[05] 20/10/93–26/10/93
tại Chùa Từ Ân, Quận 11
Ngồi
tham thiền nhắm mắt hay mở mắt?
Tham
thiền có tâm đợi ngộ, được không?
Làm
thế nào tránh tẩu hỏa nhập mả
Chưa
ăn chay trường tham thiền được không?
Tham
Tổ sư thiền có thể ngồi thiền 2-3 giờ ? Có lỗi gì không?
Nếu
chỉ tu một pháp môn, làm sao giáo hóa chúng sanh?
Nhất
Phật thừa bao gồm tất cả pháp
Dụng
của tự tánh, tùy nghi thuyết pháp, chẳng phải do học
Tham
thiền đủ thứ cảnh giới đều do vọng tưởng
Thế
nào “Một hớp nuốt hết nước Tây giang?”
Thế
nào là thiền bệnh?
Tổ
Huỳnh Bá và Tướng quốc Bùi Hưu
Địa
ngục ở đâu
Vô
thượng sư chỉ có chư Phật
Niệm
sau không cướp đoạt niệm trước
Thời
gian một đại kiếp
Hỏi:
Khi chúng con ngồi tham, phải nhắm mắt hay mở mắt?
Đáp:
Ban đầu không biết cách nhìn phải nhắm mắt để tập. Tại
sao? Vì khi mở mắt, thấy những cảnh vật trước mắt, biết
cái này là bình, cái kia là tách, hễ nhắm mắt là không thấy,
không thấy thì không biết, chỉ thấy đen tối mịt mù,
cứ nhìn vào chỗ đen tối, mặc dù đó chưa phải là thoại
đầu. Nay chưa đến thoại đầu, nhưng phải lấy thoại đầu
làm mục tiêu, nhìn chỗ chưa có niệm nào, vừa nhìn vừa
hỏi câu thoại để kích thích khởi lên nghi tình, chẳng phải
dùng con mắt nhìn, mà dùng tâm, tức tánh thấy để nhìn .
Khi
tập đến nhìn được rồi thì mở mắt cũng như nhắm mắt,
thấy như chẳng thấy, nghe như chẳng nghe. Tâm Kinh nói “vô
nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý, vô sắc thanh hương vị xúc pháp,
vô nhãn thức giới cho đến vô ý thức giới…,” lục căn
tiếp xúc lục trần như không tiếp xúc, thì chẳng sanh lục
thức; chẳng sanh lục thức tức không biết, không biết này
gọi là nghi tình.
Giữ
được nghi tình rồi, khỏi cần hỏi câu thoại cũng được,
cứ suốt ngày nhìn chỗ mịt mù đen tối, không biết là cái
gì, ngài Nguyệt Khê gọi là “hầm sâu đen tối,” Thiền
tông hình dung sự đen tối đó là “thùng sơn đen.” Giờ
phút kiến tánh được hình dung là “thùng sơn lủng đáy,”
thùng lủng thì thấy sáng, nghi tình đến thoại đầu, giờ
phút cuối cùng bùng nổ một cái, tức giác ngộ kiến tánh
thành Phật, cũng là từ mở mắt chiêm bao thức tỉnh, tất
cả khổ trong chiêm bao đều tự mất.
Hỏi:
Tham thiền có tâm đợi ngộ, được không?
Đáp:
Tâm đợi ngộ là có sở cầu, tức cầu ngộ. Điều kiện
đầu tiên tham Tổ Sư Thiền là “vô sở cầu,” chẳng nổi
tâm cầu ngộ, cũng đừng sợ mình không ngộ, vì có đi ắt
phải đến, đi nhanh đến nhanh, đi chậm đến chậm, chứ
không cần cầu ngộ đợi ngộ. Đến khi ngộ, chẳng phải
ngộ câu đáp án của thoại đầu, mà là ngộ bản tâm bản
tánh của chính mình.
Hỏi:
Tham thiền muốn tránh tẩu hỏa nhập ma phải
như thế nào?
Đáp:
Tất cả thiền khác có thể tẩu hỏa nhập ma, Tổ Sư Thiền
thì không. Tại sao? Vì các pháp Thiền kia là dùng tâm
biết để tu, biết thì có yêu ghét, có ham thích, người thì
để ý hơi thở, người thì để ý cái này cái kia… ma có
thể thừa cơ đột nhập. Còn Tổ Sư Thiền là dùng cái không
biết để tu, chẳng yêu ghét ham thích, nên ma chẳng có dịp
để quấy phá.
Hỏi:
Người chưa ăn chay trường có thể tham Thiền được không?
Có được lợi ích gì?
Đáp:
Nếu tham đúng theo tông chỉ Tổ Sư Thiền thì được lợi
ích. Ăn chay chẳng phải có công đức gì như người đời
thường hiểu lầm, ăn chay thuộc về nhân quả: Vì chúng
sanh bình đẳng, tất cả đều có Phật tánh, hễ giết một
mạng phải trả một mạng, ăn cục thịt phải trả cục thịt,
mình ăn người ta thì người ta sẽ ăn lại mình… chúng sanh
ăn nuốt lẫn nhau. Kiếp này người ăn dê, kiếp sau con dê
làm người, người làm con dê, cứ thay phiên ăn nuốt lẫn
nhau, cũng như tự mình ăn thịt mình vậy.
Hỏi:
Tổ Sư Thiền ngồi 2-3 tiếng đồng hồ có lỗi gì không?
thay vì đi nửa tiếng ngồi nửa tiếng?
Đáp:
Ngồi mười tiếng cũng không có lỗi. Lỗi chẳng tại ngồi,
mà tại chấp tâm. Bất cứ chấp cái gì, chấp ngồi cũng
thành lỗi, chấp đi cũng thành lỗi, kể cả chấp Phật cũng
thành lỗi, nếu chẳng chấp thì không thành lỗi. Ví như Cõi
Tứ Không, nhập định tám muôn đại kiếp, đâu có lỗi !
Chỉ do chấp mà không ra khỏi sanh tử luân hồi, chứ chẳng
phải do ngồi.
Hỏi:
Trong Tứ Hoằng Thệ Nguyện có câu “Vô lượng pháp môn thệ
nguyện học,” nếu Thiền tông chỉ tu một pháp môn, chỉ
bám chặt câu “tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên”mà
cố giữ lấy pháp tu của mình, khi ra hoằng pháp, làm sao có
thể thích ứng với mọi căn cơ? Ví như gặp người thích
Phật Di Đà thì ta phải tán thán Phật Di Đà; gặp người
thích Phật Thích Ca thì ta tán thán Phật Thích Ca v.v…Do đó,
con kết luận: Đạo phải như trái banh trên mặt nước, có
thể luân chuyển được bốn phương tám hướng, nếu chỉ
nói về Tổ Sư Thiền thì con thấy hạn hẹp quá?
Đáp:
Lời của ông nói rất đúng, nhưng khi hoằng hóa phải dạy
người ta nhất môn thâm nhập. Ví như trường đại học nơi
thế gian, học đến cao rồi, chỉ chuyên một ngành, chứ chẳng
thể học bao quát được.
Cũng
như chế tạo máy bay, một người chẳng thể học hết toàn
bộ hệ thống trong máy bay…Nhưng nếu người dạy biết hết
là tốt. Tại sao? vì đều bao gồm trong Tự tánh. Như Chư
Tổ kiến tánh rồi, bất cứ hỏi về tông phái nào đều
trả lời được, đều dạy được. Ví như Thiền sư Trung
Phong, có người hỏi về Tịnh độ thì ngài dạy pháp Tịnh
độ, nên người đời đồn rằng ngài kiến tánh rồi sao
còn học pháp Tịnh độ, ấy là sai !
Mặc
dù tôi chưa kiến tánh, nhưng người ta hỏi về pháp nào tôi
phải trả lời pháp đó. Tôi đi các nước Canada, Úc, cho đến
các trường Phật Học Cơ Bản ở Việt Nam, Phật tử hỏi
về pháp Thiền của tông Thiên Thai; về pháp Tín, Nguyện,
Hành của Tịnh độ v.v…tôi phải trả lời theo pháp đó,
dạy về đường lối tu Tịnh Độ … Đa số người tu Tịnh
Độ chỉ biết có Tây phương Tịnh độ, thật ra còn có Đông
phương Tịnh độ, Đâu Suất Tịnh độ … Cho nên, đâu phải
tôi bắt buộc mọi người phải tu Tổ Sư Thiền ! Chỉ là
tôi chuyên hoằng dương Tổ Sư Thiền thôi.
Hỏi:
Theo con nghĩ, khi Phật Thích Ca vừa thành đạo, nghĩ rằng
chẳng thể dùng Nhất Phật thừa để dạy chúng sanh, nên
thuyết Tam thừa. Nay Sư phụ tự nói chưa kiến tánh, lại
dùng Nhất Phật thừa độ chúng con, vậy có sái ý của Phật
không?
Đáp:
Cô cho cái gì gọi là Nhất Phật Thừa, cái gì gọi là Tam
Thừa? Kinh Pháp Hoa nói:”Duy có nhất Phật thừa, chẳng có
hai và ba,” nói hai nói ba đều là phương tiện. Mặc dù nói
nhất thừa, nhưng bao gồm tất cả; chẳng những Tam thừa,
kể cả thế gian công thương kỹ nghệ, đến tà ma ngoại
đạo đều bao gồm trong đó, chẳng có cái nào ở bên ngoài.
Tại sao? Vì chơn tâm khắp không gian thời gian, đâu có cái
gì ở ngoài !
Do
có tâm phân biệt nên bị hạn chế, như tôi thường nói:
Hạn chế cái Không ở trong cái tách, hạn chế cái Không ở
trong cái bình; thật ra, cái Không ở trong tách và ở trong
bình đâu có khác nhau? Cái Không ở trong nhà và ở ngoài nhà
đâu có khác? Chỉ là tự mình hạn chế nhỏ lại rồi cho
là khác. Đủ thứ khác biệt đều do tự mình hạn chế, kỳ
thật đều ở trong Nhất thừa.
Do
tâm của mỗi người mỗi khác, trong Phật pháp nói đến hữu
học và vô học, vô học cao hơn hữu học, vậy thì không
cho học, đừng học, được không? Nếu không cho học thì
tu không được, rồi chìm đắm mãi trong sanh tử sao? Cho nên,
Đức Phật đặt ra đủ thứ phương tiện, tám mươi bốn
ngàn pháp môn, tùy theo căn cơ để giáo hóa. Do đó, mặc dù
tôi chuyên hoằng Tổ Sư Thiền, nhưng cũng tùy theo căn cơ
dạy các pháp môn, ai hỏi pháp môn nào tôi trả lời theo pháp
môn đó.
Hỏi:
Sư phụ dù chỉ rõ hạt châu trong áo của chúng con, nhưng
Sư phụ là người phước trí vẹn toàn còn chưa kiến tánh,
vậy chúng con phải tu đến bao giờ?
Đáp:
Nếu tự tin có hạt châu thì hãy lấy ra xài, đâu cần tìm
nơi khác !
Hỏi:
Sư Phụ còn chưa lấy ra được, chúng con làm sao lấy ra?
Đáp:
Mặc dù hiện nay tôi chưa lấy ra được, nhưng cũng xài được
chút đỉnh. Tại sao? Tôi chưa có học qua Viện Phật
Học một ngày nào, tuy không có học kinh, nhưng nay người
nào hỏi về kinh gì tôi đều giải đáp được. Tôi chưa
học qua Giới luật, nhưng khi có người hỏi về giới luật,
lời tôi giải đáp khiến họ cứ tưởng tôi là Luật sư.
Hôm trước tiếp chuyện với Hòa thượng Huệ Hưng, ngài chuyên
dạy về Giới luật, cũng tưởng tôi chuyên về Luật, là
Luật sư, Hòa thương Tuệ Đăng Chùa Kim Cương cũng tưởng
như thế.
Tôi
không có học, chẳng qua trong Tự tánh đã sẵn có. ÏLại
nữa, trình độ học của tôi cũng chẳng phải là cao, tôi
chỉ học đến tiểu học, nhưng sau này tôi dạy cả học
sinh tú tài, tôi trước tác sách Hán văn ; đó đâu phải do
học, lúc công phu đến mức thì sức dụng của Tự tánh tự
hiện. Ví như quí vị hỏi về Phật Pháp, bất cứ điều
gì, tôi đều trả lời ngay, đâu cần suy nghĩ !
Ở
nước Mỹ, tôi trả lời Phật pháp bằng tiếng Phổ thông
qua Đài “Tiếng nói Trung Hoa,” hễ có hỏi là trả lời
liền, đâu cần đem theo kinh sách! Cho nên, những người cần
học thì phải học, những người chẳng cần học thì khỏi
học, chứ chẳng phải người nào cũng giống người nào.
Do có chấp tâm cho là phải học, nếu người cần học chẳng
cho học, còn người ta không cần học lại bắt học, há có
được chăng? Cũng do có tâm chấp, cho là không học tức tu
mù, đâu phải vậy!
Thuở
nhỏ, người lối xóm gọi tôi là “nấu không chín,” ý
nói là thằng khờ, nhưng bây giờ tôi đi thuyết pháp khắp
thiên hạ, có ai nói tôi là “nấu không chín”đâu !
Hỏi:
Khi con ngồi tham thiền, đủ thứ cảnh giới bao vây lấy con,
vậy phải làm sao?
Đáp:
Đó đều là vọng tưởng, do vọng tưởng mới hiện ra đủ
thứ cảnh vật. Người tham thiền là dùng cái không biết
để tu, còn cảnh giới khủng khiếp, cảnh giới vui, cho đến
Phật Thích Ca đến rờ đầu thọ ký mình thành Phật v.v…
đều là vọng, không biết tới. Đường lối thực hành của
mình là không biết, tại sao lại biết đến những thứ đó
! Ấy là do tập khí phiền não từ lâu đời, nay cứ giữ
lấy nghi tình, bất cứ hiện cảnh giới gì đều mặc kệ
nó, hiện cứ hiện, tham cứ tham, chỉ nhìn vào câu thoại
đầu tham tới mãi, vậy là được rồi.
Hỏi:
Có người lập lại lời “Một hớp nuốt hết nước Tây
Giang”của Mã Tổ đáp Bàng Uẩn, vậy có phải là Thiền
bệnh không?
Đáp:
Không phải. “Một hớp nuốt hết nước Tây Giang”là câu
thoại đầu, tất cả công án đều là chỉ chỗ thoại đầu,
chứ chẳng phải để cho người giải thích ý nghĩa. Nay thiền
Nhật Bổn và thiền Đại Hàn là giải thích công án, chẳng
bao giờ kiến tánh được. Tất cả lời của chư Phật chư
Tổ ý chẳng ở chỗ lời nói, là muốn chấm dứt tác dụng
tìm hiểu, suy nghĩ, ghi nhớ của bộ não. Người tìm hiểu
lời nói, suy nghĩ ra đáp án để trình chỉ là kiến giải,
chẳng phải là ngộ. Người đã ngộ Phật tánh khắp không
gian thời gian, đâu có gì để hỏi nữa.
Hỏi:
Thế nào gọi là Thiền bệnh?
Đáp:
Trong Kinh Lăng Nghiêm nói đến năm mươi thứ ma ngũ ấm, kể
rõ về các thứ Thiền bệnh. Sở dĩ có thiền bệnh, vì có
sở cầu sở đắc, có cái ta, ma mới nhập được. Còn
điều kiện đầu tiên của Đường lối Thực hành tham Tổ
sư Thiền là phải phá ngã chấp, ta còn chẳng có, ma nhập
vào ai? Nếu không phá ngã chấp thì chẳng thể ra khỏi sanh
tử luân hồi
Do
có cái chấp, nên mới phải phá, không chấp thì chẳng cần
phá; do có cái ta, ma mới nhập được, nếu không có ta, lấy
gì để nhập? như Lục Tổ nói “bổn lai vô nhất vật”thì
lấy gì để dính bụi trần !
Hỏi:
Vừa rồi con có nhập thất, khi công phu xong, con ra ngắm trăng,
tự nhiên trong tâm lưu xuất năm câu “Sống điên đảo, nói
điên đảo, ăn điên đảo, nghĩ điên đảo, tưởng điên
đảo,” con không biết đó là cái gì?
Đáp:
Dẫu cho lưu xuất đúng với Chơn như Phật tánh cũng là vọng,
đừng biết tới, nếu khởi lên cái biết, Thiền tông gọi
là “cửa của tất cả tai họa.” Tổ Sư Thiền là dùng
cái không biết để tu, giữ cái nghi để đưa đến kiến
tánh, khi kiến tánh sẽ biết hết. Nay có biết tức chướng
ngại cho sự tu, nên nói chữ TRI là cửa tai họa.
Ví
như Hòa thượng Thủy Lạo, bình thường đã có công phu nhưng
chưa ngộ, xin yết kiến Mã Tổ để trình công phu, Mã Tổ
nói:
-
Đảnh lễ đi !
Vừa
lạy xuống bị Mã Tổ đá nhào một cái liền ngộ.
Ấy
là thình lình chặn đứng sự suy nghĩ phân biệt. Ý thức
của chúng ta như nguồn suối, ngày đêm chảy xiết, nên cái
biết của Phật tánh chẳng thể hiện ra được. Khi thình
lình bị chặn đứng thì Phật tánh liền hiện, khỏi cần
hỏi nữa, mới biết thủ đoạn của Tổ sư.
Ví
như ngài Huỳnh Bá, bảo nhiệm sau khi ngộ. Người khác thì
nhập thất để bảo nhiệm, còn ngài lại đi vào một ngôi
chùa làm công quả, ai sai việc gì làm việc nấy.
Một
hôm, Thừa tướng Bùi Hưu đến viếng chùa, thấy trên vách
vẽ một vị cao Tăng, hỏi người chủ chùa:
-
Đây là hình tượng của ai?
-
Cao Tăng.
-
Hình vẽ đây rồi, còn cao Tăng ở đâu?
Chủ
chùa trả lời không được.
Bùi
Tướng quốc hỏi: Chùa này có Thiền sư không?
Đáp:
Có một vị mới đến mấy hôm, đang làm công quả, xem cử
chỉ thì giống Thiền sư.
- Vậy
thì mời Sư đó ra.
Gặp
Hoàng Bá, Tướng quốc hỏi:
-
Hồi nãy tôi thấy bức tranh này, hỏi Chủ chùa, nhưng
ngài lại tiếc lời dạy bảo, chẳng biết Sư có thể chỉ
dạy không?
-
Xin hỏi.
-
Hình tượng ở đây, còn cao Tăng đâu?
Huỳnh
Bá hét lên gọi: Bùi Hưu!
Bùi
Hưu đáp: Dạ .
-
Ở đâu?
Bùi
Tướng quốc liền ngộ, khen rằng: “Thật là Thiền sư !,”
bèn mời về phủ cúng dường, và lễ Ngài làm thầy.
Cho
nên, Phật pháp chẳng phải do học, chỉ có Thiền sư kiến
tánh rồi mới có cơ xảo đó, khiến người khai ngộ. Nếu
người chưa kiến tánh, cứ theo lời nói để trả lời thì
làm sao ngộ được ! Nay quí vị hỏi mà tôi trả lời, là
muốn khiến cho tin tự tâm đầy đủ, cứ giữ mãi nghi tình,
sau này sẽ ngộ.
Hỏi:
Người chết rồi tùy theo nghiệp lực vãng sanh nơi lục đạo,
vậy địa ngục ở đâu?
Đáp:
Địa ngục do tâm tạo, thân này cũng do tâm tạo, thế giới
Ta bà do cộng nghiệp tạo, Thế giới Tây phương cũng là do
cộng nghiệp tạo, tất cả đều do tâm tạo, địa ngục cũng
vậy.
Hỏi:
Sư cô Thanh Hải ở Mỹ tự xưng là Vô Thượng Sư, vậy
có đúng không? Nếu không, sao lại có nhiều người theo?
Đáp:
Vô Thượng Sư là Phật. Chư Tổ kiến tánh hơn bảy ngàn vị,
chẳng vị nào dám xưng là Vô Thượng Sư, vì đó là hiệu
Phật, đã chứng quả Diệu giác. Chứng đến Đẳng Giác rồi
còn chưa thể gọi là Vô Thượng Sư, trên cõi Ta Bà này, ngoài
Đức Phật Thích Ca ra, các vị Bồ tát, Cổ Phật cũng chưa
ai tự xưng là Vô Thượng Sư.
Trong
Thiền tông, có một vị Tổ đã kiến tánh nhưng chẳng ai
theo. Vị đó mỗi ngày thuyết pháp hai thời, một thời vào
buổi sáng và một thời vào buổi chiều, không ai đến nghe;
cứ như thế trải qua ba mươi mấy năm., vì không có nhân
duyên vậy .
Hỏi:
Nếu tâm mình nghĩ thiện, nhưng làm không đúng tâm nguyện,
vậy có tội không?
Đáp:
Nếu phát tâm thiện nhưng chưa có làm, hoặc do hoàn cảnh
không cho phép, chứ chẳng phải không muốn làm, cũng gieo được
một thiện quả.
Hỏi:
Ví như ban đầu phát tâm muốn cúng dường chỗ này, sau lại
đem cúng dường chỗ kia, vậy có lỗi không?
Đáp:
Theo giới Bồ tát thì “niệm sau không được cướp đoạt
niệm trước,” hễ cướp thì cũng như ăn cắp. Ví dụ cái
tách của mình bị người khác lấy cắp rồi, tự mình khởi
niệm coi như bố thí cái tách đó, tức đã không thuộc sở
hữu của mình nữa. Dẫu cho sau này có gặp lại, cũng
chẳng thể nói “đó là cái tách của tôi”mà lấy lại,
vì lấy lại tức trở nên phạm tội trộm cắp, vì đã bố
thí rồi còn lấy lại, là niệm sau cướp đoạt niệm trước.
Hỏi:
Thời gian một đại kiếp là bao lâu?
Đáp:
Một đại kiếp gồm bốn trung kiếp, một trung kiếp bằng
hai mươi tiểu kiếp; một tiểu kiếp là mười sáu triệu
bảy trăm chín mươi tám ngàn năm. Tức là:
16.798.000
năm X 20 X 4 = 1.343.120.000năm
(một
tỷ ba trăm bốn mươi ba triệu một trăm hai mươi ngàn năm)
Hỏi:
Khi đang tham thiền khởi tạp niệm, phải đối trị như thế
nào?
Đáp:
Khởi tạp niệm cũng tham, không khởi tạp niệm cũng tham,
chỉ biết khán thoại đầu là nhìn chỗ không biết, tham thoại
đầu cũng là không biết, cứ nhìn như thế thì làm sao biết
có tạp niệm? Tạp niệm khởi lên mặc kệ nó, mình
tham cứ tham, tham mãi thì tạp niệm muốn nổi lên cũng chẳng
được.