CHƯƠNG
II
HƯỚNG
CAO TĂNG HỌC TẬP THIỀN TÂM
“HÀNH
VI” GIỐNG NHAU NHƯNG HOÀN TOÀN
KHÔNG
THỂ BIỂU ĐẠT “Ý TƯỞNG” NHƯ NHAU
CỤ CHỈ HÒA THƯỢNG
Cái
gọi là “Chân lý”, kỳ thực rất là bình thường.
Nói
theo lý, muốn thực hiện việc bình thường đáng lẽ rất
dễ, nhưng thực tế lại không phải thế.
Tôi
từng được nghe về một sự kiện thế nào:
Tại
một cơ quan công cộng, có hai vị khóa trưởng họ Lâm và
Trần. Trong cơ quan ấy, Lâm khóa trưởng có nhân tâm hơn,
nên các thuộc cấp đều thích gần gũi.
Một
hôm, cơ quan có một viên chức qua đời vì tai nạn xe cộ.
Tin buồn trên được truyền đến văn phòng đang khi Lâm khóa
trưởng chuẩn bị đi công tác cán xa. Do nhiệm vụ trọng
yếu, ông không cách chi có thể thay đổi hành trình để ở
lại.
Vì
thế, Lâm khoá trưởng căn dặn thư ký mang phẩm vật đến
nhà người chết để phúng điếu và thay mặt gửi lời phân
ưu đến phu nhân người quá cố.
Số
tiền mang đi phúng điếu là 10.000 đồng. Trị giá theo lúc
ấy là con số vừa phải. Nhưng vấn đề không phải số tiền
nhiều hay ít, mà là nội dung của cái túi phúng điếu.
Loại mới, bạc giấy lớn 1000 đồng...9 tờ
Loại mới, bạc giấy 100 đồng...5 tờ
Loại mới, bạc giấy 50 đồng...8 tờ
Lóng tánh loạn tiền đúc 10 đồng....10 đồng
Có
lẽ có người sẽ hỏi tại sao không gói gọn 10 tờ loại
1,000 đồng? Đúng vậy, nếu không thì không được.
Theo
cái gọi là điện nghi, vật phúng điếu trong lúc an ủi tang
gia để biểu đạt tâm lý và không để tang gia bị bất cứ
trở ngại khó khăn nào về mặt tiền bạc. Thông thường,
bởi sự việc bất ngờ xảy ra nên phúng điếu dù giấy bạc
cũ cũng không can chi, còn nếu bì thư chứa toàn bạc mới,
sẽ khiến tang gia hiểu lầm phải chăng trường hợp nào đó
đối với sự phát sinh tang tóc hình như đã được đợi
chờ sẵn. Đồng thòi, vì để biểu hiện lòng cảm thông
trước sự việc ngoài ý muốn nên cố tình đặt nhiều loại
tiền như 1000, 100, 50, 10 đồng v.v... để tỏ ý là vì đột
ngột không thể chuẩn bị kịp nên chỉ nhất thời góp lại.
Nhưng,
Lâm khóa trưởng sử dụng bạc mới là để biểu hiện cá
nhân ông có tác phong tế nhị khác với người bừa bãi, đó
là một dụng tâm khéo léo chứng tỏ mình thuộc hạng người
nào.
Người
vợ nhận phúng điều, rơi lệ cảm kích trước sự tế nhị
của Lâm khoá trưởng. Không những không trách cứ việc ông
không đến viếng tang lễ mà còn tỏ ra cảm kích muôn phần
Việc
này đến tai Trần khoá trưởng, trong lòng ông ta chợt có
chủ ý: Sau này nếu gặp cơ hội như thế thì cũng y theo đó
mà bào chế một phen...
Quả
nhiên, không lâu cơ hội lại đến (sự việc tựa hồ phát
triển thuận lợi đến độ giống như sắp xếp một mẫu
chuyện. Tuy tôi hoài nghi như vậy nhưng cho dù bịa đặt cũng
không sao. Tóm lại, Trần khóa trưởng học theo Lâm khóa trượng,
cũng gói loại giấy bạc mới để đi phúng điếu)
Nhưng,
nghe nói sau đó vợ của người chết đã oán trách và bảo
với người khác rằng:
“Con
người của Trần khóa trưởng thật là không có hảo ý...”
Mẫu
chuyện trình thuật trên đây, trọng điểm muốn được biểu
đạt đó là: Tuy là hành vi giống nhau, nhưng con người khác
nhau nên động cơ làm việc khác nhau. Cũng một hành động
giống hệt như thế nhưng sẽ mang lại cho người sự vui thích
và chán ghét khác nhau.
Cụ
Chỉ hòa thượng mỗi khi có ai cật vấn Phật pháp thì ngài
đưa lên một ngón tay. Sau đó có một đồng tử vì có người
ngoài hỏi là hòa thượng đã dạy pháp nào trọng yếu nhất,
đồng tử cũng đưa ngón tay lên để trả lời. Việc này
sau khi hòa thượng nghe được, đã dùng dao chặt đứt ngón
tay của đồng tử ấy. Đồng tử bị đau đớn khóc lóc rồi
bỏ đi, hòa thượng gọi lại, đồng tử quay đầu, Cụ Chỉ
lại đưa ngón tay lên, đồng tử đột nhiên lãnh ngộ. Khi
Cụ Chỉ sắp viên tịch, ngài bảo với những đệ tử rằng:
“Sau khi ta đã thể ngộ được Nhất Chỉ thiền từ Thiên
Long Hòa Thượng, thọ dụng cả đời không hết”. Nói xong
thì viên tịch. [ Vô Môn Quan]
Năm
tháng sanh thác của Cụ Chỉ hòa thượng đã không thể tra
khảo được. Bài tựa bảo rằng sở học của ngài được
truyền từ Thiên Long hòa thượng nhưng Thiên Long hòa thượng
sanh và tịch vào năm nào thì cũng không thể tra cứu, chỉ
biết thiền tăng là người ở vào cuối đời Đường. Nhưng
việc này không trọng yếu, cái mà chúng ta muốn học là ngữ
lục và hành nghi của ngài.
Cụ
Chỉ hòa thượng nhờ thầy của ngài là Thiên Long hòa thượng
đưa ra một ngón tay (phải là ngón trỏ?) mà khai ngộ. Có
lẽ đương thời Cụ Chỉ đã thỉnh giáo với Thiên Long hòa
thượng “Cái gì là Phật?”, nên Thiên Long hòa thượng đã
làm động tác như vậy?
Nhưng,
điều quan trọng xin quý vị chớ nên hiểu lầm rằng, ý của
Thiên Long hòa thượng đã chẳng phải cho rằng ngón tay trỏ
là Phật. Đại khái là khi Cụ Chỉ hỏi cái gì là Phật thì
Thiên Long hoà thượng đã nhìn thấu rõ trong tận cùng tâm
khảm của người đệ tử đã xem Phật là một tuyệt đối
thể vừa sùng cao vừa uy nghiêm, vì thế để đánh tan thiên
chấp của Cụ Chỉ nên ngài đã dùng ngón tay để điểm tỉnh
sự mê vọng đó.
Cụ
Chỉ thấy thế tức khắc đại ngộ.
Vẫn
xin quý vị chớ nên hiểu lầm rằng, tuy chấp rằng ý nghĩa
Phật là chí cao vô thượng vẫn là một sự chấp trước
sai lầm, nhưng trước hết cũng không nên vì đó mà hiểu
lầm rằng Phật là vật thuộc tầng thứ kém giống như ngón
tay trỏ. Tóm lại, Phật là Phật, biết rõ Phật chỉ là Phật
thì sẽ giác ngộ được chân lý.
Về
sau, khi những đệ tử thỉnh thị Cụ Chỉ hòa thượng bất
cứ vấn đề gì, hòa thượng đều bật một ngón tay ra để
đáp. Ở đây dường như lại dẫn đến một hiểu lầm khác
cho độc giả, rằng ngài đã chấp vào Nhất Chỉ thiền. Tuy
Phật pháp có đến 8 vạn 4 ngàn pháp môn, Cụ Chỉ hòa thượng
chỉ độc chọn một pháp thì cũng đành chịu, nhưng nhất
nhất đều sử dụng phương pháp này như thế có đúng không?...Có
lẽ những pháp khác ngài cho rằng phiền phức nên dùng Nhất
chỉ thiền thì cũng thế, mà làm mặt ma quỉ thì cũng vậy,
thét một tiếng lớn cũng chả sao, bảo rằng “Sáng khoẻ”
cũng không can chi, miễn sao sử dụng bất cứ pháp gì mà mục
đích tối hậu có thể biểu đạt cái ý giống nhau là được.
Đã vậy, cứ sảng khoái và đơn giản dùng Nhất Chỉ thiền
để biểu thị lối nghĩ gọn gàng thuần nhát thì cũng chẳng
có gì sai trái. Không cần làm bộ làm tịch, tất cả đều
dùng một ngón tay lmà phương tiện tiêu biểu, trước sau gì
Cụ Chỉ hòa thượng vẫn một mực lấy Nhất Chỉ Thiền
để nhất tâm trả lời.
Vì
tiểu đồng chưa lãnh ngộ được đạo lý này, nên thấy
hòa thượng giơ ngón tay trả lời đã lầm tưởng chìa ra
một ngón tay tức là Thiền, là biểu đạt được thiền ý.
Sự lãnh hội sai lạc về thiền này đã khiến tiểu đồng
tử sinh ra bắt chước y hệt mà không tự biết mình đang
sa vào mê vọng thiên chấp.
Kỳ
thực, bất cứ sử dụng phương thức nào cũng đều không
thể biểu hiện thiền chân chính – Chính vì thế, thiền
có thể biểu hiện qua bất cứ phương tiện thiện xảo nào,
trong ấy bao gồm cả phương pháp sử dụng một ngón tay. Riêng
trường hợp tiểu đồng tử vì chưa triệt ngộ được đạo
lý này nên chỉ đơn thuần nghĩ là muốn biểu hiện là biểu
hiện, thế thôi.
Chính
thế nên khi người khác hỏi: “Cái gì là Phật?” Tiểu
đồng tử học theo cách biểu thị của hòa thượng mà đưa
lên một ngón tay.
Nhưng
khi Cụ Chỉ hòa thượng biết được, ngài đã không cho giải
bày điều gì mà lập tức chặt đứt ngón tay của tiểu đồng,
sau đó đang khi đồng tử còn đớn đau khóc lóc, ngài lại
đưa ra một ngón tay, ngay sát na chớp nhoáng ấy, tiểu đồng
tử đã nhờ đó mà khai ngộ.
Tiểu
đồng tử đã liễu đạt được đạo lý gì mà khai ngộ?
Thật rất khó thuyết minh. Nếu lấy lý mà luận đoán về
thiền, trên căn bản đã là phí uổng miệng lưỡi, huống
hồ muốn kẻ phàm phu chúng ta thuyết minh về cảnh giới khai
ngộ. Cuối cùng thì việc sẽ như thế nào? Cảnh giới của
người khai ngộ giống như người giàu thưởng thức sơn trân
h ải vị và người nghèo nhất định không có cách nào có
thể thẩm thấu được mùi vị thơm ngon trong ấy.
Nhưng,
ở đây tôi cần thuyết minh, nếu không, e sẽ làm cho độc
giả hiểu lầm rằng phương thức “Miễn ngồi thiền” mà
tôi đã đề xướng đó là sự treo đầu dê để bán thịt
chó.
Đối
với tiểu đồng, có thể đây đúng là một loại “Khế
cơ của phủ định” -- Đồng tử vì tin tưởng rằng Nhất
Chỉ thiền có nghĩa là Phật, vì thế mà có thiên chấp mê
vọng nên bị Cụ Chỉ hòa thượng chặt ngón. Tuy hơi tàn
nhẫn, nhưng vì muốn phá trừ chấp trước của nó mới cắt
đứt ngón tay của nó. Có lẽ sẽ có người chỉ trích việc
làm tàn nhẫn này vì cho dù là thầy của người cũng không
nên có hành động nhẫn tâm như thế. Không biết quý vị
có từng nghe rằng thầy thuốc vì muốn cắt bỏ tế bao ung
thư nên đã cắt bỏ một trong năm ngón tay. Có sao đâu. Huống
chi đối với đồng tử chấp trước về Nhất Chỉ Thiền,
thì ngón tay ấy khác gì tế bào bị ung thư. Cho nên, cắt
đứt một ngón tay mà phá trừ được vọng chấp của tâm
là điều rất cần thiết.
Dẫu
sao thì ngón tay cũng đã không còn nữa, nhưng, Cụ Chỉ hòa
thượng vẫn chìa ra ngón tay để minh chứng rằng đây là
Phật. Ý muốn nói rằng, đã không phải là ngón tay nữa,
mà đích thị là Phật.
Tiểu
đồng vì mất ngón tay nên chợt hoàn toàn liễu ngộ.
Vấn
đề của Lâm khóa trưởng và Trần khóa trượng cũng thế.
Trần khóa trưởng không được mọi người trọng vọng vì
lẽ cho rằng giấy bạc mới mang ý nghĩa “kính trọng nhân
viên dưới quyền”. Theo lý luận, thì dấu hiệu đồng nghĩa
này quả tình đã không thuận hợp với luận lý, nhưng ông
ta lại cả tin là muốn “kính trọng thuộc hạ” thì phải
dùng bạc giấy mới để biểu hiện, vì thế mà ông đã y
theo đó mà bày tỏ ý nghĩ của mình.
So
với tiểu đồng tử, vị Trần khóa trưởng đã thiếu mất
“khế cơ của phủ định”, vì thế mà ông bị sự phản
cảm của thuộc cấp và tang gia, có thể nói đó là việc
làm phí uổng tâm sức.
Theo
cá nhân tôi thì tôi cho rằng cái gọi là thiền thường thường
trong sự “phủ định” có mặt nghiêm túc và nhận chân
của nó. Phủ định ngón tay, phủ định giấy bạc mới, phủ
định chủa nghĩa hình thức, thậm chí phủ định cả “Phật”...,
nhưng, trong tất cả phủ định, phải xô đẩy tư tưởng
con người đến chỗ không còn bị cục hạn nữa mới đạt
tới tự do thật sự. Như thế, vạn sự vạn vật lại được
phú cho cái ý nghĩa hoàn toàn nguyên mới mẻ, như ngón tay
có thể là Phật thì bạc giấy mới cũng có thể đồng nghĩa
là “kính trọng thuộc hạ” vậy.