàng đã thành sẵn, chỉ là lẩn với đất cát
tạp chất,, nay luyện bỏ đất cát thì vàng thiệt hiện ra.
Nếu trong quặng không có vàng sẵn thì dù luyện thế nào
cũng đâu có?
Ấy
là lời thí dụ phương tiện của Phật, Phật tánh không thể
giảm bớt gián đoạn, thì bây giờ cũng đã sẵn, chỉ đừng
nổi lên tâm này tâm kia như: Muốn tu thành Phật, muốn bỏ
vọng tưởng, muốn trừ nghiệp chướng, chứng Bồ đề…
vì những thứ đó ở trong Thiền tông đều gọi là vọng
tưởng.
Do
vọng tưởng của sư đang suy nghĩ, nên mới có câu hỏi này.
Chính câu hỏi đã là vọng, nếu tôi giải đáp theo sư thì
câu trả lời cũng sai theo. Nay tham thiền cứ nhìn vào chỗ
chưa nổi một niệm nào hết. Chính do tâm mình cứ nổi lên
niệm này niệm kia, nên trong cuộc sống hằng ngày đều ở
trong nhất niệm vô minh.
Ngài
Nguyệt Khê giải thích thế nào là nhất niệm vô minh: Cho
cái tách này là tách, cũng là nhất niệm vô minh; cho cái bình
này là bình, cũng là nhất niệm vô minh; cho Phật tánh là
Phật tánh, cũng là nhất niệm vô minh; cho chúng sanh là chúng
sanh, cũng là nhất niệm vô minh… chẳng có niệm nào không
nằm trong nhất niệm vô minh.
Khi
chưa khởi một niệm nào, gọi là vô thỉ vô minh. Khi nào
hết nhất niệm vô minh, chẳng còn một niệm nào là lọt
vào vô thỉ vô minh, cũng gọi là thoại đầu, cũng gọi đầu
sào trăm thước, phải từ đầu sào trăm thước tiến thêm
một bước, tư tưởng không còn, mới là triệt để, mới
được gọi là kiến tánh.
Phật
nói “Phàm là lời nói đều không có nghĩa thật,” cho nên,
câu trả lời của tôi cũng là nhất niệm vô minh, nay dẫu
cho bỏ hết nhất niệm vô minh, cũng còn lọt vào vô thỉ
vô minh.
Hỏi:
Vậy theo Sư phụ, muốn bỏ là phải dứt niệm?
Đáp:
Vốn đã sẵn sàng, khỏi cần bỏ, do Sư muốn bỏ cái này
lấy cái kia, nên tôi bảo bỏ, nếu không muốn lấy thì đâu
cần bỏ !
Hỏi:
Sư phụ nói dùng cái không biết chấm dứt tất cả biết,
vậy sao Sư phụ biết nhiều thế? cái biết của Sư phụ là
cái biết của bộ não hay cái biết của Phật tánh?
Đáp:
Cái biết của tôi là muốn chấm dứt cái biết của ông,
chứ chẳng phải có chỗ sanh khởi. Chẳng có chỗ sanh khởi
mới gọi là vô thỉ, cũng là nghĩa vô sanh. Thật ra, bất
cứ cái gì, luôn cả Phật tánh đều chẳng thể có cái lý
sanh khởi, tức không có lý bắt đầu, nên Phật nói vô thỉ.
Theo
người đời, nếu đem những việc không mà nói thành
có, ấy là nói dối, nói bậy; phải không? Vậy nếu có sự
bắt đầu thì phải từ chỗ không biến thành có; nếu bắt
đầu từ chỗ có thì chỗ có đó đã là bắt đầu rồi !
Nếu từ chỗ không mà sanh ra có, thì hiện nay chúng ta đâu
cần tu ! Vì từ không có Phật có thể sanh ra Phật, vậy đâu
cần tu ! Chính không có sự sanh khởi, nên người chứng
quả gọi là ngộ pháp vô sanh, vì không có cái lý sanh khởi,
nên Phật nói vô thỉ.
Hỏi:
Có một vị hành giả tánh hay quên, cứ đề câu thoại đầu
lên rồi quên mất, vậy có thể niệm một câu thoại lần
một hạt chuỗi được không?
Đáp:
Không được. Nếu lần chuỗi quen rồi, sau này không có xâu
chuỗi là không tham được. Vã lại, lúc làm công việc không
có xâu chuỗi thì không tham sao ! Lúc đầu chưa quen thoại
đầu, có thể nhìn vào tờ giấy, cứ niệm cho quen rồi mới
tham.
Hỏi:
Con tin pháp môn tham Thiền 100%, nhưng sao con không thể tin tự
tâm?
Đáp:
Vậy cô tin lời Phật không? Đức Phật nói tất cả chúng
sanh đều có Phật tánh, tin không?
Hỏi:
Lúc trước thì con tin, sao bây giờ con không tin nỗi !
Đáp:
Vậy làm sao nói là tin lời Phật? Làm sao gọi là tin pháp
môn? Vì pháp môn là do Phật truyền, và người không tin lời
Phật là Nhất-xiển-đề ! Bất cứ pháp môn nào, thế gian
hay xuất thế gian, ngay từ ban đầu phải có chữ TIN đi trước,
nếu không tin làm sao thành tựu được? Nay nếu cô đã không
tin lời Phật thì chẳng những phải bỏ pháp môn này, mà
luôn cả đạo Phật cô cũng phải bỏ, chẳng thể tiếp tục
mặc áo tu sĩ nữa.
Hỏi
: Bạch Sư phụ, vậy có cách nào không?
Đáp:
Chỉ có cách lột áo Cà sa ra, không theo đạo Phật nữa. Ngoài
ra chẳng còn cách khác.
Hỏi:
Con ở trong chùa Tịnh độ, mặc dù theo pháp môn Tổ sư Thiền,
nhưng ở chùa phải theo chúng tụng kinh, bái sám, đi đám,
vì việc này cũng cần cho Tu sĩ. Cho nên, sự tham của con không
được liên tục,, những lúc con đang công phu, lại xen lẫn
những câu kinh kệ nổi lên, khiến công phu chẳng đắc
lực, vậy có cách nào không?
Đáp:
Sư nói tụng kinh, bái sám, đi đám là việc cần cho Tu sĩ,
ấy là sai. Đó chỉ do người đời sau bày đặt ra, thời
Phật đâu có ! Sở dĩ công phu chưa được, là vì công việc
hằng ngày đã quen, còn câu thoại đầu thì mới lạ, nên
cứ bị xen lẫn. Nên ngài Lai Quả nói phải tập dần, hễ
thoại đầu quen được một ngày, thì cái kia sẽ lạ đi một
ngày.
Nay
thí dụ bằng con số: Những cái kia là số một triệu, thoại
đầu chỉ là số một; thoại đầu quen dần thì cái kia phải
bớt, khi thoại đầu lên đến một triệu thì cái kia sẽ
hết.
Hỏi:
Xin Sư phụ chỉ cách cho con tin tự tâm triệt để?
Đáp:
Nay tôi hỏi cô: Có Phật tánh không?
- Dạ có.
- Phật tánh có gián đoạn không?
- Dạ không.
- Phật tánh có thêm bớt không?
- Dạ không.
Đáp:
Nếu Phật tánh không gián đoạn thêm bớt, thì Phật tánh
của cô, thần thông trí huệ đầy đủ bằng Phật Thích Ca,
đang hiện hành, chỉ là cô ứng dụng hằng ngày mà chẳng
tự biết, còn của Phật thì khắp không gian thời gian, chẳng
chỗ nào không biết, chẳng lúc nào không biết. Chỉ xê xích
như vậy thôi.
Hỏi:
Nhưng tại sao có lúc công phu của con rất tiến bộ, có lúc
lại thối lui?
Đáp:
Thế nào gọi là tiến bộ, thế nào gọi là thối lui?
Hỏi:
Lúc con mới bắt đầu tập tham, đề câu thoại đầu lên;
lại có một lúc công phu đề mãi không lên, bị thối lui
hoài.
Đáp
: Ngài Lai Quả trong Thiền Thất Khai Thị Lục nói, công
phu của Ngài đôi khi đề lên không nỗi trong vòng một –
hai ngày, nhưng đề không lên cũng phải đề, chẳng có nghi
tình cũng phải đọc, vì nghi tình là dấu hỏi, đọc mãi
thì nghi tình sẽ có trở lại, ấy cũng chẳng phải là lui
sụt.
Hỏi
: Cuộc sống hằng ngày là sống trong vọng tưởng, vậy
tham thiền có phải vọng tưởng không?
Đáp
Tại sao cô nói cuộc sống hằng ngày là sống trong vọng tưởng?
Mới vừa nói Phật tánh đang hiện hành, thì Phật tánh đâu
phải vọng tưởng? Vọng tưởng của cô xuất phát từ chỗ
nào?
-
Từ ý thức phân biệt.
-
Ý thức phân biệt xuất phát từ chỗ nào?
-
Không biết.
Đáp:
Nếu không biết thì tại sao biết hằng ngày sống trong vọng
tưởng? Nếu không biết tức không vọng tưởng. Vọng tưởng
của cô chỉ là sở biết, sở suy nghĩ của tâm cô; sở là
ở ngoài tâm, chẳng phải của cô, còn tâm của cô, tức năng
suy nghĩ, năng biết đó, mới là của cô, chẳng có vọng
tưởng.
Nói
cuộc sống hằng ngày là sống trong tâm thì được, nói sống
trong vọng tưởng là không thể được, nhưng vì tâm chẳng
hình tướng số lượng, nên chẳng thể tự thấy biết. (Sư
phụ dẫn dụ về hai chân dính cức sình, lược qua).
Hỏi:
Ngày thường chúng con ở chùa vẫn tu, đến kỳ Thiền thất,
chúng con cứ vẫn tu tại chùa hay đến dự Thiền thất? Dự
Thiền thất có tốt hơn không?
Đáp:
Dĩ nhiên là dự thiền thất tốt hơn, đông người khích lệ
lẫn nhau, lười biếng không được, cũng như Tu sĩ sống
trong chúng tốt hơn một mình ở cốc riêng. Việc tu là việc
của mình, mọi người đến dự là vì sự sanh tử của mình,
chứ chẳng phải vì Thiền thất.
Chữ
tu là sửa đổi hành vi của mình. Như tôi vừa nói, đường
gai gốc cức sình không nên đi, pháp môn dạy của Phật là
những con đường trong sạch nên đi.
Hỏi:
Thế nào là Nghĩa Khẩn - chánh - miên mật – dung hoát của
ngài Bác Sơn?
Đáp:
Khẩn là thống thiết vì sanh tử, Chánh là đúng với tông
chỉ “vô sở cầu, vô sở đắc, vô sở sợ”của Thiền
tông, Miên mật là vừa nhìn vừa hỏi câu thoại đầu, chẳng
có gián đoạn, chẳng kẻ hở cho phiền não nổi lên; Dung
là dung thông, Hoát là trống rỗng, là chỗ thoại đầu chẳng
một niệm sanh khởi. Hễ nổi lên một niệm, bất cứ biết
cái gì; dù là biết Phật, biết Bồ tát vẫn là không dung
hoát, nổi lên một niệm “không biết”cũng là không dung
hoát.
Hỏi:
Thế nào là “thế giới rộng một trượng thì gương xưa
rộng một trượng; gương xưa rộng một trượng thì lò lửa
rộng một trượng”?
Đáp:
Ấy là nghĩa tất cả đều bằng nhau, cũng là nghĩa bất nhị.
Hễ một chơn thì tất cả đều chơn; một giả thì tất cả
đều giả, nhưng không có chơn cũng không có giả.
Hỏi:
Có người nói “Bát nhã vô tri”là chẳng sanh tâm phân biệt,
kể cả việc thiện việc ác, kể cả dùng những thức ăn
dơ bẩn mà chẳng thấy ghê tởm, phải không?
Đáp:
Nói như thế đã là phân biệt rồi! Hễ nổi lên một niệm
đã là chẳng phải, huống là nhiều niệm ! Tham thiền nói
“nhìn”là nhìn chỗ một niệm chưa sanh khởi, nói “tham”cũng
là tham chỗ một niệm chưa sanh khởi. Bây giờ lại nổi niệm
cho là làm việc thiện việc ác, ăn đủ thứ dơ bẩn … Thiền
tông nói: “Ăn gậy của Diêm La Vương thì có phần của ông
!”
Hỏi:
Vị đó còn dẫn chứng những việc làm của Hòa thượng Tế
Điên, cho làm như thế là giải thoát tự tại?
Đáp:
Có dẫn chứng đều là sai. Như Phật nói “phàm là lời nói
đều chẳng có nghĩa thật,” “Ai nói Như Lai có thuyết pháp
là phỉ báng Phật,” “Vô pháp khả thuyết mới gọi là
thuyết pháp”…, những lời trên sao ông đó không dẫn chứng?
Nay
bất cứ dẫn chứng cách nào đều là niệm, đều có sanh
khởi, Phật nói vô thỉ, cũng là nghĩa vô sanh. Nếu có sanh
khởi tức có bắt đầu, nhưng bất cứ dùng nghĩa lý cao siêu
nào cũng chẳng thể thành lập lý bắt đầu, nên nói vô sanh.
Trước
kia tôi có giảng cuốn Tín Tâm Minh Tịch Nghĩa Giải, Tịch
là phủ định, là quét sạch, phàm có nghĩa giải đều không
đúng. Do người đời dẫn chứng cuốn Tín Tâm Minh để luận
đàm, nghịch với ý chỉ Tín Tâm Minh, tức phỉ báng Tổ Tăng
Xán, nên ngài Trung Phong mới viết bài Tịch Nghĩa Giải. Vì
con người ham nghĩa giải, nên ở Nhật có cuốn Thiền Học
Đại Thành, chỉ trích ra các đoạn nghĩa giải, còn phần
tịch nghĩa giải thì không in ra, ấy là nghịch với ý của
Tổ vậy.
Ví
dụ: Câu đầu tiên của bài Tín Tâm Minh là: “Chí đạo vô
nan, duy hiềm giản trạch.”
Nghĩa
giải rằng: Chí đạo là tự tánh, tức đạo cùng tột của
Phật tánh. Muốn đạt đến đạo cùng tột của Phật tánh
chẳng phải là khó, chỉ do lựa chọn nên mới thành khó.
Trên đây là giải thích theo mặt chữ.
Bốn
câu kệ kết thúc của ngài Trung Phong:
Chí
đạo chớ nên chê lựa chọn,
Chớ
cho lựa chọn đọa phàm tình.
Cần
phải đâm mù mắt mẹ đẻ,
Ban
ngày đốt đèn đọc bài Minh.
Đâu
có gì để cho giải thích suy nghĩ ! Nay tôi đang dịch cuốn
Tín Tâm Minh Tịch Nghĩa Giải, sau này xuất bản, để cho quí
vị thấy được bản lai diện mục của Tín Tâm Minh.
Hỏi:
Tham Thiền Cảnh Ngữ nói “Khi nghi tình phát khởi, tương
ưng với lý pháp thân,” tại sao lại phải cắt đứt mạng
căn?
Đáp:
Tham Thiền Cảnh Ngữ nói “phát chơn nghi”tức đến được
thoại đầu, mới là phát chơn nghi, chưa đến thoại đầu
là chưa phát được nghi tình. Sự thật, nếu công phu đến
thoại đầu thì câu thoại tự mất. Còn nói đến pháp thân
thì người nào cũng đầy đủ pháp thân, đâu có mất, đâu
có ngưng? Vì con người ham dùng tâm suy nghĩ so đo, cho là phải
như vậy và chẳng phải như vậy, tức tự làm ra dây trói
buộc mình. Cho nên, phải nhìn ngay chỗ một niệm chưa sanh
khởi.(Sư phụ giảng về cuộc sống trong nhất niệm vô minh,
xem trang 57 .)
Hỏi:
Giáo môn nói “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức biến hiện,”
còn Thiền tông nói “Tức tâm tức Phật,” hai nghĩa này
có giống nhau không?
Đáp:
Không khác. Có người hỏi Mã Tổ, Tổ trước thì đáp “Tức
tâm tức Phật,” sau thì nói “Phi tâm phi Phật,” rồi một
vị Tăng hỏi: “Sao trước nói tức tâm tức Phật, sau nói
phi tâm phi Phật?”Mã Tổ trả lời: “Vì muốn gạt cho con
nít nín khóc.”
Bây
giờ nói muôn pháp duy tâm hay muôn pháp duy thức cũng vậy.
Trong
Phật tánh của mình tất cả đều sẵn sàng mà không có mấy
thứ này, do con người bày ra những thứ này mới che khuất
Phật tánh, gọi là “ứng dụng hằng ngày mà chẳng tự biết.”
Vì đã dùng cái biết của nhất niệm vô minh, thì làm sao
hiển bày cái biết của Phật tánh !