[02] 29/11/92–05/12/92
tại Chùa Từ Ân, Quận 1
Dâm
tánh là nhân của tịnh tánh
Tại
sao ăn chay có thể dùng trứng gà?
Kiến
tánh triệt để rồi các tội đều tiêủ
Có
sở biết. chẳng phải nghi tình
Trước
kia tạo ác, nay đi tu có hết tội không?
Sự
tu của Hòa thượng Thích Hoằng Tu ở chùa Dũng Tuyền
Mạng
căn chưa dứt
Thường
Bất Khinh Bồ tát lễ lạy mọi người, mọi người có tổn
phước không?
Chơn
không, diệu hữu là cái gì?
Các
pháp có cao thấp không?
Người
tham thiền đến lúc lâm chung, nghi lễ thế nàỏ
Phương
tiện chẳng trí huệ thì bị phương tiện trói buộc
Phiền
não từ đâu ra
Kinh
Duy Ma Cật phá chấp của bậc Bồ tát, A La Hán
Hỏi:
“Dâm tánh”tức niệm dâm từ tự tánh sanh khởi, đúng không?
Đáp:
Trong Kinh Pháp Bảo Đàn nói:”Dâm tánh là nhân của tịnh
tánh.” Kinh Lăng Nghiêm có ba tiệm thứ: Một là trừ trợ
nhân, tức không ăn ngũ tân, vì ăn sẽ kích thích tánh dâm
dục. Thứ hai là nạo sạch chánh tánh. Nhiều người không
biết chánh tánh là gì? Ấy là tánh dâm dục. Sao gọi là chánh
tánh? Vì tất cả sinh mạng đều do tánh dâm sanh khởi. Nay
đã tạo nghiệp nhân khiến có sinh mạng, cũng do có sinh mạng
mới có thể tu giải thoát, đạt đến tự do tự tại, nên
phải đoạn dứt dâm dục, để không còn luân hồi, trôi lăn
trong dòng sanh tử.
Do
đó, người kiến tánh gọi là “cắt đứt mạng căn”: Tu
chánh pháp đến cuối cùng kiến tánh thành Phật, chấm dứt
nguồn gốc sinh mạng, không còn sanh tử luân hồi. Chẳng phải
có sinh mạng mới có sự tồn tại, vì sự tồn tại của
sinh mạng không chơn thật. Tồn tại chơn thật chỉ có tự
tánh của mình, khắp không gian thời gian.
Hỏi:
Tại sao ăn chay có thể dùng trứng gà?
Đáp:
Sở dĩ ăn chay là vì muốn tránh sự sát sanh, dùng loại trứng
gà không trống là không sát sanh. Con gà khi có trứng bắt
buộc phải đẻ ra, mà trong trứng không có trống thì chẳng
thể ấp ra gà con, hễ không ai ăn, trứng cũng sẽ hư. Người
ăn chay nếu dùng sữa bò tươi hoặc mật ong thì không bằng
dùng trứng gà không trống. Tại sao? Vì sữa bò là lương
thực của bò con, mật ong là lương thực của ong con, chúng
ta dùng những thứ đó tức giành đi khẩu phần của chúng,
còn ăn trứng gà thì không bị dính mắc vào nhân quả.
Hỏi:
Những người hành nghề sát sanh như bán hàng thịt, cá, có
tư cách tham Thiền không? Khi họ đã tham thiền, trong lòng
ray rứt về nghề nghiệp thì làm sao có thể an tâm tham thiền?
Đáp:
Phật pháp nói về nhân quả, tạo nhân gì phải trả quả
nấy, giết một mạng trả một mạng. Ví như giết một trăm
con gà và ăn thịt một trăm con gà đó, sau này phải đầu
thai con gà một trăm kiếp, cho người khác giết và ăn thịt
lại.
Còn
nói về tư cách tham thiền, bất kể tư cách gì đều tham
được. Nếu sau khi tham thiền rồi vẫn không bỏ được nghề
sát sanh, ấy là lỗi tại mình, chứ đâu phải tại pháp môn
tham Thiền ! Hễ tin nhân quả thì phải bỏ ngay; Do có ngã
chấp, chấp cái ta là thật, nên có sở sợ, sợ vợ con chết
đói. Nếu không, khi thay đổi nghề nghiệp, dù ban đầu gặp
khó khăn, nhưng cũng sẽ vượt qua. Mà điều kiện đầu tiên
tham Tổ Sư Thiền là vô sở cầu, vô sở đắc, vô sở sợ.
Hỏi:
Tại sao chư Tổ nói “Kiến tánh triệt để rồi các tội
chướng đều tiêu”?
Đáp:
Ngài Nguyệt Khê trong cuốn Đại Thừa Tuyệt Đối Luận nói:
“Nay cuộc sống hằng ngày đều nằm trong nhất niệm vô
minh, khi kiến tánh triệt để là bước vào quốc độ tuyệt
đối, tất cả tương đối trước kia đều biến thành tuyệt
đối.”Tại sao? Bát Nhã Tâm Kinh nói:”Vô lão tử, diệc
vô lão tử tận,” nhưng hiện nay chúng ta đều phải đối
mặt với sự già chết, trước mắt chúng ta thấy có sanh
tử, già chết, đều do tâm hoạt động mới thành có, cũng
như tôi thường thí dụ thân xoay mới thấy căn nhà xoay; do
có chiêm bao mới có sanh tử, không có chiêm bao thì làm sao
thấy hữu lậu và vô lậu?
Hữu
với Vô là tương đối, là nguồn gốc của tất cả kiến
chấp. Thật ra, tự tánh của mình vốn chẳng dính dáng với
Hữu và Vô, tôi thường thí dụ về ánh sáng đèn: Tự
tánh chẳng hình tướng số lượng, chẳng thể dùng lời nói
diễn tả, ví như đốt lên mấy mươi cây đèn trong một phòng,
ánh sáng đèn nào cũng cùng khắp không gian. Nếu đã khắp
không gian thì sự tương đối tiêu diệt. Tại sao? Dù cho mấy
mươi cây đèn, mấy trăm cây đèn… cũng chỉ là một ánh
sáng, thì làm sao có tương đối !
Hỏi:
Con vốn là gốc ngoại đạo, trải qua hai mươi năm tìm đạo,
gặp nhiều gian khổ: Mười năm trong ngoại đạo, bốn năm
niệm Phật trì chú, hai năm tu theo phương pháp “Không sợ
vọng khởi, chỉ e giác chậm”… Đến đây, được quí sư
chỉ bảo xem cuốn Đại Thừa Tuyệt Đối Luận, ngài Nguyệt
Khê quét ngay bệnh của con, từ đó mới bắt đầu lần mò
tham Tổ Sư Thiền.
Ngài
Lai Quả nói:”Chúng sanh suốt ngày sống trong vọng tưởng
của vọng tưởng, tham thiền dù cũng là vọng tưởng, nhưng
là tâm đi trước, còn vọng tưởng của vọng tưởng là nghiệp
đi trước…”Chư Tổ đều nói như thế, nên con quyết tử
tham câu thoại đầu.
Nay
con gặp phải một tình trạng như sau: Tháng Tư vừa rồi con
nhập Hạ tại chùa Pháp Thành, khi về đến nhà, bỗng câu
thoại đầu sở tham tuôn ra từng tiếng trong cơ thể, như
có máy ghi âm bên cạnh, bất cứ đang làm việc gì đều rõ
ràng như thế. Lúc đó do tánh hiếu kỳ, con quên tham tiếp
câu thoại, chỉ muốn dò tìm đó từ đâu ra? Vậy xin Sư phụ
khai thị.
Đáp:
Đó là vì ông chỉ niệm câu thoại, không có nghi tình. Vì
nghi tình không hiểu không biết, nay biết rõ câu thoại, lại
nghe rõ như máy thu băng thì chẳng phải nghi tình. Bây giờ
phải nhìn ngay chỗ không biết, chỗ một niệm chưa sanh khởi,
gọi là “khán thoại đầu,” vừa nhìn vừa hỏi câu thoại,
mới giữ được nghi tình.
Nói
“nhìn chỗ đen tối”cũng là vọng tưởng, nhưng vọng tưởng
này khác hơn “vọng tưởng của vọng tưởng,” vì vọng
tưởng của vọng tưởng dẫn chúng ta đi vào sanh tử, còn
vọng tưởng này dẫn chúng ta ra khỏi sanh tử. Nay chẳng cần
biết đến xanh vàng đỏ trắng, cứ giữ cái không biết,
không cho bộ não tìm hiểu, ghi nhớ, suy lường… hễ giữ
được cái “không biết”là tham thiền, nếu để mặc cho
suy nghĩ, biết cái này cái kia thì chẳng phải tham Thiền.
Hỏi:
Người tu hành trước kia đã tạo ác, nay đi tu có hết tội
không?
Đáp:
Thiện với ác là tương đối, Tham thiền đến kiến tánh
rồi là đi vào quốc độ tuyệt đối, tất cả tương đối
không còn nữa. Mà tương đối cũng là do tâm tạo, nhắm mắt
chiêm bao hay mở mắt chiêm bao cũng là chiêm bao, khi thức tỉnh
rồi, ra ngoài chiêm bao, lúc đó tìm tội chướng ở đâu?
Cho nên, chỉ cần thức tỉnh, thì tất cả việc làm trong
chiêm bao đều tìm không ra.
Hỏi:
Sư phụ giới thiệu sơ lược về sự tu của Hòa Thượng
Thích Hoằng Tu, Bổn sư của Sư phụ:
Đáp:
Kính thưa Chư Tôn Hòa thượng, Thượng tọa, Đại đức, Tăng
Ni và quý Phật tử:
Sáng
nay, Hòa thượng Trụ trì, cũng là Bổn sư của tôi, muốn
đích thân lên dạy cách tuần hương của Thiền đường, và
đem lên hai cây hương bảng. Nhưng vì bị bận việc, nên để
tôi một mình khai thị. Và tôi xin giới thiệu sơ lược về
Hòa thượng Bổn sư của tôi:
Hòa
thượng năm nay đã tám mươi tuổi, Lúc hai mươi mấy tuổi,
Hòa thượng ở tòng lâm Chùa Dũng Tuyền, Cổ sơn, huyện Phúc
Châu, tỉnh Phước kiến, Trung Quốc.
Hòa
thượng tham Tổ Sư Thiền nơi Thiền đường được hai năm,
Ở Cổ Sơn chia làm ba lối tu: một là ở Thiền đường, có
hai trăm Tỳ-kheo chuyên tu; hai là ở Niệm Phật Đường, có
hai mươi mấy vị chuyên niệm Phật, ba là có mười mấy vị
chuyên ở trên lầu lễ Sám Đại Bi.
Lúc
đầu, tất cả tu sĩ hằng ngày đều dự hai thời khóa tụng
và ăn quá đường, nhưng sau một thời gian, những vị tham
thiền đã quyết tử chuyên tu rồi, ra hẳn một Thiền đường
nhỏ, khỏi dự khóa sớm chiều và ăn quá đường, suốt ngày
chỉ đi hương tọa hương, đến giờ ăn thì có người dọn
sẵn. Qua một thời gian nữa, những người thật quyết tử,
được cho ở cốc một mình, cách chùa hơi xa, cứ nửa tháng
về chùa lãnh một túi cơm cháy về tự nấu, có người chỉ
ngâm cơm cháy với nước lạnh rồi ăn. Ngày qua ngày, một
năm qua một năm,, đến nổi chỉ ăn cơm cháy chứ không thèm
ngâm nữa.
Nói
chung, sự tu chia làm ba giai đoạn: Lúc đầu ở chùa, sau ở
riêng Thiền đường nhỏ, và sau cùng ra ở cốc một mình,
chuyên tu khổ hạnh đến kiến tánh.
Cho
nên, đối với qui củ Thiền đường, Hòa Thượng nắm rất
rõ. Đây là cây hương bảng, sao gọi hương bảng? Khi xưa
không có đồng hồ, thời gian đi huơng tọa hương chỉ đốt
lên một cây nhang: cứ đốt một cây nhang ngồi, gọi là tọa
hương; rồi đốt một cây nhang để đi, gọi là đi hương,
bắt đầu tọa hương đi hương gọi là khởi hương, lúc xả
thiền gọi là phóng hương ...
Cây
hương bảng là dùng để cảnh sách chúng, ai vi phạm qui củ
thì đánh bằng cây hương bảng. Tôi thấy ở trên cây hương
bảng của Chùa Cao Mân có ghi hai chữ “Cảnh sách.” Người
tuần hương cầm cây hương bảng đứng hoặc đi, chứ không
được ngồi. Lúc tọa hương, hễ hành giả nào ngó qua ngó
lại hoặc ngủ gục, người tuần hương đánh nhẹ trên vai,
nói chuyện thì đánh mạnh hơn.
Trong
Thiền đường Trung Quốc, chẳng phải như hiện nay ở đây,
muốn đi tiêu tiểu lúc nào cũng được. Quí vị có xem cuốn
Thiền Thất Khai Thị Lục thì biết: Vào trong Thiền đường
rồi là đóng cửa lại, đến giờ cho đi vệ sinh mới mở
cửa. Ngày thường, nếu chưa đến giờ mà muốn ra ngoài,
xin phép vị Duy Na, phải chịu sáu hương bảng mới cho ra.
Còn ngày đả thất thì không được xin ra, như ngài Lai Quả
nói:”chẳng thà ỉa trong quần thì được, chứ xin ra thì
không .” Nếu người bị bệnh nặng chết rồi, đem để
dưới quảng đơn, khi giải thất rồi mới đem chôn một lượt.
Qui củ Thiền đường nghiêm khắc như thế.
Lại
nữa, nhà vệ sinh của Thiền đường Trung Quốc thường cách
hơi xa, đến giờ đi vệ sinh, Duy Na thường sai người tuần
hương cầm hương bảng đi theo, hễ ai nói chuyện sẽ bị
đánh.
Hỏi:
Trong cuốn Bá Trượng Ngữ Lục và Quảng Lục có câu: “Từ
Sắc giới trở lên bố thí là bệnh, bỏn xẻn tham lam là
thuốc; từ Sắc giới trở xuống, bỏn xẻn tham lam là bệnh,
bố thí là thuốc,” nghĩa như thế nào?
Đáp:
Cuộc sống hằng ngày của chúng ta đều nằm trong phạm vi
tương đối, gọi là nhất niệm vô minh. Nguồn gốc của nhất
niệm vô minh là CÓ và KHÔNG. Thiện và ác là tương đối,
người thường hay bỏ ác làm thiện, làm thiện được phước
báo, làm ác bị khổ báo, là việc trong luân hồi.
Mục
đích của Phật pháp là ra khỏi luân hồi, nên phải quét
sạch tương đối: Chẳng phải không làm thiện, nhưng làm
thiện không trụ nơi thiện, cho đến chứng quả A-la-hán không
được trụ quả vị A-la-hán, chứng quả Bồ tát không trụ
nơi quả vị Bồ tát, chứng quả Phật không trụ nơi
quả vị Phật v.v… Nếu có sở trụ tức còn ngã chấp vi
tế, ví như chứng đến Niết Bàn mà trụ quả Niết bàn,
tức còn Niết bàn ngã, là phá được ngũ uẩn ngã lại kẹt
nơi Niết bàn ngã, Thiền tông gọi là “mạng căn chưa dứt’.
Phải chứng đến cuối cùng mà chẳng biết có ta năng chứng,
kể cả cảnh giới chứng cũng tan rã, gọi là “ngộ rồi
đồng như chưa ngộ.” Tại sao? Vì có mê mới có ngộ, nay
ngộ rồi tức hết mê, hết mê thì cũng hết ngộ.
Lời
nói của chư Phật chư Tổ chỉ là phương tiện tạm thời,
chấp đến đâu phá đến đó. Nên ngài Lâm Tế có câu “Gặp
ma chém ma, gặp Phật chém Phật,” chẳng phải là chém Phật,
chỉ là chém tâm chấp Phật của chúng ta mà thôi.
Hỏi:
Trong Kinh Pháp Hoa, Thường Bất Khinh Bồ tát lễ lạy mọi
người, kể cả Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, vậy mọi người được
lễ lạy có tổn phước không?
Đáp:
Không . Tại sao? Vì Thường Bất Khinh Bồ tát rất từ bi,
dạy người phá chấp. Phàm là chánh pháp phải phá ngã chấp,
phá hết ngã chấp rồi mới được ra khỏi sanh tử luân hồi.
Phật nói “Phật tánh của tất cả chúng sanh đều bình đẳng,”
dù nay chưa thành Phật, nhưng Phật tánh của chúng ta với
Phật Thích Ca vốn chẳng kém chút nào, chúng sanh dù chưa thể
phát huy sự dụng như chư Phật, nhưng cũng đã sẵn sàng,
khắp không gian thời gian, không hề gián đoạn. Nay chúng ta
dùng được chút đỉnh, gọi là “ứng dụng hằng ngày mà
chẳng tự biết.”
Tại
sao Thường Bất Khinh Bồ tát gặp ai cũng lễ lạy và nói:”Ông
sẽ thành Phật”? Vì muốn để cho mọi người có đủ lòng
tin tin tự tâm, tăng cường lòng tin tin tự tâm. Cho nên, ngài
lạy Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, chẳng những không làm tổn phước,
lại giúp cho tăng trưởng lòng tin, sau này được phước báo
càng lớn.
Hỏi:
Một vị Phật tử trình kiến giải: Từ trước đến giờ
con vẫn đi tìm cầu giải thoát mà chưa từng được nghe và
đọc sách Tham thoại đầu, nay có duyên lành gặp được pháp
này, con thấy pháp môn Tham Thoại đầu đưa hành giả đến
chỗ bặt suy lường, bặt ngôn ngữ, từ chỗ đó diệt được
cái ngã, tu mà chẳng thấy mình đang tu, vì không thấy pháp
môn, khác với một số các nơi khác, người ta cứ cho là
mỗi ngày tụng được bao nhiêu thời kinh, niệm được
bao nhiêu xâu chuổi, giảng được bao nhiêu quyển kinh, viết
được bao nhiêu kinh sách… và từ chỗ đó, họ thấy được
công đức tu của họ, bèn chấp vào chỗ đó.
Còn
ở đây, như sự hướng dẫn trong cuốn Đường Lối Thực
Hành Tham Tổ Sư Thiền, vô sở đắc, vô sở ngã. Tuy nhiên,
nếu chúng ta khởi lên một ý niệm, cho pháp môn của ta là
do chính Tổ sư nói lại, là tối thượng thừa, và chúng ta
là người có thượng căn, mới được nhân lành để tu tập
pháp môn này… thì con nghĩ đó cũng là chấp ngã, chấp pháp.
Theo
con nghĩ, tất cả giáo pháp của nhà Phật đều bình đẳng.
Tại sao? Vì tất cả đều hướng về Không, về kiến tánh
Như Lai. Tánh Như Lai thể tánh vốn không, an nhiên tịch tịnh,
chẳng thể dùng ngôn ngữ tỏ bày, mà chỉ có thể cảm nhận
được thôi. Xét lại tất cả pháp môn con từng dự, ở đâu
cũng cho là pháp môn của mình cao, chẳng thấy được tất
cả pháp môn đều chỉ đưa tâm mình trở về không, trở
về bình đẳng. Ví dụ: Pháp môn Tịnh độ nếu hằng ngày
niệm Phật mà tâm không cầu vãng sanh, thì lục tự Di Đà
cũng như câu thoại đầu mình tham; bên Thiền Bát Nhã cho thế
giới, thân tâm, tất cả pháp đều huyển, tức trở về không,
cũng là bình đẳng. Chúng ta tham thiền để bặt niệm, bặt
suy lường, cũng là trở về không; Thiền tông tọa thiền
để định, cho vọng niệm chẳng khởi lên, cũng là trở về
không…
Đáp:
Ông nói tất cả đều trở về không, cái nghĩa KHÔNG mà ông
nói đó là nghĩa gì?
Hỏi:
Dạ, đó là cái không của Diệu hữu, để tiến về tánh
không của vạn pháp, chứ chẳng phải cái không có.
Đáp:
Chơn không Diệu hữu là danh từ, chẳng phải việc cụ thể.
Phật giảng kinh thuyết pháp đều lấy việc cụ thể trước
mắt để dẫn chứng, giải thích cho người nghe được hiểu.
Còn Chơn không Diệu hữu, Diệu hữu Chơn không là danh từ,
người nghe có đoán mò cũng không ra, chẳng biết thế nào
là Chơn không, thế nào là Diệu hữu.
Thật
ra, nói đến chữ KHÔNG, chẳng phải Chơn không, cũng chẳng
phải Diệu hữu, chỉ là hiển bày sự dụng của Tự tánh:
Cũng như cái tách, cái bình này, nếu chẳng có cái Không,
chỉ là tách chết, không xài được. Cái bàn, căn nhà này
cũng vậy. Cái Không rộng chừng nào thì sự dụng lớn chừng
nấy. Người đời thường cho chữ KHÔNG là tiêu cực, nói
rằng tu sĩ vào cửa không bởi chán đời rồi mới đi tu,
chẳng biết vào cửa Không là tích cực, là muốn hiển bày
được sự dụng sẵn có của tự tánh.
Hỏi:
Chơn không Diệu hữu là cái Có của sự huyền diệu
?
Đáp:
Thế nào gọi là huyền diệu? Những gì không thể hiểu mới
gọi là huyền diệu.(Sư phụ giảng về móng tay 3 ngày dài
một lần, lược qua) Về sự thật phải ngộ rồi mới biết
rõ.
Hỏi:
Vậy thưa Hòa Thượng, các pháp chẳng bằng nhau sao? Các pháp
có cao thấp sao?
Đáp:
Tự tánh bất nhị, đâu có cao thấp! Nếu có cao thấp tức
là nhị pháp. Phật tánh của chúng sanh với Phật Thích Ca
vốn bằng nhau, sự dụng cũng bằng nhau, chẳng kém hơn chút
nào.
Hỏi:
Thế còn các pháp môn, có cao thấp không?
Đáp:
Làm sao có cao thấp? Ông có nghe tôi nói “Không có sanh tử”chăng?
Nếu không có sanh tử thì làm sao có pháp cao thấp? Người
đã chứng ngộ mới biết chẳng có pháp để chứng. Bây giờ
chưa ngộ, do tâm suy lường phân biệt pháp này pháp kia, đủ
thứ tương đối, ấy là bởi sống trong nhất niệm vô minh.
Sở dĩ Phật giáo khác hơn tất cả tôn giáo, vì không kiến
lập chơn lý. Nên Phật nói “Vô pháp khả thuyết mới gọi
là thuyết pháp,” “Ai nói Như Lai có thuyết pháp là phỉ
báng Phật,” “Chẳng có pháp nhất định để Như Lai thuyết”…
Vậy đâu có pháp để ông cho là cao hay thấp !
Hỏi:
Con biết, nhưng vì chúng sanh còn chấp pháp, chấp pháp môn
mình hành là cao, nên chê báng lẫn nhau !
Đáp:
Ấy là lỗi tại người khen chê, đâu phải lỗi tại pháp
! Vốn là chẳng có pháp để khen chê, mà những người tự
làm tài khôn mới lập ra sự khen chê.
Hỏi:
Bên Tịnh Độ, nếu có thân nhân lâm chung là thỉnh các thầy
đến tụng kinh, còn Thiền tông thì sao?
Đáp:
Mục đích tham Thiền là đạt đến kiến tánh, được tự
do tự tại, làm chủ lấy mình. Bát Nhã Tâm Kinh đã nói “không
có sanh tử,” thì làm sao có vấn đề lâm chung? Vô minh còn
không có mà ! Đó là lời Phật nói trong kinh, sao còn không
tin? Nếu tin nổi thì vấn đề lâm chung cũng không, làm thế
nào cũng được, chỉ là tùy duyên thôi, không cần nhất thiết
phải thế này thế kia, là người tham Thiền cứ tham thiền,
người niệm Phật cứ niệm Phật, tụng kinh cứ tụng kinh.
Hỏi:
Thiền sư Bác Sơn trong Tham Thiền Cảnh Ngữ nói:”Người
tham thiền hễ trong tâm còn để lại một chút tri giải, người
đó không bao giờ kiến tánh được.” Còn ngài Trung Phong
lại đưa ra ba điều kiện: “Mắt huệ sáng, lý tánh thông,
chí kiên cố. Nếu người nào đầy đủ ba điều trên, dù
chưa cất bước, ngài cũng biết người đó sẽ đi đến đích,
liểu thoát sanh tử; Nếu người nào chỉ có mắt huệ sáng
mà thiếu hai điều kia, chỉ có thể thành người vác bảng.”
Lời
nói của chư Tổ, tại sao người thì dạy thế này, người
thì dạy thế khác? Nếu theo lời dạy của ngài Bác Sơn, hành
giả phải hạ thủ công phu, quyết tử tham thiền, một chút
tri giải cũng không cho nhập tâm. Trái lại, ngài Trung Phong
nói nếu thiếu một trong ba điều kiện trên thì chỉ
thành người vác bảng?
Đáp:
Tôi thường nói, lời của chư Phật chư Tổ đều là phương
tiện tạm thời để phá chấp của đương cơ, đâu có
nhất định ! Nhưng phương tiện đó phải có trí huệ mới
dùng được, nếu chỉ biết dùng phương tiện mà không có
trí huệ, thì bị phương tiện ấy trói buộc.
Nếu
chúng ta tin tự tâm thì nó đã sẵn có, làm sao thiếu được?
Mắt huệ sáng, lý tánh thông đều sẵn có, bây giờ tại
mình mê, nên phải lập chí để thực hành. Vì có sự chấp,
bị chướng ngại không thông, nên phải nói “lý tánh thông,”
ví như tri kiến lập tri thành chướng ngại, phải phá sự
lập tri đó rồi mới thông, gọi là lý tánh thông.
Thật
ra, chẳng có một pháp gọi là lý tánh thông, vì đã thông
sẵn vậy. chẳng cần lý đã có lý sẵn, nên Phật giáo khác
hơn các tôn giáo khác là không kiến lập chơn lý, vì Tự
tánh đã là chơn lý sẵn có, chẳng có bắt đầu và cuối
cùng, là nghĩa vô sanh, khỏi cần kiến lập. Do có chấp thật
cái lý nên phải phá, ấy là phương tiện.
Hỏi:
Sư phụ nói Phật tánh vốn chẳng sanh tử phiền não, nhưng
thực tế chúng con không thể tránh khỏi những phiền não
ấy. Vậy xin hỏi những thứ đó từ đâu ra, mà khiến chúng
con trôi lăn trong dòng sanh tử?
Đáp:
Đó là do tâm chấp mà ra, nếu tâm chẳng chấp thật thì vốn
không có những thứ đó. Do đã sanh ra chấp tâm, nên có đủ
thứ phiền não. Phải tin tự tâm 100%, nay cảm thấy khó tin
là vì khi tiếp xúc có thật chất. (Sư phụ giảng về nhắm
mắt chiêm bao và mở mắt chiêm bao, lược qua). Cho nên chúng
ta mới cần tu, Đức Phật mới dạy chúng ta tham Thiền. Nếu
người tin nỗi, chỉ một sát na là thành Phật, người tin
không nỗi nên phải trải qua nhiều kiếp. Do đó, trong
Phật pháp, hễ tâm chấp nặng chừng nào là kém chừng nấy,
tâm chấp nhẹ thì cao, chứ chẳng phải thông minh lanh lợi
là cao, ngu si dốt nát là thấp đâu!
Hỏi:
Ngài Duy ma Cật trong lúc giảng kinh cho tứ chúng là cách gián
tiếp hay trực tiếp?
Đáp:
Ngài vốn là một vị Cổ Phật, nhưng trong Kinh Duy Ma Cật,
ngài thị hiện là một vị cư sĩ tại gia để phá chấp của
bậc Bồ tát, A-la-hán, và tất cả tập khí xuất thế gian.
Ví như trong Phẩm Thăm Bệnh, tất cả A-la-hán, Bồ tát đã
bị Duy Ma Cật quở, vì còn tập khí xuất thế gian, cho nên
Ngài thị hiện để phá chấp của các bậc Thánh đã chứng
quả. Nhưng, lời phá chấp chẳng phải chơn lý, chỉ là phương
tiện tạm thời, cũng như bảy chỗ tìm tâm trong Kinh Lăng
Nghiêm, A Nan chấp tâm trong thân thì Phật phá chẳng phải
trong thân, chấp ở ngoài thân thì Phật cũng phá chấp đó…
Nếu chấp theo lời Phật thì rốt cuộc tâm ở chỗ nào? Vì
tâm vốn khắp không gian, nếu trong thân, ngoài thân không có,
thì không cùng khắp ư? Cho nên, dù là lời của Phật, cũng
chỉ là để phá chấp thôi, chứ chẳng phải chơn lý.