[08] 18/12/93–24/12/93
tại Chùa Từ Ân, Quận 11
Chưa
chứng nói chứng là đại vọng ngữ
Hạt
châu của Long nữ từ đâu có?
Tại
sao các chùa thờ Tổ Đạt Ma ?
Phật
tánh bất sanh bất diệt, tại sao có đời mạt pháp?
Nếu
có “Cho là ”là pháp sanh diệt của bộ não
Bố
thí có thể giúp cho bớt nghiệp không?
Năm
đầu sơ tham, năm sau lão tham, năm thứ ba chẳng tham
Câu
chuyện gia đình Bành Long Uẩn
Diệu
trạm tổng trì bất động tôn
Đem
thử thâm tâm phụng trần sát
Do
giác minh thành lỗi lầm
Nghĩa
rốt ráo cần phải ngộ
Hữu
tâm thì thánh chúng sanh, ly tâm tức thành chư Phật
Làm
sao phá ngã chấp?
Thế
nào thiện nhân chiêu ác quả?
Con
ve không biết đến bốn mùa
Tuổi
già sức yếu, tham thiền chưa kiến tánh, chết đi về đâủ
Sự
kiến tánh của ngài Nguyệt khê
Làm
thế nào bỏ được tâm chấp thật?Con rùa giếng và rùa biển
Giới
luật: Sự khác biệt giữa giới Thanh văn và giới Bồ tát?
Ba
cấp trì giới
Bổn
phận của giám sát viên thiền đường
Tại
sao cổ nhân lại quở hai chữ Bồ đề là thằng chết?
Tại
sao Tăng độ ni chúng lại có lỗỉ
Vô
phương sở, vô năng sở, vô đắc thất, vô tướng mạo
Phật
giáo Tiểu thừa không cho nữ giới thọ Tỳ-kheo
Thế
nào cùng đạo tương ưng, cùng tình tương ưng?
Lúc
không có Sư phụ, chúng con nương ai để tủ
Sa-di
chê Tỳ-kheo tụng kinh như chó sủa, đọa thân chó năm trăm
kiếp
Nhân
quả rõ ràng
Tương
đối chẳng thể dụ cho tuyệt đối
Canh
tác khó tránh sát sanh
Đại
thừa Khởi Tín Luận là tác phẩm của ngoại đạo, chẳng
phải của Mã Minh
Ngũ
nhãn
Đã
không chứng đắc, đâu cần thọ ký?
Phật
tử thọ giới Bồ tát, khi phạm giới cần sám hối với aỉ
Câu
Phật hiệu có diệt được tội sát sanh không ?
Hỏi:
Trong pháp hội ngày xưa, các vị Tổ dùng cơ xảo để dạy
cho chúng được đạt đạo mà cơ xảo đó mọi người chẳng
biết, chính chúng ta cũng không thể chấp vào lời nói
đó mà suy nghĩ, ngay cả đối với văn tự của Sư phụ cũng
thế. Nay có một số huynh đệ lại đem những gì ngoài pháp
nhũ của Sư phụ, dạy cho các huynh đệ khác mà chẳng nắm
rõ căn cơ trình độ của mỗi chúng sanh như thế nào, ngoài
ra họ còn cho là có sở chứng, vậy họ có hiểu được thâm
cơ của Sư phụ không?
Đáp:
Nói cơ xảo là những vị Tổ kiến tánh mới dùng được,
chẳng phải để dạy người, mà là để kích thích đương
cơ kiến tánh ngay lúc đó, nếu không thì phải phát khởi
nghi tình, sau này sẽ được kiến tánh. Còn tôi thì chưa kiến
tánh, chẳng biết dùng cơ xảo. Tôi chỉ ăn đàm giải của
chư Phật chư Tổ, rồi đem dạy lại quý vị mà thôi.
Đối
với những người chưa chứng chưa đắc mà nói đã chứng,
ấy là đại vọng ngữ . Tu sĩ nói vậy là phạm tội
Ba-la-di, phải đọa địa ngục . Tại sao phải đọa địa
ngục? Vì tác hại rất lớn, chẳng phải chỉ hại 1-2 người,
mà là từ người này sang người kia. Cho nên, hại nhiều chừng
nào tội lớn chừng nấy; nói đại vọng ngữ chẳng ai tin
thì tội còn nhỏ, hễ khiến được một người tin thì tội
lớn hơn, khiến được mười người, trăm người tin,
tội lại càng lớn.
Hỏi:
Trong Kinh Pháp Hoa, Long Nữ dâng hạt châu cúng dường hai vị
Phật, hạt châu ấy từ đâu mà có?
Đáp:
Lời ở trong kinh nói đều là phương tiện để phá chấp
chúng sanh. Ví như hàng Thanh văn Tiểu thừa cho rằng người
nữ có năm thứ chướng nên không thể chứng quả, Phật muốn
phá chấp ấy nên nói Long Nữ thành Phật ngay trước mắt
cả triệu chúng. Long Nữ chẳng những là phái nữ, lại thuộc
hàng súc sinh, ấy chỉ là phương tiện thí dụ để phá chấp,
chỉ cần tu đúng chánh pháp là có thể thành Phật.
Hỏi:
Lục Tổ Huệ Năng để lại kinh điển rất nhiều, sao không
thấy thờ Ngài; còn Tổ Đạt Ma thì không thấy để lại
kinh điển, nhưng chùa nào cũng thờ Tổ?
Đáp:
Tổ Đạt Ma là Tổ thứ 28 kiến tánh tại Ấn Độ, đem pháp
môn Tổ Sư Thiền truyền qua Trung Quốc, làm Sơ Tổ của Trung
Quốc. Nhờ có Tổ Đạt Ma truyền qua Trung Quốc, và từ Trung
Quốc truyền sang Việt Nam mới có Thiền Tông, nên các chùa
đều thờ Tổ Đạt Ma..
Lời
Chư Tổ nói là phương tiện, tùy theo căn cơ trình độ, dạy
chúng sanh tu được giải thoát. Thiền tông vì là pháp tu trực
tiếp, không qua văn tự lời nói, gọi là “Giáo ngoại biệt
truyền, bất lập văn tự, trực chỉ nhân tâm, kiến tánh
thành Phật,” là dùng cái nghi tình để tu, nên chư Tổ Thiền
tông đều không có kinh điển.
Tổ
Đạt Ma qua Trung Quốc, vì là Sơ Tổ, lúc ấy chưa ai kiến
tánh, chẳng có người ấn chứng, e sợ người đời không
tin, nên truyền cho Nhị tổ Huệ Khả cuốn Kinh Lăng Già, nói
“dùng Kinh Lăng Già để ấn chứng”chứ không có trước
tác, chỉ là đệ tử ghi lại lời nói của Ngài mà thôi.
Trong cuốn “Công án của Phật Thích Ca và Tổ Đạt ma,”
cũng có ghi lời của Tổ, Lời của Lục Tổ cũng vậy, kể
cả lời của Đức Phật, chỉ do người đời sau kết tập
lại những lời dạy thành kinh điển.
Hỏi:
Đã nói bất sanh bất diệt, sao lại nói thời nay là mạt
pháp?
Đáp:
“Lời của chư Phật chỉ tùy theo căn cơ của từng chúng
sanh mà nói, gọi là tùy bệnh cho thuốc, nói “Thời mạt
pháp”cũng vậy. Như ngài Bác Sơn nói “có thể chuyển mạt
pháp thành chánh pháp, chuyển hạ căn thành thượng căn,”
chứ chẳng phải nhất định..
Hỏi:
Theo giới trẻ thời nay, phần đông chịu sự ảnh hưởng
của văn minh về học thuyết duy vật và duy lý của phương
Tây, tất cả đều muốn biết một cách cặn kẻ của vấn
đề. Theo sách Phật giáo Nguyên thủy cho rằng: Sau khi nhập
diệt Vô dư Niết bàn thì không còn sự hiện hữu của Đức
Phật Thích Ca hay bất cứ một vị Phật quá khứ nào khác,
đó mới thật sự không còn bị sanh tử luân hồi. Vì theo
Phân tâm học của Phương Tây, hễ còn có sự tồn tại trên
bất cứ cõi nào, tức còn có tâm trí muốn tồn tại,
đó là nguồn gốc của sự sanh tử luân hồi.
Theo
Kinh điển của Phật, một khi đã chứng đắc quả A-la-hán
hay quả Phật là đi ra khỏi sanh tử. Trong giáo lý Đại thừa,
mà Đại thừa là có từ sau khi Đức Phật nhập diệt, xuất
phát từ những vị Tổ sư, hoặc căn cứ vào những lời Phật
tuyên thuyết, nhưng những bộ kinh Đại thừa thì không
được chấp nhận trong Phật giáo Nguyên thủy, cho rằng “Sau
khi Phật nhập Niết bàn vẫn còn hiện hữu, đó là do tâm
cảm ứng, tức vạn pháp duy tâm, do sức tâm tạo ra cảnh
giới thiên đàng địa ngục v.v…”Từ đó con có một sự
qui kết như sau:
Theo
con, những người Âu Mỹ thường đặt câu hỏi với con: Tu
đạo Phật là tu cái gì? Đắc quả vị Phật là đắc
cái gì? Con trả lời: “Tu đạo Phật là tu sự triệt tiêu,
đắc quả Phật là đi đến một sự triệt tiêu.” Triệt
tiêu ở đây có nghĩa là ra khỏi sanh tử, triệt tiêu ý chí
muốn tồn tại muốn sống, ấy mới có thể ra khỏi sanh tử
luân hồi. Vậy có đúng không?
Đáp:
Hễ có hai chữ “cho rằng”đều là sai lầm. Phật tánh vô
thỉ vô chung, chẳng có “cho rằng”là cái gì, vì không có
sự sanh khởi. Nếu có “cho rằng,” ấy là nhận thức
của bộ óc, nhưng bộ óc này là pháp sanh diệt, sau khi
chết sẽ thành đất thành tro. Còn Phật tánh chẳng sanh diệt,
nên người chứng quả gọi là ngộ pháp vô sanh, chứng vô
sanh pháp nhẫn. Có “cho rằng”tức có sanh khởi, trái
với giáo lý nhà Phật. Lại nữa, nhà Phật chẳng có kiến
lập chơn lý, vì Phật tánh đã là chơn lý rồi, nếu kiến
lập thêm một chơn lý tức thành hai, như trên đầu mọc thêm
đầu, phải mời bác sĩ phẩu thuật cắt bỏ.
Hỏi:
Bà nội của con bệnh già nằm hoài, lúc trước con theo pháp
môn Tịnh độ, thường rước quý thầy về tụng kinh cầu
an, nay con tham thiền, phải làm thế nào cho bà nội bớt nghiệp?
Đáp:
Phật Thích Ca cũng chẳng thể làm cho người ta bớt nghiệp,
vì nghiệp là nhân quả, ai làm nấy chịu. Nếu người này
có thể làm cho người khác bớt nghiệp thì không có nhân
quả, nên muốn bớt nghiệp phải tự mình làm.
Hỏi:
Nhưng lúc trước bà không biết tu, nay con cháu đem tiền của
làm việc thiện, vậy có thể giúp cho bớt nghiệp không?
Đáp:
Không được. Con cháu làm thiện bố thí thì con cháu được
phước. Nếu sự bố thí đó do bà ấy phát tâm thì bà cũng
được hưởng phước quả do bố thí, nhưng cũng chẳng thể
khiến tiêu ác nghiệp.
Hỏi:
Thế nào là trí huệ và mê trí huệ?
Đáp:
Trong Bát Nhã Tâm Kinh có câu “vô trí diệc vô đắc,” chẳng
có trí huệ để đắc. Tại sao Phật nói như thế? Vì trí
huệ của mình đã sẵn, khỏi cần đắc nữa. Nói “Bát nhã”ấy
là trí huệ của Phật tánh, chẳng phải trí huệ của bộ
não, tất cả thần thông trí huệ năng lực, mọi chúng sanh
đã sẵn có, nên nói”vô trí diệc vô đắc.” Nếu có đắc
tức chẳng phải trí huệ.
Khoa
học hiện nay phát minh máy vi tính có kỹ năng rất cao, chứng
tỏ năng lực của con người sẵn sàng. Nhà khoa học đem năng
lực đó phát huy, chế tạo thành các máy móc tinh vi, ấy chỉ
thể hiện một phần rất nhỏ của năng lực mà thôi. Thật
ra, Phật tánh của mình sở dĩ gọi là Chánh Biến Tri, chẳng
chỗ nào không biết, chẳng lúc nào không biết, chứng tỏ
năng lực chẳng có số kể, chỉ tại mình không tin nên chẳng
thể nhận được.
Hỏi:
Tại sao nói “năm đầu sơ tham, năm thứ hai lão tham,
năm thứ ba chẳng tham”?
Đáp:
Lời này của ngài Hư Vân, nói về những người chẳng phải
là chánh nhân. Tại sao chẳng phải chánh nhân? Chánh nhân là
phải giải quyết vấn đề sanh tử của chính mình. Người
nào cũng sợ già, sợ bệnh, sợ chết, nhưng ai cũng phải
trải qua. Vừa rồi có một cụ già nói với tôi: “Già cả
chóng mặt tham không được, chân yếu đi không được, cứ
phải lo hoài.” Tôi nói: “Bây giờ tham thiền là muốn giải
quyết vấn đề này.” Căn bản tham Tổ sư Thiền là vô sở
cầu, vô sở đắc, vô sở sợ, nay cứ sợ già sợ yếu, thì
tuổi tác càng cao, sức khỏe càng yếu, bệnh phải nhiều
thêm, đến một lúc nào không thể gánh chịu nữa thì phải
chết. Tham thiền là muốn giải quyết vấn đề này trước
khi chết.
Nay
nhiều người đi tu chẳng phải vì sanh tử, chỉ vì buồn
phiền chuyện gia đình, sự nghiệp thất bại mới bỏ đi
tu, ấy chẳng phải chánh nhân. Còn vấn đề chóng mặt nhức
mỏi, mặc kệ nó, mình tham cứ tham, phải sẵn sàng giờ phút
nào, lúc nào ngã chết cũng được, không biết tới.
Hỏi:
Xin Sư phụ kể qua câu chuyện của Bàng Cư Sĩ, và thế nào
là hỷ xả?
Đáp:
Bàng Uẩn là một vị cư sĩ kiến tánh trong Thiền tông,
ngài cũng có Ngữ lục truyền đến ngày hôm nay. Cả gia đình
Bàng cư sĩ gồm hai vợ chồng, một người con trai và một
người con gái, đều kiến tánh. Người kiến tánh sanh
tử tự do. Một hôm, Bàng Uẩn bảo con gái:
-“Khi
nào mặt trời đúng Ngọ hãy cho ta biết.”
Cô
con gái biết là cha muốn đi, vào báo rằng:”Hôm nay bị nhật
thực”
Bàng
Uẩn nói:”Sao có chuyện kỳ lạ thế !”
- Cha
không tin thì đi ra xem !
Bàng
Uẩn đi ra, người con gái bèn ngồi trên ghế của cha rồi
thị tịch.
Bàng
cư sĩ đành dời việc mình đến một tuần sau. Lúc đó, ông
Tỉnh trưởng cũng là người tham thiền, biết được việc
này, đến thăm Bàng cư sĩ, nói rằng:
- Trước
khi ông đi, hãy để lại vài lời cho người đời sau, khiến
mau kiến tánh.
Bàng
cư sĩ nói: Cái nào đã có nên xả bỏ, cái nào không
có chớ nên lấy vào.
Sự
thật thì bấy lâu nay Ngài đã thực hành như thế; ngài vốn
là triệu phú, đem tất cả gia tài đổ xuống biển, hằng
ngày tự mình đan tre cho cô con gái đem ra chợ bán kiếm sống
qua ngày để tu. Mọi người hỏi:
- “Tại
sao đem đổ xuống biển quá lãng phí mà không bố thí cho
người nghèo?”
Ngài
nói:”Tôi đã bị hại nhiều rồi, chẳng lẽ còn đem hại
người khác sao !,” ấy là xả vậy.
Sau
khi ngài thị tịch rồi, Bà Bàng nói:”Sao hai người cứ bỏ
đi như thế?”Bèn đi đến chỗ ruộng mà mgười con trai đang
làm để báo tin. Lúc đó người con trai đang cầm cuốc để
cuốc đất, nghe xong, tựa cằm vào đầu cán
thị tịch luôn.
Bà
nói:”Các ngươi sao ai cũng giành đi trước vậy !” Rồi
đi vào núi không còn ai biết tung tích nữa.
Công
án về sự kiến tánh của ông Bàng Uẩn như sau:
Bàng
Uẩn hỏi Mã Tổ: Người không cùng tất cả vạn pháp làm
bạn là ai?
Mã
Tổ nói: Đợi ông một hớp nuốt cạn nước Tây Giang thì
tôi sẽ nói cho ông biết.
Ngài
vừa nghe liền ngộ.
Hỏi:
Thế nào là Diệu trạm tổng trì bất động tôn?
Đáp:
Chữ DIỆU là bất khả tư nghì, suy nghĩ chẳng thể đến.
TRẠM là hình dung sự trong lặng chẳng chút làn sóng, chẳng
động tịnh là trạm, nhưng chưa phải diệu trạm; chẳng dính
mắc với động tịnh mới gọi là “diệu trạm.” Nếu giải
thích theo Giáo môn, trạm xuất là thức, trạm nhập mà nhập
đến không còn chỗ nhập mới tới diệu. Nay nói Diệu Trạm
là siêu việt động tịnh. Hai chữ TỔNG TRÌ là tổng nhất
thiết pháp, trì nhất thiết nghĩa. Phật pháp muốn nói giáo
lý phải nói đến nghĩa, Tổng trì là bao gồm tất cả nghĩa,
bao gồm tất cả pháp. BẤT ĐỘNG TÔN là biệt danh của Đức
Phật.
Diệu
trạm tổng trì Bất Động Tôn là tả cảnh giới của Phật,
chẳng có gì ở ngoài, cũng như biệt danh “Tánh Không,”
chẳng nhúc nhích mà hiển bày sự dụng, tất cả dụng đều
không ở ngoài cái Không này.
Hỏi:
Thế nào là “tương thử thâm tâm phụng trần sát”?
Đáp:
Đây cũng là bài kệ trong Kinh Lăng Nghiêm. Thâm là thâm sâu;
Tâm Kinh nói:”hành thâm Bát nhã Ba-la-mật đa thời,” đây
chẳng phải đối với cạn mà nói sâu, mà là siêu việt số
lượng. Cũng như trong Kinh hay dùng từ Ma-ha để hình dung cái
lớn; dùng Kim Cang hình dung độ cứng; nhưng chẳng phải đối
với nhỏ mà nói lớn, đối với mềm mà nói cứng. Vì bản
thể của tâm khắp không gian thời gian, nay đem phụng sự
vô lượng vô biên cõi Phật, số lượng nhiều như bụi trần.
Chúng ta tu hành luôn phải phá ngã chấp, nay đem cái thân này,
luôn cả cái tâm cống hiến cho tất cả vô lượng vô biên
chúng sanh, sở dĩ có đủ thứ việc xảy ra đều do có cái
ngã, nếu thực hiện theo câu này thì đâu còn việc gì xảy
ra !
Hỏi:
Chúng con tha thiết mong đợi Sư phụ có một Thiền đường
để mai sau chúng con được noi theo?
Đáp:
Trước kia tôi cũng có ý này, nhưng nay thì chưa được. Tại
sao? Vì không có người quản lý, chẳng có mấy người đảm
nhiệm chức vụ. Lúc đầu tôi tính gởi một số vị đến
Chùa Cao Mân học, nhưng tôi thấy khó lắm. Cho nên, tôi chỉ
có thể giúp các chùa nuôi Tăng ni rồi tôi đến dạy.
Nay tôi cũng đã già rồi, tôi chỉ lo việc hoằng pháp, được
một ngày hay một ngày; đồng thời cũng khuyên các vị ở
đây, tự lo cho mình tu giải thoát, chứ đừng lo việc của
người khác. Mà lo là lo việc giải thoát, chứ chẳng phải
tăng cường ngã chấp, lo cho gia đình con cháu, lo cho mình được
hưởng. Chính cái thân này cũng không cần lo, vì dẫu cho lo
đến mức nào, cuối cùng cũng phải chết, sau khi chết, thiêu
thành tro, chôn thành đất. Lo cho bản thân đã chẳng xong,
huống là lo cho gia đình con cháu ! Nên phải lo tu đến giải
thoát, khỏi bị khổ sanh tử luân hồi nữa.
Hỏi:
Thế nào là “Do giác minh thành lỗi lầm”trong Kinh Lăng Nghiêm?
Đáp:
Trong Kinh Lăng Nghiêm có nói đến chữ “minh”; minh là sáng,
Phật tánh của mình vốn đã sáng, sáng ấy là diệu sáng,
chẳng tương đối. Nay chúng ta nói đến sáng và tối, ấy
là tương đối, là sanh diệt. Vì hễ có tối thì chẳng sáng,
có sáng thì chẳng tối. Còn cái sáng của Phật tánh chẳng
phải sự sáng tối mà bộ óc có thể nhận biết được,
nay mọi người đuổi theo mặt chữ, có sáng thì có chiếu
soi, từ đó sanh ra năng sở, cho sáng là năng chiếu, chỗ đen
tối là sở chiếu, nên kinh nói:”Hễ lập ra cái sở thì
tánh chiếu bị đánh mất, chẳng phải cái sáng của Phật
tánh, mà thành cái sáng có sanh diệt. Sanh diệt là luân hồi,
nên thành lỗi lầm .”
Hỏi:
Như vậy là do con người đuổi theo lời nói thành ra lỗi
lầm?
Đáp:
Đúng vậy, hễ đuổi theo lời nói đều sai, vì do bộ óc
suy nghĩ, nên Kinh nói:”Phàm là lời nói đều chẳng có nghĩa
thật.”
Hỏi:
Tại sao Phật nói nghĩa nhân duyên chẳng phải rốt ráo?
Đáp:
Nghĩa rốt ráo chẳng có tương đối, gọi là bất nhị, nghĩa
này phải tự ngộ, dùng đầu óc tìm hiểu không được. Vì
sự biết của bộ não là sanh diệt, dù con người có thể
sống đến hai trăm năm, nhưng hễ chết là không biết rồi.
Còn cái biết của Phật tánh không có chết, khắp thời gian,
là vĩnh viễn, nên cái biết của Phật tánh biết được cái
biết của bộ não.
Hỏi:
Trong Tham Thiền Phổ Thuyết có câu “Trong cuộc sống hàng
ngày của chúng ta, chư Phật và chúng sanh chỉ cách nhau một
cái vọng tưởng: Hữu tâm thì thành chúng sanh, ly tâm tức
thành chư Phật,” ý đó như thế nào?
Đáp:
Chơn tâm Phật tánh của mình vốn chẳng nhúc nhích, hiển
bày sự dụng mà chẳng lay động, vì không lay động nên không
biến đổi sanh diệt, cũng như tánh thấy không lay động,
mà chúng ta thấy được vật là nhờ tánh thấy. Nếu hữu
tâm tức đã nổi niệm, như trong Kinh Lăng Nghiêm nói “tri
giác nãi chúng sanh”; Phật nói với A Nan:”Nay ngươi thấy
ta, thấy vũ trụ vạn vật… đều là kiến bệnh đã thành
từ vô thỉ,” ấy là hữu tâm.
Tất
cả những gì do bộ não nhận biết được đều là tướng
bệnh, nên Tâm Kinh nói “Vô lục căn, lục trần, lục thức…
cho đến vô Tứ diệu đế, vô Thập nhị nhân duyên, vô lão
tử, vô trí diệc vô đắc,” đều dùng chữ VÔ để quét
sạch. Nếu hữu tâm thì tất cả đều có, có tức thành bệnh.
Hễ hết sạch cái CÓ thì tướng mạnh hiện lên, tướng mạnh
tức Phật tánh, cũng là chư Phật. Sở dĩ có tướng bệnh
là do vọng tưởng, cho nên chỉ cách nhau bởi vọng tưởng.
Theo
người thường thì cho rằng: Suy nghĩ việc ác mới là vọng
tưởng, suy nghĩ việc thiện tại sao cũng là vọng tưởng?
Kỳ thật, suy nghĩ việc thiện thì vọng tưởng sạch, suy
nghĩ việc ác thì vọng tưởng dơ, thuộc cấu bẩn, nhưng
cũng là vọng tưởng, trong kinh nói tịnh duyên là thiện và
nhiễm duyên là ác. Cho nên, bất cứ suy nghĩ việc thiện việc
ác đều là vọng tưởng, còn cái biết của Phật tánh chẳng
có sạch dơ, chẳng tương đối.
Sư
phụ khai thị đại chúng:
Đối
với thời gian trong Thiền thất rất quí, qua đi một ngày
là mất đi một ngày, cũng như quí vị thường đọc tụng
vào buổi chiều “một ngày đã qua, như cá cạn nước,”
chúng ta đến dự Thiền thất là muốn giải quyết vấn đề
sanh tử của mình, phải thiết tha vì việc sanh tử. Cho nên
chúng ta đừng cô phụ những ai đã phát tâm hộ Thiền thất
cho mình, những người phát tâm cúng dường, người lo bếp
núc nấu nướng, kể cả chính quyền phải lo bảo vệ an ninh,
Giáo hội phải chịu trách nhiệm cho Thiền thất, cho đến
Long thiên hộ pháp cũng âm thầm hộ vệ cho mình. Phải siêng
năng tinh tấn mới không phụ lòng mọi người giúp đỡ cho
mình.
Bởi
vì việc sanh tử là việc của chính mình, chẳng phải việc
của người khác. Mọi người tạo điều kiện giúp đỡ để
có được đạo tràng cho chúng ta tu tập đến kiến tánh giải
thoát tất cả khổ, đạt đến tự do tự tại.
Hỏi:
Sư Phụ nói tu pháp Tổ Sư Thiền phải phá ngã chấp, vậy
xin khai thị về phạm vi của ngã chấp rộng như thế nào?
Đáp:
Trong phần sau của Đường lối thực hành, tôi có thêm vào
mục tin tự tâm và phát nghi tình. Thế nào là tin tự tâm?
Nói “tự tâm “tức chơn tâm Phật tánh của mình, phải
tin rằng tất cả thần thông trí huệ đều bằng như chư
Phật, nay chúng ta chỉ cần phát hiện và ứng dụng thôi.
Bản
thể Phật tánh cùng khắp không gian thời gian, ngoài không
gian chẳng có không gian, ngoài thời gian chẳng có thời gian.
Vì hư không chẳng hai hư không, tất cả vũ trụ vạn
vật đều ở trong tâm mình chứ không có ở ngoài, tất cả
đã sẵn trong tâm thì đâu cần cầu nữa? Cũng chẳng có chỗ
để cho cầu, vì đâu có gì ở ngoài cho mình cầu mình
đắc? Nếu tin được như thế, tự nhiên thực hành được
chín chữ “vô sở cầu, vô sở đắc, vô sở sợ.” Hễ
còn có sở cầu sở đắc sở sợ tức chưa phá ngã chấp.
Phật
tánh đã khắp hư không thì chẳng có ta và người, vì bất
nhị; nếu thấy lỗi của người khác tức thành hai. Phật
tánh chẳng hình tướng số lượng nên bộ óc chẳng thể
nhận biết, dùng miệng chẳng thể diễn tả. (Sư phụ thí
dụ ánh sáng cây đèn, xem trang 30.)
Hỏi:
Tại sao ngài Lai Quả trong cuốn Thiền Thất Khai Thị Lục
nói thiện nhân chiêu ác quả?
Đáp:
Đó là nói về Tu sĩ chúng tôi. Trong giới luật nhà Phật
có 16 điều nói về thiện nhân chiêu ác quả, nay lấy tôi
để thí dụ: Tôi cạo đầu, mặc đồ tu sĩ, thọ giới Tỳ-kheo,
và thọ nhận sự cúng dường của mười phương, tất cả
ăn, mặc, ở, đi lại … đều là tiền của mười phương.
Người ta cúng dường tôi để làm gì? Là mong tôi tự mình
tu giải thoát và giải thoát cho chúng sanh, ấy mới đúng với
nghĩa chữ Phật. Tôi phải có sự chơn tu đến giải thoát,
giải thoát cho tất cả chúng sanh, đó là bổn phận của tôi.
Bây giờ tôi không tu giải thoát, chỉ đem tiền cúng dường
của mười phương xây dựng địa vị của tôi: Người ta
không có ăn tôi cho ăn, không có áo mặc tôi cho mặc, người
ta có bệnh tôi cho tiền thuốc, mọi người khen ngợi tôi
là Phật sống, là Bồ tát sống, đó là danh dự của tôi.
Ở ngoài thế gian không biết, cứ cho ông sư này tốt lắm,
làm việc từ thiện giúp đỡ thiên hạ. Sự thật là tốt,
nhưng vì không có tu thì làm sao giải thoát được? Làm sao
giải thoát cho chúng sanh? Chúng ta là Tu sĩ Phật giáo, nhận
sự cúng dường của mọi người, Sa-di có bổn phận của
Sa-di, Tỳ-kheo có bổn phận của Tỳ-kheo, nay bỏ bổn phận
của mình đi làm những việc khác, để xây dựng địa vị
của mình, ấy cũng là cái ngã, nên nói “thiện nhân chiêu
ác quả.”
Hỏi:
Sư phụ dạy người tham thiền phải khán câu thoại đầu,
tức nhìn vào thoại đầu, vậy nhìn như thế có trụ vào
cái nhìn của mình không?
Đáp:
Sư lấy gì để trụ? Muốn trụ phải có hình thể, ví như
trụ ở cái bàn này, cái tách này v.v… còn thoại đầu thì
trụ ở đâu? Có chỗ nào để trụ? Nhìn vào nghi tình là
nhìn mà chẳng biết mới thành nghi tình, chứ chẳng phải
nghi tình là sở nhìn. Vã lại, nghi tình cũng chẳng có chỗ
để trụ, và nhìn là nhìn thoại đầu chứ chẳng phải nhìn
nghi tình.
Hỏi:
Nếu nói ngộ rồi đồng như chưa ngộ, vậy ngộ là ngộ
cái gì? Đồng như chưa ngộ là chưa ngộ cái gì? Sau khi ngộ
rồi thấy Phật với chúng sanh là đồng hay khác?
Đáp:
Tại Sư còn có tư tưởng chấp thật nên có câu hỏi này.
Hỏi:
Nếu không chấp thật thì làm sao tu thật được? Nếu không
chấp vào pháp tu thì làm sao tu?
Đáp:
Nay tôi cho một ví dụ: Con ve chỉ sống được một mùa hè,
nên chỉ biết có mùa hè thôi, còn con vật khác sống được
một năm thì biết cả bốn mùa xuân hạ thu đông, nó kể
cảnh mùa thu cho con ve ve nghe thì con ve cũng chẳng hiểu được.
Phật tánh vô thỉ vô chung, chẳng có sự bắt đầu, chẳng
hình tướng số lượng, chẳng thể dùng bộ óc để hiểu,
cũng như con ve muốn hiểu mùa thu, làm sao hiểu cho nỗi! Bởi
vì chỉ có khoảng đó thôi; còn Phật tánh thì vĩnh viễn,
chẳng có khoảng nào hết.
Hỏi:
Nếu vậy tại sao Đức Phật nói tất cả chúng sanh đều
đồng Phật tánh? Theo Hòa thượng giảng thì có xuân hạ thu
đông, mỗi cái khác nhau như thế làm sao gọi là bình đẳng?
Đáp:
Phải, Phật tánh của tất cả chúng sanh đều đồng nhau,
chẳng những con người, kể cả thú vật. Nhưng vì do vọng
tưởng từ vô thỉ làm thành nghiệp, như thân của Sư, cũng
do cái tâm tạo thành nghiệp mới có thân hiện tại này. Dù
tạo nghiệp gì nhưng Phật tánh vẫn chẳng khác, chỉ theo
nghiệp mà hiện. Ví như tạo nghiệp của con dơi thì
đầu thai thành con dơi, nghiệp của con dơi có rada, nhà khoa
học phải học con dơi mới phát minh rada; còn nghiệp của
con người sanh ra có bộ não, nhà khoa học căn cứ cấu tạo
tinh vi của bộ não mới phát minh vi tính. Bây giờ sư muốn
dùng bộ não để hiểu biết thì biết không nỗi.
Hỏi:
Vì Đức Phật dạy rằng chơn không diệu hữu, mà Hòa thượng
dạy chỉ có một bên, nên con phải hỏi tới hoài. Nếu Hòa
thượng nói được hai bên thì con sẽ không bao giờ hỏi tới,
vì đã là Chơn không thì phải Diệu hữu.
Đáp:
Sư biết chữ Diệu như thế nào không?
Hỏi:
Diệu hữu tức có là không, không là có.
Đáp:
Sư nói vậy là ngoại đạo. Nếu cho cái có là thật thì phải
có hoài; nếu cho không có là thật thì phải không có hoài.
Đem Có nói thành Diệu thì chẳng phải diệu vậy.
Hỏi:
Con thắc mắc điều này: Nếu nói tất cả chúng sanh đều
có Phật tánh thì trong đó tự đầy đủ tất cả, tự đã
thanh tịnh rồi, tại sao lại bị luân hồi? Vậy có phải
từ không mà có? Bây giờ lại phải tu để trở về Phật
tánh, thế có phải đi lòng vòng không?
Đáp:
Nếu nói theo sư thì từ kiếp này sang kiếp khác cũng không
hết. Vì sư dùng vọng tưởng chấp thật để tìm hiểu, sẽ
chẳng thể hiểu được như con ve mà tôi vừa thí dụ vậy.
Hỏi:
Con xin hỏi Hòa thượng: Thí dụ con vọng tưởng để hỏi
Hòa thượng, thì vọng tưởng của con từ đâu mà có? Có
phải xuất phát từ tâm?
Đáp:
Cái đó phải hỏi sư, vì tôi đã nói là vô thỉ vô sanh rồi.
Phật đã nói không có sự bắt đầu, vô sanh là không có
sự sanh khởi, nên người chứng quả gọi là ngộ pháp vô
sanh. Nếu đã không có sự sanh khởi thì làm sao có lời của
sư nói?
Hỏi:
Vậy nếu con tham Tổ Sư Thiền khởi lên nghi tình, thì đó
có phải vọng tưởng không?
Đáp:
Vì sư không có tham, nếu thật sự có tham sẽ không có lời
nói như vậy. những điều sư thắc mắc đều nằm trong cuốn
Kinh Lăng Già, khi nào sách phát hành, sư đọc qua sẽ rõ.
Hỏi:
Nếu như kinh sách Hòa thượng viết ra để phát hành, khi con
đọc những sách đó để tìm hiểu thì con có vọng tưởng
hay không? Con có đi sai lệch đường lối tu Tổ Sư Thiền
không?
Đáp:
Cũng có thể đi sai, nếu cứ chiếu theo tư tưởng chấp thật
là sai.
Hỏi:
Con tu theo Tổ Sư Thiền, mặc dù tâm chẳng thối chuyển, nhưng
năm nay con đã 73 tuổi mà chưa biết kiến tánh là gì, tuổi
già càng suy yếu dần, nếu chết đi về đâu? Kiếp sau có
gặp được Tổ Sư Thiền không?
Đáp:
Bây giờ chớ nói bà đã 73 tuổi mà chưa biết kiến tánh
là gì, tất cả mọi người ở đây đều chưa biết. Chính
vì không biết kiến tánh là gì nên phải đi đến kiến tánh.
Nếu nói 73 tuổi là già sợ trễ thì chưa trễ, Tổ thứ mười
của Thiền Tông là Hiếp Tôn Giả, 80 tuổi mới xuất gia,
mọi người chê cười ngài quá già xuất gia đâu có lợi
ích, ngài nói:
- Nay
tôi 80 tuổi, đến 83 tuổi tôi phải kiến tánh. Các ngươi
thanh niên chưa ai bì kịp tôi đâu.
Thật
vậy. cho nên, 73 tuổi so với 80, còn trẻ hơn 7 tuổi.