CHƯƠNG
II
HƯỚNG
CAO TĂNG HỌC TẬP THIỀN TÂM
THAM
CẦU CÔNG ĐỨC LÀ VÔ CÔNG ĐỨC
BỒ ĐỀ ĐẠT MA
Nói đến “Võ Đế”, nếu nhìn mặt chữ chiết, thì đường
như có vẻ đó là một ông Võ đế thô bạo hoang dâm. Trên
thực tế, vị Lưong hoàng đế của thời đại Nam Bắc triều
Trung Quốc này đã được vinh danh là một vị có quá trình
tu dưỡng đạo đức nhất trong những hoàng đế trong thời
đại đó. Còn thời gian chấp chánh của ông có thể gọi
là thời đại vàng son của văn hóa Nam triều. Do Lương Võ
Đế hết mực tín ngưỡng Phật giáo, kiến thiết chùa chiền
khắp nơi, kính lễ tăng lữ, đã tạo cho thủ đô đương
thời có một sinh khí “khoẻ mạnh” và trở thành nơi hội
tụ du học của tăng lữ khắp nơi. Nhưng, cũng bởi vì Lương
Võ Đế đã sử dụng tài lực quá độ trong việc bảo hộ
Phật giáo nên đã bị chỉ trích là nguyên nhân khiến cho
tài chánh quẫn bách, quốc lực suy thoái.
Lương Võ Đế đã từng đích thân mở đường giảng giải
“Kinh Bát Nhã” và “Kinh Niết Bàn” (1), đồng thời đã
lấy đó làm hãnh diện. Vì thế, khi ông hội kiến với Bồ
Đề Đạt Ma tổ sư từ Thiên Trúc Ấn Độ xa xôi vào Trung
Quốc, ông đã không thể tránh khỏi lộ ra vẻ mặt đầy
thần sắc tự đắc tự mãn. Bấy giờ Lương Võ Đế hỏi
Đạt Ma tồ sư rằng “Từ khi trẫm tức vị đến nay, kiến
lập chùa chiền không ít, in ấn kinh điển cũng nhiều, và
còn cung dưỡng vô số tăng ni, theo ngài, công đức của tôi
được bao nhiêu?”
“Không có chút công đức nào để nói”. Đạt Ma tổ sư
lạnh lùng đáp.
Nghe câu trả lời này, Lương Võ Đế giật nẩy mình, nên
liền chuyển qua đề tài khác: “Thế nào là Thánh đế đệ
nhất nghĩa?” (Tức chân lý tối cao là gì?)
“Quách nhiên vô thánh” )Rỗng lặng, như nhiên, không gì
là Thánh)
“Nếu vậy, thì đối diện với trẫm là ai?”
“Không biết”.
Câu chuyên vấn đáp đến đây chấm dứt, Lương Võ Đế đã
không thể hỏi thêm bất cứ điều gì. Sau khi Đạt Ma tổ
sư gặp Lương Võ Đế, ngài cảm thấy cơ duyên không hợp,
nên liền lập tức qua sông đi lên mạn Bắc, tiến vào Sùng
Sơn Thiếu Lâm tự (2) của Nguỵ quốc (Bắc Nguỵ), ngồi diện
bích, mặt nhìn vào vách tường trong suốt 9 năm.
Ở Nhật Bản có một loại đồ chơi “ông vô ngã” được
trẻ nít gọi là “Đạt Lỗ Ma” (Đạt Ma), hình bầu như
cái hồ lô, không tay không chân, trẻ con thường vừa chơi
vừa hát đùa: “Đạt Lỗ Ma tiên sinh, Đạt Lỗ Ma tiên sinh,
làm ra cái mặt ma, mắt lớn trừng mắt nhỏ...” Ngay học
sinh trung học ở Nhật đôi khi cũng vẽ hình tướng Đạt
Lỗ Ma trên giấy khảo thí để tỏ ý rằng đề mục khó
quá, đến tay chân cũng không mang ra dùng được (Nhứt trù
mạc triển). Thực ra, cái hình nộm mô phỏng ông vô ngã này,
chỉ tượng trưng tư thế ngồi thiền đến độ tay chân thoái
hóa, không cần dùng đến, là cách vay mượn để bày tỏ
thủ pháp chuyên chú tu hành của ngài.
Hãy đọc lại cuộc đối đáp của Đạt Ma tổ sư và Lương
Võ đế lần nữa! Đây là nguyên văn:
Vua hỏi: “Trẫm tức vị đến nay, tạo chùa, in kinh, độ
tăng, không thể kể xiết, có công đức gì không?” Tố bảo:
“Chẳng có công đức”. Vua hỏi: “Tại sao không có công
đức?” Tổ đáp: “Như nhân quả hữu lậu của Nhân Thiên,
chẳng khác nào như bóng theo hình, tuy có mà không thật”.
Vua hỏi: “Thế nào là chân công đức?” Đáp rằng: “Tịnh
trí diệu viên, thể tự không tịch, như thị thiên đức,
bất dĩ thế cầu” (Trí Huệ thanh tịnh, mầu nhiệm viên
dung, thể tánh tịch lặng chân không như thế mới đích thực
là chân công đức, không thể dùng tâm thế tục để truy
cầu). Vua lại hỏi “thế nào là Thánh đế đệ nhất nghĩa?”
Tổ đáp: “Quách nhiên vô thánh”. Vua hỏi: “Người đối
diện với trẫm là ai?” Tổ đáp: “Không biết”. Vua không
lãnh ngộ. Tổ biết cơ duyên không hợp thuận nên ngày 19
tháng ấy đã lên đường đi về giang Bắc.
[Quyển thử, Cảnh Đức truyền đăng lục” (3)]
Đọc đến đây, chúng ta phảng phất trông thấy thần sắc
kinh hoàng thất sắc của Lương Võ Đế. Lương Võ Đế tự
cho rằng tạo chùa, viết kinh, cúng dường chư tăng v.v. công
quả tích luỹ ắt nhiên không ít, vì thế mong nhờ Đạt Ma
tổ sư ban phát đôi lời khẳng định và tán thán. Không ngờ
Đạt Ma tổ sư đã tỏ thái độ lạnh lùng bằng cách bảo
với ông rằng: “Chẳng có công đức”. Một lời phủ định
tất cả. Nếu ngay lúc ấy mà Lương Võ đế có thể giác
ngộ thì sẽ nhận ra câu trả lời “không công đức” của
Phật Ma là dùng thủ pháp chặt đứt, phá vỡ ngằn mé để
đối phương trực nhận ra rằng phước đức hữu vi này chỉ
là sự thọ quả rất nhỏ của thế gian thôi, nếu lấy đó
làm tự mãn và cho là thành tựu ghê gớm thì tác dụng sẽ
bị đảo ngược. biến thành nguyên nhân của dục vọng. Vì
thế, cách trả lời của Đạt Ma Tổ sư chẳng phải là ngài
phủ định hoàn toàn những giá trị tạo chùa, viết kinh,
cúng dường tăng chúng, mà chỉ muốn đả phá cái chấp trước
bố thí công đức của Lương Võ đế, để từ đó có thể
thăng tiến một cách siêu việt.
Nhưng khổ nỗi, Lương Võ đế chỉ là phàm phu. Do vậy, hiển
nhiên những việc ông tạo chùa, chép kinh, cúng dường chư
tăng trên danh nghĩa thì vì Phật giáo, nhưng trên thực tế
chỉ là vì mình.
Một mẫu chuyện khác, đó là lời vấn đáp giữa Đạt ma
Tổ su và Thần Quang Huệ Khả thiền sư (Huệ Khả theo hầu
Đạt Ma tổ sư, sau này được Đạt Ma Tổ sư truyền y bát
và trở thành Tổ su đời thứ Hai của thiền tôn Trung Quốc)
Một hôm, Huệ Khả đến chùa Thiếu Lâm Sùng Sơn đề thỉnh
bái Đạt Ma tổ sư đang tọa thiền diện bích.
“Ngã tâm vị ninh, khất sư dữ an” (Tâm con chưa an, xin Tổ
làm cho tâm con được an)
Khai ngộ thì tâm sẽ an, đây là mục đích của thiền (Phật
Giáo). Nhưng Huệ Khả vì xưa nay chưa đạt được cảnh giới
ấy, cho nên tìm đến thỉnh cầu Đạt Ma tổ sư để nhờ
chỉ đạo. Đạt Ma tổ sư trả lời:
“Tương tâm lai, dữ nhữ an” ( Hãy đưa tâm cho ta, ta sẽ
an tâm cho con)
Khi Huệ Khả nghe câu “Hãy đem tâm ấy đưa cho ta, thì ta
sẽ giúp cho ngươi an định nó”, liền muốn trả lời “Được!”
theo cái quả của “Vọng tâm”, nhưng trên sự thật thì
đó là cái hư ảo không thật. Vốn không một vật, tâm còn
muốn yên nổi gì? Nhất niệm dấy lên, tức là vọng tâm,
một mực chấp vọng là thật, thì sẽ sản sinh phiền não.
Đạt Ma tổ sư đã chỉ rõ đích danh chỗ xuất phát phiền
não của Huệ Khả.
Trong tất cả giáo phái Phật giáo, Thiền tôn là tôn không
lập văn tự, biệt truyền ngoại giáo (bất lập văn tự,
giáo ngoại biệt truyền). Gọi là “Không lập văn tự”
chính là nói không câu nệ vào văn tự, bởi vì phần lớn
con người dễ mang văn tự của kinh điển làm tiêu chuẩn
cho mọi hành động [Khuê Niệp], còn “bất lập văn tự”
của thiền tôn nghĩa là muốn vượt thoát cái khuôn sáo của
văn tự để nắm vững tinh thần căn bản về những lời
dạy của đức Phật. Điều được gọi là “giáo ngoại
biệt truyền” có nghĩa là ly khai kinh điển, ý nói Phật
giáo do đức Thích Tôn trực tiếp dùng phương thức truyền
dạy bằng miệng, chiếu theo thuận ngôn của su phụ và đệ
tử để truyền thừa. Cũng tức là nói “Thiền Tôn” không
lấy kinh điển được văn tự hoá, giáo nghĩa hóa, hoặc cố
định hóa để giáo huấn chúng sanh.
Sở dĩ Phật Giáo Nguyên Thuỷ sử dụng phương thức quán
sát căn cơ để từ từ giáo hóa, lý do là vì thiền tôn quá
chú trọng đến phương thức giáo học hoạt dụng linh hoạt
này, đồng thời đã quan tâm cứu xét một cách đặc biệt
đến mọi vấn đề hiện thực. Vì thế cái phương thức
“dĩ tâm ấn tâm” chỉ có thể do sư phụ trực tiếp truyền
thụ cho đệ tử.
Chú
(1): “Bát Nhã Kinh” và “Niết Bàn Kinh” đều là kinh điển
đại biểu của đại thừa Phật giáo. Trong ấy nổi tiếng
nhất là “Bát Nhã Tâm Kinh” của “Bát Nhã Kinh”. “Tâm
Kinh” chỉ có hơn 200 chữ ngắn, lại là tinh tuý của cả
bộ “Bát Nhã Kinh”
Chú
(2): Biệt phong – Sườn núi thiếu nhất của Sùng Sơn huyên
Đăng Phong, tỉnh Hà Nam Trung Quốc do Hiếu Văn Đế Bắc Nguỵ
sáng tạo và kiến lập vào Tây nguyên năm 296. Đã từng một
lần vì Bắc Châu Võ đế phế Phật mà bị phá hoại, sau
đó được trùng kiến vào thời Tùy Đường là nơi phát tường
của Võ công Thiếu Lâm
Chú
(3): Xem “Cảnh Đức truyền đăng lục”, do xuất bản xã
Chân Thiện Mỹ, năm 1973, trang 42