CHƯƠNG
II
HƯỚNG
CAO TĂNG HỌC TẬP THIỀN TÂM
BẤT
SANH CỦA PHẬT TÂM
BÀNG KHUỆ VĨNH TRÁC
Nói
đến Bàng Khuệ thiền sư, thì không thể không đề cập đến
“Bất Sanh thiền” của ngài, đây là một loại thiền pháp
khác với mọi người, nó làm cho người cảm thấy khoáng
đạt vô hạn, khoát tịnh đạm bạc, nhưng lại giàu về Đại
Chúng tính, trong tầm thường đã xen lẫn mùi vị đạc thù.
Không giống thiền gia hiện đại, chỉ một mực dạy người
ngồi thiền, chỉ ngồi thiền! Như tuồng nếu không trải
qua hình thức ngồi thiền thì không thể nào liễu giải thiền
được – như thế là bị câu nệ không thông, chẳng những
thế còn làm cho người đi làm hằng ngày nhưng có nhân duyên
với thiền càng ngày càng xa cách.
Bàng
Khuệ thiền sư đề xướng “Bất Sanh thiền”, người ta
có thể tự hiểu rằng đây là loại thiền mà chúng ta có
thể thực hành được, và qua nó, chúng ta có thể có đủ
thuận duyên để tiến vào thế giới của thiền.
Bàng
Khuệ Vĩnh Trác ( 1622 – 1693), là một cao tăng của Lâm Tế
Tôn ở thời đại Giang Hộ. Ông chủ trương phế trừ công
án, trực tiếp thâm nhập Phật tánh bất sanh bất diệt, đây
tức là “Bất Sanh thiền” (Bàng Khuệ thiền sư đã không
tự xưng như vậy, mà do người hậu thế tặng cho danh xưng
ấy). Lúc bấy giờ có rất nhiều vua chúa vì kính mộ dại
danh của ngài mà theo quy y tam bảo. Tương truyền rằng, đệ
tử theo ngài học pháp nhiều đến con số 5 vạn.
Nội
dung dưới đây là tiết lục từ “Bàng Khuệ thiền sư pháp
ngữ tập” để thuyết minh “Bất Sanh thiền” của ngài,
tạm dịch như sau
Nay
ta muốn nói với các vị rằng, có một món đồ vật mà chúng
ta vừa sanh ra là đã có sẵn, vật ấy không gì khác hơn đó
chính là một trái tim của Phật. Quả tim Phật này vốn vô
sanh, hơn nữa nó linh minh đổng triệt. Bởi vì không sanh cho
nên vạn sự được điều hòa đầy đủ. Bất sanh cho nên
điều hòa đầy đủ điều đó chứng minh rằng: Nay các vị
hướng về ta, khi chuyên tâm ngưng thần để nghe ta diễn giảng,
tai các vị tuy cũng đồng thời nghe chim kêu ở phía sau, nhưng
không có động niệm để phân biệt tiếng kêu đó là tiếng
quạ hay chim sẻ kêu, đây tức là lấy Phật tâm bất sanh
để nghe. Giống như vậy, vạn sự vạn vật vì bất sanh mà
sẵn gồm đầy đủ tính điều hòa. Đây là chứng minh của
sự bất sanh. Nếu khi đó có thể lấy Phật tâm bất sanh
mà linh minh tự xử, mà quyết định không nghi, thì người
ấy tức là Phật sống, là một đấng Như Lai. Bởi vì có
thể lấy Phật tâm để tự xử nên tôn môn của chúng ta
được gọi là Phật tâm tôn.
Các
vị tại tọa, các vị ngồi hướng mặt về đây, đừng nên
phân biệt những tiếng kêu phía sau là quạ hay chim sẻ, tiếng
chuông hay tiếng trống, tiếng đàn ông hay tiếng đàn bà và
tiếng người lớn hay tiếng trẻ nít v.v., các vị chỉ nghe
mọi thứ tiếng, rõ ràng nhưng không phân biệt, đây tức
là đức dụng tâm linh minh. Cái gọi là Phật tâm, là bất
sanh linh minh vậy, đây tức là chứng minh của tánh linh minh.
Mọi
người chúng ta sanh ra đều sẵn có “Phật tâm”. “Phật
tâm” này trong danh tướng Phật học truyền thống gọi là
“Phật tánh”, cũng tức là tánh có khả năng thành Phật,
thể tánh thuần tịnh rỗng lặng, an lạc tuyệt đích. Dù
là phàm phu như chúng ta, một khi sanh ra là đã sẵn có đủ
Phật tánh, cho nên phàm phu cũng có thể thành Phật. Nếu nói
ngược trở lại, nếu không có Phật tánh, thì phàm phu không
thể nào thành Phật... đây là giáo nghĩa Phật giáo truyền
thống.
Bàng
Khuệ thiền sư gọi “Phật tánh” là “Phật tâm của bất
sanh” hoặc “Bất sanh”. Nếu nói rõ hơn, tức là ý nói
“Phật tâm bất sanh bất diệt”, cũng có thể nói là “Phật
tâm siêu việt sanh diệt”. Nhưng sở dĩ Bàng Khuệ thiền
sư không nói “Bất sanh bất diệt’, mà chỉ nói “Bất
sanh”, bởi lẽ ngài lấy lý do như sau để thuyết minh:
Nhưng,
ta sở dĩ nói “Bất sanh” mà không nói “Bất diệt” là
bởi vật đã bất sanh thì làm gì có sự bất diệt? Đã nói
bất sanh, cũng tức là nói rõ cái lý bất diệt, cho nên nói
thêm bất diệt là vô ích. Từ xưa đến nay trong kinh luận
đa phần gọi bất sanh bất diệt. Nhưng lại không chứng minh
được đạo lý của nó, vì thế mọi người chỉ nhớ bất
sanh bất diệt, mà không hiểu rõ một cách chắc chắn về
lý lẽ bất sanh.
Mỗi
con người chúng ta vì vốn có sẵn “Phật tâm bất sanh”,
cho nên chúng ta có thể nghe được tiếng quạ kêu và tiếng
chim sẻ kêu, “Như Thật tri kiến” như thế thì đối với
những hình thái hiện hữu của vạn vật vật có thể tri
kiến như thật, rõ rõ ràng ràng mà không phân biệt, Phật
giáo gọi đó là giác ngộ. Nếu chúng ta có thể lấy “Phật
tâm bất sanh” nầy để hiểu biết vạn vật trên thế gian,
thế thì đâu còn có gì để phiền não và lo lắng?
Chỉ
cần mọi người có thể cứu cực Phật tâm linh minh và bất
sanh nầy mà quyết định không nghi ngờ Phật tam bất sanh
của chính mình, thì có thể nói là từ hôm nay đến nhiều
đời ở vị lai đích thị là Như Lai Phật sống. Nếu “Phật”
chỉ là một danh tướng, như thế nếu người giác ngộ được
lý bất sanh thì đó chính là ở nơi căn bản của chư Phật.
Phật tâm bất sanh là nguồn gốc của tất cả, cái mở đầu
cho tất cả. Không có bất sanh, thì không có nguồn gốc của
tất cả, vạn vật cũng không có cái gọi là mở đầu, cho
nên nói Phật sanh bất sanh là căn bản của chư Phật.
Có
thể nói, nếu có thể hiểu rõ chân nghĩa “Bất sanh” của
Bàng Khuệ thiền sư thì có thể thành Phật, thậm chí với
sự hiểu biết tức là Phật rồi.
Các
vị tại tọa hôm nay, không người nào là phàm phu tục tử.
Bởi vì các vị tại tọa đều có một Phật tâm bất sanh.
Nếu có ai tự cho mình là phàm phu thì xin mời ra ngoài! Để
chúng tôi xem thử rốt cuộc là thế nào phàm phu, nhưng xin
thưa đây quả thực là một việc tương đối ân hận...
Được
rồi! Các vị tại tọa tuy không ai là phàm phu tục tử cả,
nhưng nếu nay bạn từ chỗ ngồi đứng lên đi tới cửa,
khi sắp bước qua ngạch cửa có người bước đến không
những cản trở đường đi của bạn mà còn cố ý đụng
ngã bạn nữa, bởi vậy mà bạn giận dữ, lúc bấy giờ lấy
“Tâm của Tu La (1)” thay thế Phật tâm, như thế tức khắc
từ Phật biến thành phàm phu.
Tất
cả điên đảo mê vọng đều là như thế, vì tham lấy những
việc lợi ích cho mình mà đấu tranh với người khác, lúc
ấy Tu La tâm thay thế Phật tâm mà mê mất tự ngã, bất cứ
lợi ích dù lớn đến đâu cũng đề vô bổ. Nếu có thể
không tham, không mê luyến tự thân hoặc sự vật có lợi
ích cho mình mà chỉ dựa theo Phật tâm tự xứ, bất kể ngoại
tại sự vật thế nào, đều không thể mê mất tự ngã. Đây
tức là cái gọi là lý do lấy Phật tâm bất sanh tự xứ.
Vì thế nếu có thể quyết định liễu ngộ Phật tâm bất
sanh, trong sự liễu ngộ ấy thật xứng đáng gọi là Phật
sống Như Lai.
Tiếp
đến chúng ta hãy xem vấn đáp giữa Bàng Khuệ thiền sư và
một vị tăng nhân. Nội dung vấn đáp tuy bị chê là hơi dài
dòng, nhưng vì muốn độc giả có thể hiểu một cách đầy
đủ rõ ràng phương pháp thực tiễn của điều gọi là “Bất
Sanh thiền”, thế nên bút giả cố gắng không sử đổi và
cắt giảm để nó hiện ra một cách hoàn chỉnh – (Dịch
văn):
Tăng
nhân hỏi rằng: “Tôi sanh ra tánh vố nóng nảy, gia su nghĩ
đủ cách cũng vô phương cải chánh cá tánh tôi. Tuy là tôi
tự biết đó là một bệnh tương đối không tốt và cũng
biết rằng không sửa không được, nhưng vì sanh tánh như
thế nên bất cứ thế nào cũng vẫn không sao sửa nổi, hy
vọng lần nầy có thể được sự chỉ thị của thiền sư
mà cải tiến nó. Nếu thật có thể sửa được cái tật
xấu nầy, tôi sẽ cả đời ghi tạc trong lòng, cảm kích vô
tận”.
Thiền
sư đáp rằng: “Đây là vấn đề lý thú. Không biết cái
bệnh nóng nảy lúc nầy phải chăng ở trên mình ông, nếu
có, xin mang ra đây để ta sử cho!”
Tăng
thưa: “Hiện tại không có, không biết lúc nào nó sẽ đột
nhiên phát tác”.
Thiền
sư bảo: “Đủ thấy cái bệnh nóng nảy không phải do trời
sanh ra! Bất cứ lúc nào và nơi đâu, khi nào nhân duyên tụ
hợp thì nó tự nhiên phát sinh. Vì do tham đắm sắc thân của
mình, việc gì cũng nghĩ mãi về sự vật ngoại tại. Bởi
do dục niệm tư ngã quá mạnh nầy mà nóng nảy tự nhiên
theo đó phát sanh. Vì thế nếu nói cái bệnh nóng nảy nầy
là trời sanh, tức là đặt cha mẹ vào chỗ bất nghĩa, có
thể nói đó là người đại bất hiếu. Phải biết rằng
những cái mà cha mẹ đã cho chúng ta, ngoại trừ một tâm
Phật ra thì đã không có bất cứ một cái gì khác. Bởi tự
mình tham đắm sắc thân mà ra tư ngã, nếu cho rằng trời
sanh như thế thì đã sai lớn và sai đặc biệt. Không có ý
niệm tư ngã thì tự nhiên cái tánh nóng nảy cũng không biết
từ đâu mà sanh, tất cả vọng tưởng điên đảo cũng thế.
Bởi vì tham trước tự thân, cho nên có dục vọng tư ngã
phát sanh và vì do ở sự che đậy của dục vọng ấy, mà
đối với tất cả sự vật lại nẩy ra vọng tưởng điên
đảo. Chúng sanh bởi vì tập tánh sử nhiên, mà cứ lầm cho
rằng vốn là trời sanh như thế. Đã không phải chỉ một
người bạn này như thế mà có thể nói hầu hết người
đời đều có vọng tưởng điên đảo như vậy. Vọng tưởng
thay thế Phật tâm, muốn dập tắt vọng tưởng thì lại thành
ra lấy vọng mà đình vọng, bởi do kết quả tích trữ không
ngưng của vọng niệm mà tạo thành tập khí không có xuất
xứ, bỗng nhiên mang nó đổ cho thiên tánh mà cho rằng không
phương cải chánh. Nhất thiết phải nhớ! Nên nhớ! Nhất
niệm sanh mê thì ác nghiệp tự khởi, như nước chảy vào
một cái lỗ thấp, một khi rơi vào tam ác đạo (2), e rằng
trải qua vạn kiếp cũng không thể phục sanh. Ví như cho cái
việc nguyên nó là ác, nhưng do vì đó là sở thích của mình
nên một khi người khác chán ghét thì sanh lòng hận oán, hơn
nữa, điên đảo thị phi, gọi ác là thiện. Hoặc vì tập
khí tự tư, khiến cho nguyên là việc thiện nhưng vì mình
ghét do đó một khi người khác vui thích, thì lại bảo rằng
có gì để đáng mừng, hơn nữa, điên đảo thị phi, gọi
thiện là ác.
Đối
với tất cả sự vật bởi vì nhất niệm sanh mê mà điên
đảo thị phi, không phân biệt được thiện ác, từ đó sau
khi chết chắc chắn sẽ rơi vào con đường súc sanh, luân
chuyển đến khi sanh vào trong loài chim, thú, trùng, cá và đợi
đến khi chịu hết nghiệp báo lại rơi xuống địa ngục,
mãi bị đọa đày chịu đụng vô lượng thống khổ, thiết
nghĩ nếu muốn tái sanh vào cảnh giới loài người, cơ hội
đó giống như chờ đợi hoa ưu đàm nở (3) rất là xa xăm
mù mịt. Mỗi người tại tọa đều là những người đang
rất hạnh phúc, đã được sanh ra làm người mà còn được
nghe Phật pháp.
Nay
mọi người ở đây còn nghe được Phật tâm bất sanh mà
mọi người đều có, Phật tâm nầy vì bất sanh nên là đại
pháp của linh minh, cũng như hoa ưu đàm nở thật quy, khó tìm.
Nhưng nguyện mọi người vì thế mà hiểu rõ – chúng sanh
bởi vì tham trược tự thân mà sanh mê, vì mê mà tạo nên
tập khí làm cho chính mình nghĩ rằng trời sanh là thế --
Sai lầm như thế nếu có thể quyết định lấy Phật tâm
sự xứ mà không sanh mê nữa thì tốt biết dường nào. Nhưng,
trên thực tế chúng sanh thường vì không thể nộ sự tôn
quý của Phật tâm mà cứ chấp mê nên không giác ngộ. Nên
biết, phàm phu kỳ thực chỉ là nhất thể, chẳng phải ở
ngoài tâm thức còn có một món vật khác có thể khai ngộ
thành Phật. Mong rằng mọi người có thể tỉ mỉ thể hội
cái đạo lý nầy.
Nguyên
nhân ông nóng nảy, là bởi khi sự vật ngoại tại không thuận
theo tâm lý của ông, do sự ham muốn của tư ngã đã làm cho
ông muốn gấp rút sử đổi nó cho nên mới cảm thấy nóng
nảy, giống như cái bệnh vì dục vọng tư ngã mà sanh nhưng
lại cứ cố chấp cho là trời sanh, vì thế đã đặt cha mẹ
vào chỗ bất nghĩa, có thể nói đó là người đại nghịch
bất đạo. Còn nữa, nếu quả thật là do trời sanh, tất
nhiên không giây khắc nào có thể lìa khỏi thân ông, thế
thì muốn cải sửa cũng không thể được. Đã chứng minh
rằng không phải trời sanh, đủ thấy vẫn là cái gì có thể
sửa được.
Bệnh
dễ nóng nảy này là bởi khi lục căn (4) đối với lục cảnh
(5), do ở tham trước tự thân nên khi ngoại cảnh không vừa
lòng thì cái k hông vừa lòng lúc ấy tự nhiên hiển hiện.
Nếu không phải nghĩ cho mình, thì tự nhiên cũng không có
cái bệnh như thế phát sanh.
Hôm
nay mọi người đều đã biết về đạo lý nầy, vậy hãy
thử dùng thời gian một tháng để thử chiến thắng tự ngã
và lấy Phật tâm bất sanh tự xứ xem sao! Nếu có thể hàm
dưỡng, nuôi lớn thói quen lấy Phật tâm bất sanh tự xứ
ấy và tin rằng mọi người chắc chắn có thể lần lần
không vị ngoại vật mê hoặc mà sanh vọng niệm và nếu có
thể thời thời khắc khắc đều đặt ở Phật tâm bất sanh,
thì đó chính là Phật sống Như Lai hiện thế. Các vị tại
toạ! Mọi loại ví dụ trước đây, hôm qua đã chết, mọi
loại vị dụ hôm nay phát sanh. Thì cứ cho là hôm nay bắt
đầu một cuộc hành trình mới mẻ của nhân sinh! Có lẽ
đời ngư2ơi tự nó vốn có rất nhiều sự vật làm trở
ngại các bạn nên khiến các bạn không thể cách nào nghe
tin để đi vào thực tiễn, hiện nay cứ cho là thay đổi một
nhân sinh mới, không lo không lắng, sau khi nghe đại pháp nầy,
có thể phụng hành tức khắc, tất nhiên thành tựu sẽ đến.
Nếu
dựa vào lời nói của Bàng Khuệ thiền sư thì những việc
ấy dường như chúng ta đều có thể làm được. Chúng ta
hãy thử thực tập một tháng xem sao! Nếu giữa đường mà
không may thất bại thì xin bắt đầu lại nữa. Tóm lại,
việc làm cho con người mười phần vui vẻ, vì lẽ làm như
vậy, không những có thể trừ được phiền não là không
có thời gian đến thiền đường nên không học thiền được,
mà hơn thế còn có thể ở trong sinh hoạt thường ngày đi
vào thực tiễn của nó. “Bất sanh thiền” như thế không
phải chính là một loiạ thiền pháp thích hợp với những
con người hiện đại như chúng ta sao?
Chú
(1): Giản xưng của A Tu La, là một loại quỷ thần thường
chiến đấu với trời Đế Thích
Chú
(2): Phật giáo đem thế giới chưa khai ngô nên bị luân hồi
chia làm 6 đường, tức là thiên, nhân, tu la, súc sanh, ngạ
quỷ và địa ngục. Trong ấy 3 đường súc sanh, ngạ quỷ
và địa ngục là thế giới khổ đau không thể chịu nổi,
cho nên gọi là “Tam ác đạo”
Chú
(3): Trong truyền thuyết là loại thực vật cứ mỗi 3000 năm
mới nở hoa một lần.
Chú
(4): Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, Mắt là thị căn, tai là
thính căn, mũi là xú (ngửi) căn, thiệt (lưỡi) là vị (mùi)
căn. Thân là xúc (chạm) căn, ý là căn của tư duy suy nghĩ.
Căn có nghĩa là năng sanh, như cỏ cây có căn nên có thể
sanh nhánh và thân cây; thức dựa vào căn mà sanh, có nhãn
căn thì có thể sanh nhãn thức, ngoài ra cứ theo đó mà suy.
Chú
(5): Còn có tên là lục trần, tức là sắc, thinh, hương, vị,
xúc, pháp, vì thế lục cảnh là nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân,
ý, cảnh được tiếp xúc, là đối tượng của lục căn,
nên gọi là lục cảnh.