x
MỤC
LỤC
|
Lời
nói đầu
|
Tiểu
sử của Hòa thượng Thích Duy Lực
|
[01]
Thiền thất 26/10/92–01/11/92 tại Chùa Từ Ân, Quận 11
|
[02]
29/11/92–05/12/92 tại Chùa Từ Ân, Quận 1
|
[03]
28/03/93–03/04/93 tại Chùa Từ Ân, Quận 11
|
[04]
27/04/93–03/05/93 tại Chùa Từ Ân, Quận 11
|
[05]
20/10/93–26/10/93 tại Chùa Từ Ân, Quận 11
|
[06]
19/11/93–25/11/93 tại Chùa Từ Ân, Quận 11
|
[07]
Khai thị tại Thủ Đức
|
[08]
18/12/93–24/12/93 tại Chùa Từ Ân, Quận 11
|
[09]
14/07/94–20/07/94 tại Chùa Từ Ân , Quận 11
|
[10]
12/08/94–18/08/94 tại Chùa Từ Ân, Quận 11
|
[11]
11/09/94–17/09/94 tại Chùa Từ Ân , Quận 11
|
[12]
10/10/94-16/10/94 tại Chùa Từ Ân, Quận 11
|
[13]
06/01/95–12/01/95 tại Chùa Từ Ân, Quận 11
|
[14]
15/02/95–21/02/95 tại Chùa Từ Ân, Quận 11
|
[15]
06/03/95–12/03/95 tại Chùa Từ Ân, Quận 11
|
[16]
05/04/95–11/04/95 tại Chùa Từ Ân, Quận 11
|
[17]
15/05/95–21/05/95 tại Chùa Từ Ân, Quận 11
|
[18]
03/06/95–09/06/95 tại Chùa Từ Ân, Quận 11
|
[19]
27/01/96–02/02/96 tại Trường Cơ Bản Phật Học Đại Tòng
Lâm
|
[20]
24/05/96–30/05/96 tại Trường Cơ Bản Phật Học Đại Tòng
Lâm
|
[21]
25/05/97–28/05/97 tại Chùa Pháp Thành, Quận 6
|
[22]
16/05/97–20/05/97 tại Chùa Tam Bảo, Sa Đéc
|
[23]
14/06/97–20/06/97 tại Chùa Tam Bảo, Sa Đéc
|
[24]
14/07/97–20/07/97 tại Chùa Tam Bảo, Sa Đéc
|
[25]
14/08/97–20/08/97 tại Chùa Tam Bảo, Sa Đéc
|
[26]
19/03/99–25/03/99 tại Chùa Hưng Phước, Quận 3
|
[27]
15/05/99–21/05/99 tại Chùa Hưng Phước, Quận 3
|
[28]
1995–1999 Khai thị tại Mỹ Quốc
|
|
QUYỂN
THƯỢNG
|
|
cn
Hòa Thượng
Thích Duy Lực
DUY LỰC NGỮ LỤC
QUYỂN HẠ (TỪ NĂM
1992-1999)
Ban
Văn Hóa Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ chí Minh Thực Hiện
Nhà
Xuất Bản Tôn Giáo Hà Nội P.L.2546 - D.L. 2002
[09] 14/07/94–20/07/94
tại Chùa Từ Ân , Quận 11
Hoa
khai kiến Phật ngộ vô sanh
Chọn
ngày xuất gia ?
Tâm
vốn trong sạch, làm sao ham dính bụi
Phiền
não từ đâu đến?
Phát
Bồ đề tâm
Tham
thiền không biết đến đúng sai
Tà
đến phiền não đến, chánh đến phiền não trừ
Thế
nào là Vô môn quan?
Vô
ký không
Phật
pháp tức thế gian pháp
Bát
phong thổi chẳng động
Tông
Thiên Thai : Tam chỉ tam quán
Tự
tâm hiện lượng
Tất
cả do tâm tạo
Giới
Bồ tát cấm nuôi mèo
Chơn
ngôn biến thực
Nhân
quả và nghiệp lực
Vô
tình diệt vô chủng, vô tánh diệt vô sanh
Hữu
tình vô tình đồng viên chủng trí
Vấn
đề trì ngọ
Thế
nào làm cho thân Phật chảy máu, phá hòa hợp tăng, giết A
xà lể
Vấn
đề tu phước, tu huệ
Công
phu cực lạ, cực quên, và phi phàm phi thánh
Vừa
tham thiền vừa xem kinh, được không?
Tại
sao ở nơi vô thỉ vô minh lại sanh nhất niệm vô minh?
Tập
khí từ đâu rả
Người
tham thiền có được chư thiên hộ trì không?
Thiền
Luận của Suzuki Nhật Bản
Công
đức hồi hướng, phóng sanh
Hỏi:
Theo Tịnh độ có 9 phẩm, tùy theo sự tu chứng của mỗi người
đi về từng phẩm, còn theo Tổ Sư Thiền phải đi đến kiến
tánh thành Phật. Nhưng nếu trong thời mạt pháp, chúng con
không thể kiến tánh ngay kiếp này thì sẽ đi về đâu? Và
nợ cơm áo của Đàn na tín thí làm sao trả?
Đáp:
Đối với vấn đề đi về đâu; Phật tánh khắp mọi
nơi, khắp không gian thời gian, chẳng có chỗ sanh khởi và
cuối cùng, ấy mới là bất sanh bất diệt của Phật tánh,
nếu có chỗ về thì chẳng phải Phật tánh. Như Tịnh độ
nói “Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh,” vô sanh là chẳng
có sự sanh khởi, hễ có sanh tức có bắt đầu, có sanh tức
có diệt, vẫn còn trong sanh tử luân hồi. Nên người chứng
ngộ nói “ngộ pháp vô sanh,” đã vô sanh thì đi về đâu?
Do chấp thật có sanh nên mới có tử, mới nói là có chỗ
về, nên cứ ở trong sanh tử luân hồi mãi.
Hỏi:
Con muốn xuất gia, nên tìm đọc quyển lịch nói về năm xuất
gia xem có thuận lợi hay không, trong đó có chỉ dẫn cả ngày
giờ xuống tóc, đọc xong khiến con do dự, vì năm nay con gặp
năm súc sanh, năm tới gặp năm ngạ quỷ, tuy nhiên người
tu hành không cần xem xét những vấn đề này, nhưng vì con
tuổi già sức yếu, không biết có vượt qua những khảo đảo
và bệnh hoạn hay không?
Đáp:
Người viết cuốn sách này đã gieo tội địa ngục, vì không
biết Phật pháp, dùng pháp mê tín hại người, gọi là cuồng
vọng thuyết pháp, tạo tội địa ngục. Phật tánh của mọi
người đều đầy đủ, mặc dù nay là chúng sanh, nhưng đã
thành Phật. Những gì bà nói đều là pháp mê tín, xuất gia
là vì muốn liễu thoát sanh tử luân hồi, chứ đâu phải
vì cái khác mà phải sợ đến tướng số !
Nay
nhiều người xuất gia, ở chùa hưởng sự cúng dường của
Phật tử mười phương nhưng vẫn còn lo cho gia đình, như
đám giỗ ông bà cha mẹ cũng do Phật tử cúng dường, đã
xuất gia thì không có nhà, nay lợi dụng sự xuất gia, nhờ
Phật tử giúp đỡ cho gia đình, lo cho con cháu, ấy là hư
tiêu tín thí, là tội địa ngục, sau này từ địa ngục ra,
còn phải làm trâu làm ngựa trả nợ thí chủ, hại còn
nhiều hơn ích, chẳng thà không xuất gia còn không gây tội
nặng như thế. Cho nên tôi thường khuyên ai muốn xuất gia
phải là người quyết tử, không biết đến gia đình con cháu
mới được, nếu không chẳng thà tu tại gia tốt hơn.
Hỏi:
Tâm mình trong sạch, tại sao lại ham dính bụi?
Đáp:
Sắc thanh hương vị thuộc tiền trần, trần là bụi, khiến
dơ mình, tại sao lại cứ muốn dính bụi? Ví như tâm gương
vốn sáng, chiếu soi rõ mặt mũi, hễ dính đầy bụi thì mất
tác dụng chiếu soi, nay muốn cho không dính bụi, nên phải
tham thoại đầu. Tại sao? Sở dĩ dính bụi là do sự biết:
Biết sắc đẹp thì ham, biết sự khen ngợi của người khác
thì mừng… Nay tham thiền dùng cái không biết để tu, thấy
sắc chẳng biết xấu hay đẹp, nghe tiếng cũng chẳng biết
khen hay chê thì đâu dính bụi? Nên phải dùng cái không biết
để cho không dính bụi. Hễ không dính bụi thì ánh sáng gương
được hiện, người nam đến thì hiện tướng nam, nữ
đến hiện tướng nữ, rõ ràng chiếu soi.
Hỏi:
Phiền não của con rất sâu đậm, con chẳng thể phá tan được,
kính xin Sư phụ khai thị.
Đáp:
Kinh nói “Trực tâm là đạo tràng,” nay tôi hỏi cô, mà
tôi hỏi cái nào thì cô trả lời cái nấy, phải dùng tâm
ngay thẳng để trả lời:
- Cô
nói phiền não sâu đậm, vậy cô phải biết phiền não của
cô sanh khởi từ chỗ nào?
- Dạ
thưa sanh khởi từ lửa sân.
- Vậy
lửa sân sanh khởi từ chỗ nào?
-
Dạ thưa nó có đủ thứ…
- Tôi
chỉ hỏi cô nó sanh khởi từ chỗ nào, trong thân của cô
thì cô phải biết nó sanh khởi từ đâu chứ ! Ví như trong
túi tôi có tiền, người ta hỏi tôi “Trong túi ông có tiền
không?”
Tôi
nói “có,”
Hỏi
“Có bao nhiêu?”
Tôi
nói “Có mười ngàn.”
-
Đồ của mình thì mình phải biết, cô nói phiền não của
cô mà cô lại không biết nó sanh khởi từ đâu?
-
Dạ thưa vì việc gia đình của con, việc gì nó cũng
dồn tới …
- Thân
cô đâu phải của gia đình? Cho dù là cha mẹ cô thì cũng
là thân của người khác, đâu phải của cô? Ví như bây giờ
cô đang đói, cha mẹ cô có thể ăn no giùm cô được không?
Anh em có thể ăn no giùm cô được không? Cha mẹ anh em khác
hơn thân của cô mà ! Bây giờ phiền não đó đâu phải là
cha mẹ hay anh em sanh ra? Làm sao nói là gia đình được?
-
Dạ, cũng như con cháu của con nó không nghe lời…
-
Con cháu đâu phải thân cô? Nay tôi nói cho cô biết, phiền
não đó chẳng phải của cô, tại cô suy nghĩ phiền não nên
mới thành phiền não. Cái suy nghĩ đó tức là biết, do bộ
óc suy nghĩ cho cái này cái kia là phiền não, nhưng sự thật
bộ óc vốn trong sạch chẳng phiền não, phiền não là ở
ngoài bộ óc của cô. Nếu cô không suy nghĩ đến những phiền
não đó thì phiền não đâu dính mắc? Bây giờ cô thì không
biết có bộ óc, nhưng cô cũng biết có suy nghĩ, thì năng
suy nghĩ đó là bộ óc, sở suy nghĩ là phiền não. Năng
thì chẳng phải sở, sở chẳng phải năng; năng suy nghĩ
đó mới là của cô, sở suy nghĩ chẳng phải của cô. Cho
nên phiền não chẳng phải của cô, tại cô suy nghĩ rồi lấy
cái đó cho là của cô. Do cô tự mình không biết được nguồn
gốc suy nghĩ đó, bản thể suy nghĩ đó, nay tôi đem những
việc trước mắt có thể thấy thí dụ cho cô được rõ:
Hai
chân của cô là năng đi, con đường có gai gốc cứt sình
là sở đi của hai chân, cũng như tâm là năng suy nghĩ, phiền
não là sở suy nghĩ của cô; cái năng suy nghĩ vốn chẳng có
phiền não, cũng như hai chân vốn chẳng dính cứt sình, con
đường có gai gốc cứt sình đó chẳng dính dáng với hai
chân, tại hai chân ham dẫm lên con đường cứt sình mới bị
dính mắc, rồi cho cứt sình đó là của cô, vậy có được
không?
Đức
Phật đã chỉ cho chúng ta con đường bằng phẳng, nhưng mình
không chịu đi, cứ ham đi trên đường gai gốc cứt sình,
rồi nói:”Con đường đó dơ quá khiến tôi bị dính mắc
cứt sình.” Lại nói:”Cứt sình đó của tôi”! Nếu không
dẫm lên con đường đó thì đâu bị dính? Phải vậy không?
Cho nên, cô nói “bị phiền não sâu đậm”là không đúng,
đó ở ngoài tâm cô. Bây giờ cô chỉ tham thiền, không biết
tới những cái đó, tức không suy nghĩ thì chẳng bị
phiền não chướng ngại.
Hỏi:
Trong kinh dạy “người tu hành phải phát Bồ Đề tâm, nếu
không thì như cày ruộng mà không gieo giống.” Kính bạch
Sư phụ, Bồ đề tâm này có tương đương với Từ bi tâm
không? Chúng con phải phát Bồ đề tâm để tu hành không?
Đáp:
Bây giờ tôi hỏi bà: Bà nói Bồ đề tâm, vậy Bồ đề tâm
là cái gì?
-
Dạ con chưa được rõ lắm.
-
Bà nghe vị giảng sư nào giảng “Phải phát Bồ đề tâm”mà
bà không hiểu thì phải hỏi vị giảng sư ấy, nếu
không thì làm sao phát tâm?
-
Vậy kính xin Sư phụ giảng cho con được rõ.
-
Hai chữ Bồ Đề là tiếng Ấn Độ, nghĩa là giác ngộ, cũng
có người dịch là “Đạo,” tức đạo giác ngộ. Vậy giác
ngộ cái gì? Giác ngộ cuối cùng gọi là “vô sở đắc.”
Tại sao? Vì trong tâm sẵn đủ thần thông trí huệ, khắp
không gian thời gian, chẳng thiếu sót chút nào, nên chẳng
cần đắc nữa. Nếu còn có sở đắc thì chẳng phải Bồ
đề tâm. Cho nên, phát tâm Bồ đề tức phát tâm vô sở đắc.
Đó cũng là tại sao trong mười điều kiện thực hành tham
Tổ Sư Thiền, điều trước tiên là “Vô sở đắc, vô sở
cầu, vô sở sợ,” thì tâm này là tâm Bồ đề.
Chư
Tổ có câu “Phiền não tức Bồ đề.” Tại sao? Vì vô sở
đắc thì làm sao đắc phiền não? Đắc sự hạnh phúc sung
sướng còn không có, huống là phiền não? Không có phiền
não tức Bồ đề, chẳng những phiền não tức Bồ đề, tất
cả đều là Bồ đề, vì vô sở đắc vậy.
Hỏi:
Trong lúc con dự Thiền thất, có hai buổi con bị rơi vào tình
trạng như sau: Gần cuối giờ tọa thiền, đang tham con ngủ
thiếp đi lúc nào không hay nhưng vẫn ôm câu thoại đầu,
khi thức tỉnh thì thấy thầy đang dẫn chúng đi hương,
Xin Sư phụ chỉ ra chỗ sai của con để con sửa, hầu tránh
tình trạng đi sai một bước cách xa ngàn dặm.
Đáp:
Bây giờ biết đúng cũng là sai, biết không đúng cũng là
sai, biết mình tinh tấn cũng là sai, biết không tinh tấn cũng
là sai, vì tham thiền là dùng sự không biết để tu, nay có
một niệm biết tức chẳng phải tham thoại đầu, có sự
biết là trái với nghi tình, nên không thể cho là đúng
hay sai.
Nay
đang tập tham tất nhiên còn có sự biết, đến khi tới thoại
đầu rồi tất cả đều không biết. Mục đích của chúng
ta là muốn đến chỗ đó, nên phải tập giữ cái không biết
để tu. Mà cái không biết này khác hơn cái không biết của
ngủ mê, khác hơn cái không biết của người tâm thần, người
khờ ngốc, vì những cái không biết kể trên không có tánh
ham biết. Con người thì có tánh ham biết, khi giữ cái
không biết để tu, đụng với tánh ham biết mới khởi lên
thành nghi tình, mới gọi là tham thiền.
Hỏi:
Để phá tan phiền não vọng tưởng trong lúc tham thoại đầu,
con nhớ sáu câu kệ của ngài Lục Tổ:”Tà đến phiền não
tới, chánh đến phiền não trừ. Tà chánh đều chẳng chấp,
thanh tịnh đến cùng tột. Hễ bỏ tâm chấp quấy, phiền
não tự tan rã.” Những lúc vọng tưởng đến, con có thể
tạm ngưng thoại đầu trong giây lát để áp dụng sáu câu
này không?
Đáp:
Không cần. Sáu câu này của Lục Tổ dạy là muốn chúng ta
giữ được nghi tình, hễ giữ được nghi tình là đã thực
hành sáu câu này rồi. Nói tà đến là vọng tưởng, chánh
đến là nghi tình, đến cuối cùng nghi tình bùng nổ thì
tà chánh đều hết, lúc đó mới tới cùng tột. Nay chưa tới
cùng tột, giữ được cái chánh tức nghi tình thì vọng tưởng
nổi lên chẳng được tức tà không đến.
Lúc
mới tập tham, vọng tưởng cứ nổi lên hoài, lúc vọng tưởng
nổi lên thì nghi tình ngưng, đề khởi nghi tình thì vọng
tưởng ngưng, vọng tưởng với nghi tình đánh nhau, có khi
vọng tưởng thắng thì nghi tình mất, khi nghi tình thắng thì
vọng tưởng mất, tập dần dần đến khi nghi tình thắng
hoàn toàn, vọng tưởng nổi lên không được, chỉ còn cái
chánh. Khi nghi tình bùng nổ thì tà chánh đều sạch, lúc đó
mới là thanh tịnh đến cùng tột. Chỉ cần giữ câu thoại
đầu tham tới mãi, chứ không cần niệm sáu câu này.
Hỏi:
Thế nào là Vô Môn Quan?
Đáp:
Vô môn quan là công án của Thiền tông: Vô môn là không có
cửa, Quan là cửa ải, ví như bốn bề là vách tường, chẳng
có cửa mà ra vào được, là thấu Vô Môn Quan. Thiền tông
gọi Vô môn quan tức khán thoại đầu và tham thoại đầu,
từ chỗ không cửa mà thấu qua được tức kiến tánh.
Hỏi:
Nói Thân cận Thiện tri thức, mục đích chỉ vì cầu pháp
cầu trí huệ, vậy tại sao Đức Phật trong Kinh Kim Cang nói
“Ta ở nơi Phật Nhiên Đăng, chẳng có thật đắc pháp A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề”?
Như thế chẳng phải đánh mất mục tiêu cầu pháp cầu trí
huệ sao?
Đáp:
Phải biết tại sao Đức Phật nói như thế? Câu nói này chỉ
có người kiến tánh rồi mới có thể nói, vì người đã
kiến tánh tất cả thần thông trí huệ đều sẵn đủ, không
lọt vào có không. Nếu còn kiến lập một pháp nào, nói Có
là thật có, ấy là thêm; nói Không là thật không, ấy là
bớt. Vì muốn phá chấp có và không của chúng sanh, nên không
có kiến lập. Đây cũng chính là sự khác nhau giữa Phật
giáo và các tôn giáo khác; các tôn giáo đều kiến lập chơn
lý, Phật giáo thì không. Vì Phật tánh sẵn có này đã là
chơn lý rồi, nếu còn kiến lập tức thành hai chơn lý, hễ
có hai chơn lý tức chẳng phải chơn lý rồi.
Hỏi:
Đức Phật đã kiến tánh, nói như thế thì được, nhưng
đối với hàng phàm phu chúng tôi, có phải nên cầu mới đắc?
|