[01] 26/10/92–01/11/92
tại Chùa Từ Ân, Quận 11
Sau
khi chết, tánh thấy ở đâu
Phật
với chúng sanh, ai chủ ai khách?
Tham
thoại đầu có nhất thiết phải dùng một câu không?
Tập
khí nhiều, làm sao mới dứt được?
Chuyến
đi thăm Chùa Cao Mân, Trung Quốc 04/08/1992
Thường
tự thấy lỗi mình, chớ nên thấy lỗi người
Con
người sau khi chết có linh hồn không?
Cõi
trời nhập định sao không được giải thoát?
Mới
tập tham, hay ngủ gục, phải làm saỏ
Vua
Khang Hy bị đánh hương bảng
Hành
giả tham thiền phải tu làm sao để thấu tam quan?
Bốn
điều kiện khẩn, thiết, miên mật, dung hoát của Bác Sơn
Giải
ngộ và chứng ngộ
Thuyết
tự nhiên và cái “Sẵn có” của Đức Phật giống nhau không
Cách
nhìn thoại đầu của ngài Nguyệt Khê
Còn
nhục thân chưa hẵn là đắc đạo
Tin
tự tâm 100%, sao con tin không nỗỉ
Bản
thể tự tánh sau khi chết thế nào ?
Linh
tri tịch chiếu
Thiền
sư Nam Tuyền chém mèo, có tội không?
Vừa
tham thiền vừa trì chú, được không?
Tại
sao Tổ Triệu Châu niệm Phật một tiếng, súc miệng ba ngàỷ
Bốn
bè nguy hiểm, người tham thiền làm sao thấu quả
Nghi
tình phát khởi, cùng lý pháp thân tương ưng
Thế
nào làm cho thân Phật chảy máủ
Làm
sao phân biệt tà chánh?
Nhìn
thoại đầu như mèo rình bắt chuột
Hỏi:
Nói “Tánh thấy không mất,” vậy thân này sau khi chết,
tánh thấy của con ở đâu?
Đáp:
Chớ nói đến sau khi chết, nay ông còn sống, đang ngồi ở
đây, sở thấy rõ ràng trước mắt, nhưng tánh thấy của
ông ở đâu? Ông hãy chỉ ra xem ! Lúc sống còn tự chỉ không
được, nói chi sau khi chết, tôi làm sao chỉ ra? Chính Phật
Thích Ca cũng chỉ không được. Tại sao? Vì tánh thấy chẳng
phải vật, vốn không lay động biến đổi, làm sao có sanh
diệt? Đã chẳng phải vật thì làm sao chỉ?
Do
tánh con người ham tìm hiểu, muốn biết tất cả, nhưng chính
cái cơ thể của mình còn không biết, những gì trước mắt
mình cũng không biết. Ví như tôi nhìn vào móng tay của tôi,
đâu thấy nó dài ra? Nhưng nhớ lại thì có dài hơn so với
ba ngày trước, vậy nói “móng tay của tôi ba ngày dài một
lần,” đúng không? Không. Tại sao? Móng tay tôi giây phút
nào cũng đang dài, sự sanh trưởng đâu có lúc nào ngưng?
Chính ngay hiện nay cũng đang dài, chỉ là tôi không biết thôi.
Tóc, tế bào của cơ thể, có cái đang sanh, có cái đang diệt,
mặt mũi của tôi cũng đang thay đổi, nhưng tôi có biết đâu
! Ấy gọi là cuộc sống hàng ngày đang thay đổi mà chẳng
tự biết, còn muốn biết tới những gì ngoài cơ thể? Có
ích lợi gì?
Cái
biết của bộ não là tướng bệnh, cái biết của Phật tánh
là tướng mạnh. Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta đang ứng
dụng cái biết của bộ não, thì cái biết của Phật tánh
phải ẩn thôi. Nay chúng ta tham thiền, dùng nghi tình dẹp cái
biết của bộ não, tức dẹp tướng bệnh;, khi nào hết bệnh,
tướng mạnh mới hiện ra.
Cái
biết của Phật tánh khắp không gian thời gian, chẳng chỗ
nào không biết, chẳng lúc nào không biết, còn cái biết của
bộ não rất hạn chế, lại không đúng với sự thật. Nay
nói đến không gian thời gian, nếu phân tích nhỏ lại thì
bộ não không biết.
Ví
dụ một ngày đêm có 24 giờ; một giờ chia thành 60 phút,
một phút chia thành 60 giây, theo nhà Phật một giây chia thành
60 sát na . Nói “một sát na”thì bộ não còn có thể tưởng
tượng được, nếu đem chia thêm ba lần nữa: một sát na
chia làm 60A, 1A chia làm 60B, 1B chia làm 60C. Khi tôi nói đến
“1C”trong hiện tại, đã trôi mất mấy mươi C rồi. Hiện
tại đã không thành lập được thì bộ não làm sao biết?
Nếu
tôi đem chia thêm 30 lần, theo toán học, con số vẫn còn, nhưng
bộ não đâu còn biết được thời gian thực tế nữa ! Tóm
lại , hễ còn con số thì thời gian vẫn có, mà bộ não không
biết được . Ấy là nói về thời gian.
Bây
giờ nói về không gian: Tôi từng xem một quyển toán học
xuất bản ở Hồng Kông, trong đó nói đến một loại
vi khuẩn dạng như chiếc dép cỏ, nay tạm gọi là “Con sâu
dép cỏ,” loại vi khuẩn này thuộc đơn bào, phải dùng kính
hiển vi mới thấy rõ. Về sự trưởng thành của no,ù cứ
cách một ngày đêm là nứt thành hai con, ngày sau nữa thành
bốn con, rồi thành tám con… Từ đời thứ nhất đến đời
thứ 90 thì thể tích của nó là 1m3, đến đời thứ 130 thì
thể tích bằng quả đất! Chỉ cần trải qua 130 ngày,
nếu chỉ có sanh mà không có sự diệt, thì thể
tích của con sâu này bằng một quả đất, đến đời thứ
131 bằng hai quả đất!
Căn
cứ theo lý này, nay thử đem con sâu có khối thể tích bằng
quả đất này xẻ làm hai, rồi mỗi bên lại xẻ làm hai,
cứ như thế xẻ đến lần thứ 130 thì thể tích của nó
trở lại thành một đơn bào. Như vậy, theo toán học, đem
con sâu ấy xẻ thêm 130 lần; con số vẫn còn, nhưng cơ thể
của nó bộ não mình còn biết được không? Con số có thể
tiếp tục thu nhỏ, nhỏ đến vô cực, còn việc không gian
thời gian trước mắt đã hoàn toàn không biết được rồi.
Cho
nên, có người hỏi: “Kiến tánh rồi đi về đâu?”Nếu
có chỗ về thì chưa phải kiến tánh, vì không cùng khắp
vậy. Bây giờ ai muốn đạt đến tự do tự tại, làm
chủ cho chính mình, chỉ có thực hành tham thoại đầu, chứ
đừng tìm hiểu và hỏi ở ngoài nữa, vì hỏi cũng vô
ích. Tại sao vô ích? Như trong Kinh nói: Người mù hỏi người
mắt sáng: Mặt trời như thế nào? Người mắt sáng
diễn tả mặt trời có tròn có nóng, vậy là đúng rồi,
nhưng nếu người mù cho “tròn và nóng là mặt trời”thì
sai; bởi vì đâu phải cái nào có tròn có nóng tức là mặt
trời ! Nếu người mù căn cứ theo lời của người mắt
sáng mà nhận biết thì không đúng. (Người mù dụ cho
người chưa kiến tánh, người mắt sáng dụ cho người đã
kiến tánh).
Chớ
nói là người mù, nay người mắt sáng với người mắt
sáng cũng vậy, tôi thường lấy thí dụ về mặt mũi của
ông Trương: Tôi quen biết ông Trương, còn quí vị thì
chưa gặp qua lần nào, chưa biết mặt mũi ông ấy ra sao. Tôi
diễn tả mặt mũi của ông Trương như thế nào, cao thấp
ra sao… mặc dù tôi nói rất giống, nhưng quí vị dẫu có
gặp ở ngoài đường cũng đâu biết người đó là ông
Trương? Vì lời nói và thực tếù có khác. Chẳng
phải do tôi diễn tả không đúng, nhưng muốn dựa vào lời
nói của tôi để nhận biết thì không được.
Nay
chưa kiến tánh, đối với sở thấy của mình rõ ràng, mà
năng thấy còn chỉ không được, dẫu cho tôi nói được,
quí vị theo lời nói của tôi cũng đâu thể nhận biết được
! Vì thế cho nên, mục đích của chư Phật là muốn chúng
ta trị hết bệnh mù, đích thân thấy, chứ đừng nghe lời
người mắt sáng, bị người mắt sáng lừa.
Sự
thật, người mắt sáng đâu muốn lừa chúng ta, chỉ tại
mình cứ đuổi theo lời nói để nhận biết sự chơn thật.
Nay chúng ta cũng như người mù, thấy cũng như không thấy,
Đức Phật chỉ hướng dẫn cách tu, để chúng ta tự
trị hết bệnh mù, rồi tự thấy.
Hỏi:
Phật với chúng sanh, ai là chủ, ai là khách?
Đáp:
Tựï tánh bất nhị, không có chủ khách. Phật pháp chẳng
lìa tự tánh. Lục Tổ nói “Lìa tánh thuyết pháp, ấy là
tướng thuyết.” Chấp tướng mới có chủ có khách, còn
căn bản của Phật pháp không có chủ khách không có tương
đối. Tương đối là nằm trong nhất niệm vô minh.
Hỏi:
Có hai nhà Sư gặp nhau ở ngã ba đường, cùng hét lên một
tiếng. Vậy ai là chủ, ai là khách?
Đáp:
Đó là công án của chư Tổ. Nếu ngộ thì ngộ ngay lúc đó,
nếu không thì phải giữ cái không hiểu, gọi là nghi tình,
sau này sẽ được ngộ, Công án không phải để cho người
ta giải. Vì sự giải thích đó không đúng, lại thành phỉ
báng Tổ.
Hỏi:
Tham thoại đầu có nhất thiết phải dùng một câu không?
hoặc có thể theo đó mà khởi nghi tình?
Đáp:
Nếu tham thoại đầu chỉ nhất định một câu thì chư Tổ
chỉ dạy một câu là đủ. Thiền tông lần đầu tiên ra cuốn
Truyền Đăng Lục có một ngàn bảy trăm công án, đều có
thể tham được. Sau này đến bảy ngàn Tổ, bảy ngàn công
án đều có thể tham. Nhưng mỗi người chỉ tham một công
án, thấu được một công án thì thấu tất cả, vũ trụ
vạn vật đều thấu. Lúc ngộ triệt để là đoạn dứt nghi
căn, chẳng còn điều gì không biết. Tham thoại đầu và tham
công án là một, chỉ là công án phức tạp hơn. Người nào
thích hợp câu thoại nào, cảm thấy nghi nhiều thì tham câu
đó. Đối với công án cũng vậy.
Hỏi:
Chúng con tập khí quá nhiều, vậy khi nào mới dứt được?
Đáp:
Nay hành giả tham thiền đừng để ý đến trừ tập khí,
giữ được nghi tình thì tập khí có thể dứt dần, nhưng
muốn dứt sạch phải kiến tánh mới được.
Tham
thiền chỉ có thể dứt những tập khí thô, còn tập khí
vi tế phải sau khi kiến tánh rồi mới dứt. Nên sau khi kiến
tánh phải qua sự bảo nhiệm để dứt tập khí thế gian và
xuất thế gian.
Hỏi:
Xin Sư phụ kể về những câu chuyện hoằng pháp ở Thiền
đường nước Mỹ và chuyến đi thăm vừa rồi ở Chùa Cao
Mân Trung Quốc?
Đáp:
Nay tham thiền với mục đích phát hiện được chính mình,
làm chủ cho mình được tự do tự tại. Chữ Phật nghĩa là
tự giác giác tha, giải thoát cho mình và cho chúng sanh, còn
về những vấn đề trên là không cần thiết, sau này khi có
dịp tôi sẽ kể cho nghe.
Vừa
rồi,, tôi có đi viếng thăm Chùa Cao Mân, và ở lại chùa
một tháng từ ngày 04/08/1992 đến 04/09/1992. Ngài Trụ Trì
Chùa có mời tôi làm Thủ Tọa. Ở đó, bất cứ cửa nào
cũng đề bốn chữ “Chiếu cố thoại đầu.” CHIẾU
là chiếu soi, CỐ là nhìn, tức nhìn chỗ thoại đầu, vừa
nhìn vừa hỏi. Nếu không nhìn mà chỉ đề câu thoại để
hỏi thì nghi tình dễ đánh mất, vừa hỏi liền mất; nếu
vừa nhìn vừa hỏi thì nghi tình được kéo dài. Tham thiền
chỉ cần vừa nhìn vừa hỏi, ngoài ra khỏi cần tìm hiểu,
khỏi cần biết gì, bởi cái biết chẳng phải nghi tình, chẳng
phải tham thiền.
Ở
Chùa Cao Mân, ngày thường cũng đả Thiền thất. Vào mùa đông
thì liên tục mười thất. Đáng lẽ ngày thường đã là thiền
thất rồi, tại sao mùa đông lại tổ chức liên tục mười
thất? Bởi vì bình thường mỗi ngày chỉ có mười bốn nén
hương, đến mùa đông là hai mươi nén hương một ngày: Bắt
đầu từ 4 giờ 30 sáng đến 11 giờ khuya mới nghỉ, công
phu như thế được miên mật và tinh tấn hơn, nên trong Thiền
thất có nhiều vị Tổ sư khai ngộ.
Nay
chúng ta chỉ khi đến Thiền đường mới đả thất, còn ở
nhà thì không đi hương tọa hương đúng theo qui định, và
ở nhà tất nhiên giải đải hơn, muốn tham cũng được, không
tham cũng được, chẳng ai bó buộc và khích lệ. Còn những
người ở Thiền đường, không vào thiền thất là không được,
hằng ngày đều như thế, mùa đông càng phải dụng công hơn.
Sự thật thì khi tập trung đả thất, mặc dù chi phí tốn
hao nhiều, nhưng lợi ích cũng nhiều, không uổng cho sự tốn
hao. Vì thế ngài Lai Quả khuyên chúng nên tu trong Thiền đường,
không nên ở chùa tư.
Về
thời khóa tu tập của Chùa Cao Mân, quí vị xem cuốn Tham Thiền
Phổ Thuyết của ngài Lai Quả để biết thêm. Trong cuốn Tham
Thiền Phổ Thuyết tôi có sửa lại đôi điều sai, vì khi
tôi hỏi, mới biết là có sự chênh lệch so với nguyên bản
của ngài Lai Quả, đó là do sự sai sót khi in ấn, nên tôi
đã lọc bỏ ra những phần không phải của Ngài.
Ngài
Lai Quả kiến tánh ở Chùa Kim Sơn, ngài Hư Vân kiến tánh
ở Chùa Cao Mân. Nay chỉ có Chùa Cao Mân giữ được pháp môn
Thiền tông, nối theo ngài Lai Quả, còn Chùa Kim Sơn đã trở
thành khu du lịch, trong Thiền đường chỉ có hai cụ
già tham thiền mà thôi.
Vì
lẽ đó, ngài Lai Quả nói “Pháp Thiền ngày nay tựa như sợi
chỉ treo ngàn cân, không biết ngày nào sẽ đứt,” nên tôi
phát nguyện chuyên hoằng Tổ Sư Thiền này. Hoằng dương Tổ
Sư Thiền rất khó, vì người ta không tin tự tâm. Phải tin
tự tâm 100%, mới có thể nhận được bản tâm của mình.
Người
đời nay đa số tu theo Giáo môn, học theo Giáo môn là muốn
giải, còn Tổ Sư Thiền không cho giải, vì hễ giải là hết
nghi. Cho nên, nhiều vị sau khi kiến tánh, nói:”Tôi không
trọng thầy tôi ở chỗ đạo đức, văn chương, chỉ trọng
chẳng vì tôi nói trắng ra,” vì nói trắng ra là chẳng thể
ngộ.
Hỏi:
Thời nay, nhiều vị tu hành rất cống cao ngã mạn, tự ăn
cắp học thuộc lòng một số ngữ ngôn kỳ đặc của Tổ
sư, cho là vốn liếng của mình, đi khắp nơi đả phá cái
này cái kia, làm trò cười cho thiên hạ. thậm chí đem ra chỉ
trích pháp dạy của Phật, của Tổ, cho là không đúng, phải
làm theo cách bày đặt của họ mới là đúng … Con mong
Sư phụ từ bi khai thị, mở mắt cho những kẻ ngông cuồng
ngạo mạn này.
Đáp:
Học Phật pháp phải biết nhân quả, nhân nào quả nấy, ai
tạo nấy chịu. Lục Tổ trong Kinh Pháp Bảo Đàn nói:”Thường
tự thấy lỗi mình, chớ nên thấy lỗi người.” chánh pháp
phải phá ngã chấp, cứ thấy lỗi của người khác tức
còn ngã chấp.
Những
người tham thiền cần lo cho mình được mau kiến tánh, không
cần biết tới lỗi của người khác, ấy là ý của chư Tổ
dạy như thế. Hễ giữ được nghi tình, tự nhiên không thấy
lỗi của người khác. Hãy lấy thân mình làm mô phạm cho
người khác noi theo. Khỏi cần nói, cứ làm cho đúng,vì có
nói cũng vô ích, người ta có chịu nghe đâu ! Mặc dù mình
không nói, nhưng người khác nhìn thấy cũng biết. Phải thường
thấy lỗi của mình, chẳng thấy lỗi người khác là được.
Hỏi:
Có người cho rằng: Vấn đề cúng thất sau khi chết cho linh
hồn được siêu thoát, vậy có hay không? Cũng có thuyết cho
rằng “Con người sau khi chết không có linh hồn, sở dĩ mọi
người cúng bái chỉ để làm kỷ niệm đưa người quá cố
đi thôi,” đúng hay sai?
Đáp:
Phật pháp nói về “Tam thừa,” nếu nói rộng hơn nữa là
có Ngũ thừa, tức ngoài Tam thừa ra, thêm nhơn thừa và thiên
thừa. Ví như Khổng Tử Trung Quốc quý trọng về nhơn thừa.
Phật giáo cũng vậy, dạy người đời giữ gìn ngũ giới,
trở thành người công dân tốt, có ích lợi cho xã hội, cho
nước nhà.
Tại
sao Đức Phật chia làm ngũ thừa? Vì căn cơ trình độ của
mọi người khác nhau. Để phù hợp cho mọi căn cơ, nên nói
có ngũ thừa. Như hiện nay tôi hoằng dương Tổ Sư Thiền,
thuộc Tối thượng thừa, cũng có người hoằng dương Đại
thừa, hoặc Trung thừa, hoặc Tiểu thừa, Nhơn, Thiên thừa…
chỉ cần mỗi người theo đúng bổn phận của mình, theo đúng
tông chỉ của Phật là đủ .
Tôi
chỉ chuyên hoằng Tổ Sư Thiền, ngoài ra không biết tới,
cũng chẳng thể can thiệp. Sở dĩ nói mạt pháp, vì nghiệp
lực của chúng sanh đã là như thế, dẫu cho hằng sa chư Phật,
Bồ tát cũng không thể sửa đổi, Phật Thích Ca trở lại
cũng chẳng thể sửa lại định nghiệp của chúng sanh.
Đức
Phật có ba việc không làm được:
1/ Chẳng thể độ người không có nhân duyên.
2/ Chẳng thể sửa lại định nghiệp của chúng sanh, vì nhân
nào quả nấy.
3/ Chẳng thể độ hết chúng sanh.
Cho
nên, mọi người cứ làm đúng bổn phận của mình, là tuân
theo lời dạy của Phật.
Trong
Phật pháp có thất chúng: Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Thức xoa, Sa-di,
Sa-di-ni (Năm chúng xuất gia), Ưu-bà-tắc và Ưu-bà-di (Hai chúng
tại gia). Mỗi mỗi đều có bổn phận riêng, cho đến xã
hội cũng vậy: Làm cha có bổn phận của người cha, làm mẹ
có bổn phận của người mẹ, làm con có bổn phận của người
con, làm chồng có bổn phận của chồng v.v… nếu người
nào cũng làm tròn bổn phận của mình thì xã hội yên tịnh,
thiên hạ thái bình.
Hỏi:
Cõi trời nhập định tại sao không được giải thoát?
Đáp:
Do còn chấp ngã nên không giải thoát được. Người tu đến
Cõi Phi tưởng phi phi tưởng, thọ mạng tám muôn đại kiếp,
thuộc về Vô Sắc Giới, chẳng còn sắc thân, nhưng vì chấp
a-lại-da thức là ta, nên vẫn chưa ra khỏi luân hồi, chẳng
thể giải thoát.
Đã
theo chánh pháp phải phá ngã chấp, thời gian nhập định lâu
chưa phải đã giải thoát. Ví như ngài Huệ Trì, sư đệ của
ngài Huệ Viễn, ở Lư Sơn từ giã Sư huynh, đi vào tỉnh Tứ
Xuyên. Trên đường đi thấy có một cây rất cao to, lại có
chỗ trống rổng bên trong, bèn chui vào trong nhập định, sau
đó lỗ chui bị bít, người ngoài chẳng ai hay. Trải qua một
thời gian, do sấm sét khiến cây bị chẻ ngã, ngài từ trong
bọng cây té nhào ra, tóc dài quấn cùng thân thể, nhưng vẫn
chưa xuất định. Dân làng xung quanh lúc đầu tưởng ngài
đã chết, vì thấy còn hơi ấm mà chẳng cách nào khiến tỉnh
lại, bèn chở vào kinh thành báo với vua. Vua sai Thiền sư
khiến cho xuất định, hỏi:
-
Pháp sư nhập định lúc nào?
-
Mới hồi nãy.
Xong ngài hỏi lại:”Sư huynh tôi là Huệ Viễn, lúc này còn
ở Lư Sơn không?”
Mọi
người tính ra mới biết ngài nhập định đã bảy trăm năm.
Vua hỏi:
-
Nay pháp sư có mong muốn gì không?
Đáp:
Không.
Vua
nói: Trẫm ban cho chùa chiền để làm Trụ trì?
Ngài
từ chối, chỉ xin được trở về núi.
Việc
trên chứng tỏ, nhập định trải qua bảy trăm năm, cũng đâu
có ích lợi gì ! Nên ngài Lục Tổ nói:”Đạo do tâm ngộ
bất tại tọa”.
Hỏi:
Khi nổi lên tâm không biết để nhìn, đó có phải là hầm
sâu đen tối không?
Đáp:
Chỗ không biết tức đen tối, chỉ cần giữ cái không biết,
gọi là nghi tình, vừa nhìn vừa hỏi câu thoại để tăng
cường nghi tình, đến một ngày kia khỏi cần hỏi cũng giữ
được nghi tình, lúc đó không hỏi cũng được. Ví như ngài
Nguyệt Khê chỉ có nhìn mà không hỏi, hai năm đã kiến tánh.
Hỏi:
Người mới tham thiền, hay ngủ gục, vậy phải làm sao?
Đáp:
Trong Thiền đường có ban chức sự, có người tuần hương.
Hễ đông người thì nhiều người đi tuần, ví như hai trăm
người tham gia thì có từ hai đến bốn vị tuần hương. Gặp
người buồn ngủ, vị tuần hương dùng cây hương bảng đánh
nhẹ trên vai cho thức.
Lần
này tôi đi thăm Chùa Cao Mân, nghe được một câu chuyện như
sau:
Khu
đất Chùa Cao Mân là do vua đời nhà Tùy ban cho, đến đời
nhà Thanh, đã hơn một ngàn năm, Vua Khang Hy có dựng một hành
cung trong chùa, cổ tích đó đến nay vẫn còn.
Vua
Khang Hy đến viếng Chùa sáu lần, mỗi lần đều vào Thiền
đường tọa hương với tăng chúng. Trong Thiền đường có
hai chỗ ngồi, một bên dành cho Thủ Tọa, và một bên cho
Duy Na. Thủ tọa và Duy na đều có cây hương bảng để sử
dụng khi chúng phạm lỗi. Một lần, Vua đang ngồi thiền,
thình lình bị Duy Na dùng hương bảng đánh trên vai ba cái,
Vua tức giận trong bụng, nhưng vì qui củ của Thiền đường
không được lên tiếng. Đến khi xả thiền, vua tìm gặp Trụ
trì bảo:
-
Hồi nãy sao vị Duy Na dám đánh Trẫm?
Trụ trì mời Duy Na đến hỏi nguyên do, Duy Na nói:
-
Vào Thiền đường là phải nhất tâm tham thiền. Thần thấy
tâm Vua đang nghĩ đến cung phi, không có tham Thiền, nên
đánh thức để trở về với tham thiền”
Vua bị nói trúng, chẳng những không giận, còn kính phục
vị Duy na.
Câu chuyện trên được ghi trong lịch sử của Chùa Cao Mân:
Vua Khang Hy viếng chùa sáu lần, vua Càn Long chín lần.
Cho
nên, dùng hương bảng đánh trên vai là để cho những người
buồn ngủ thức giấc. Cũng có người nghi tình nặng, trông
bề ngoài giống như buồn ngủ, khi hương bảng đánh xuống,
khiến liền ngộ. Ngoài ra, người tuần hương thấy ai ngó
qua ngó lại cũng đánh, nói chuyện cũng đánh, nhưng đánh
mạnh hơn; ấy là trách nhiệm của người tuần hương.
Hỏi:
Hành giả tham thiền phải tu làm sao để thấu Tam quan?
Đáp:
Đó tùy thuộc vào chính mình. Cũng như ngài Cao Phong Nguyên
Diệu Thiền sư trong Thiền Quan Sách Tấn nói:”Nếu nghi tình
của mình nặng như cục đá lớn từ trên đỉnh núi rơi xuống
biển, chẳng một sự chướng ngại nào, trong bảy ngày đêm
mà không kiến tánh, thì Cao Phong ta sẽ đọa địa ngục A-tỳ
, bị cắt lưỡi vì tội nói dối.” Nếu hành giả tham thiền
dụng công đến mức như ngài Cao Phong nói trên, trong bảy
ngày đêm cũng có thể kiến tánh.
Trong
lịch sử Thiền tông có Thiền sư Phật Đăng, trong tứ oai
nghi chỉ ứng dụng một oai nghi là đi, không đứng, không
nằm, không ngồi. Ăn cũng đi, uống cũng đi, ngày đêm như
thế, đi đến mệt rồi, dựa vào vách tường ngủ mê lúc
nào chẳng hay, đến khi thức giấc, tự mình đánh mình, rồi
không đi gần vách tường nữa. Đi mãi tham mãi, đến 49 ngày
kiến tánh.
Công
phu của chúng ta nếu được như ngài Phật Đăng thì 49 ngày
cũng được kiến tánh, nhưng việc này bắt chước không được.
Hỏi:
Ngài Bác Sơn nói về công phu tham thiền có bốn điều kiện:
Khẩn- thiết- miên mật- dung hoát. Xin Sư phụ khai thị về
bốn điều kiện trên.
Đáp:
Ở trên tôi có nói đến cách “nhìn,” vừa nhìn vừa hỏi.
Cái nhìn đó khiến cho miên mật; giữ được nghi tình là
do khẩn thiết, nhất là thống thiết về sanh tử. Bởi vì
không biết mình sẽ chết vào tối nay hay ngày mai, nay chưa
chết phải giải quyết vấn đề này. Ai cũng sợ chết, nhưng
sợ vẫn phải chết. Nên phải khẩn thiết như thế.
Nghi
tình là không biết, không biết thì chẳng dính mắc với ngoại
cảnh, không để cho người khác làm chủ cho mình.; người
khác khen ngợi mình cũng không biết, chê cười cũng không
biết, khen ngợi cũng chẳng vui, chửi mắng cũng không
buồn… Tất cả việc gì đều không dính dáng đến mình,
chẳng có chướng ngại, gọi là dung hoát. Dung là dung thông,
hoát là trống rỗng, chẳng gì dính mắc. Hễ giữ được
nghi tình thì tự nhiên như thế. Nếu không, chắc chắn phải
bị dính mắc cái này cái kia.
Hỏi:
Sự hiểu biết của phàm phu là do bộ não, chính bộ não nghiên
cứu nhiều, hiểu biết nhiều, nên chúng sanh mới bị đọa
tam ác đạo, phải không?
Đáp:
Ở Mỹ, tôi có ra một bài “Phật pháp với khoa học,” mặc
dù nay nói “chấm dứt tác dụng của bộ não,” nhưng chỉ
là phương tiện. Như hôm qua tôi nói:”lục căn, kiến văn
giác tri đều là tác dụng của bộ não.” Ngài Nguyệt Khê
thí dụ:
Kiến
văn giác tri là binh lính của bọn cướp, lục căn là binh
khí của vua cướp, vô thỉ vô minh là vua cướp. Tiểu thừa
ví như tịch thu binh khí của bọn cướp. Binh khí dù bị tịch
thu, nhưng vẫn có thể sắm lại. Trung thừa ví như giết hết
binh lính cướp, cho là đã yên ổn, chẳng biết đó chỉ là
tạm thời thôi, vì còn vua cướp (vô thỉ vô minh), có thể
chiêu binh mãi mã, hoạt động trở lại. Nay tham thiền ví
như chẳng tịch thu binh khí của bọn cướp, cũng chẳng giết
hại lính cướp, mà lợi dụng lính cướp, cầm binh khí của
họ để bắt vua cướp. Vua cướp bắt được rồi, thì lính
cướp trở thành lính chính qui của nhà nước.
Cho
nên, chỉ cần phá được vô thỉ vô minh, tất cả tương
đối đều thuộc về tự tánh, đều biến thành tuyệt đối.
Nay cuộc sống hàng ngày là do lục căn làm chủ; khi kiến
tánh rồi, Phật tánh làm chủ, bộ não chỉ là đầy tớ thôi.
Phật tánh sai khiến bộ não làm việc, chỉ làm điều lành,
không làm việc xấu. Còn do bộ não sai khiến thì hay làm việc
xấu vậy.